Ngày 14-3-1869, một sự kiện gây xôn xao không chỉ ở Bắc Kỳ mà cả ba miền đó là việc ra đời hiệu ảnh đầu tiên do người Việt Nam làm chủ của ông Đặng Huy Trứ ở phố Thanh Hà. Như vậy là sau 30 năm kể từ ngày nhà khoa học Pháp Joseph Nicéphore Niepce đã tạo ra bức ảnh đầu tiên trên thế giới (khoảng năm 1826-1827), nhiếp ảnh đã xuất hiện tại Việt Nam. Không chỉ mở cửa hàng ảnh mà ông còn mở 3 cửa hàng kinh doanh bao gồm: Lạc sinh điếm, Lạc đức điếm và Lạc thanh điếm cũng ở phố Thanh Hà. Tuy nhiên hiệu ảnh của ông cũng chỉ hoạt động được mấy năm, đóng cửa khi Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất (1873).
Đặng Huy Trứ sinh ngày 16-5-1825 quê ở xã Hương Xuân, huyện Hương Trà (tỉnh Thừa Thiên - Huế). Năm 1847, ông đỗ thi Hương và thi Hội nhưng khi thi Đình thì bị phạm húy nên bị cấm thi trọn đời. 8 năm sau, nhờ một vị quan tâu vua Tự Đức xin cho thi lại và ông đỗ tiến sỹ vào năm 1855 được bổ làm Bình chuẩn sứ Hà Nội. Năm 1866, nhân sang Trung Quốc, ông chụp hai tấm ảnh ở Hương Cảng. Những bức ảnh làm ông mất ngủ và ông đã hỏi rất kỹ cách chụp, in tráng vì ông có ý định mở cửa hàng. Năm 1867, ông lại được nhà Nguyễn cử đi công cán Trung Quốc và lần này ông nhờ thợ ảnh ở Quảng Đông mua hộ máy và vật tư. Ông mở hiệu ảnh ở Hà Nội vì cuộc đời làm quan của ông phần lớn ở đất Bắc. Trước cửa hiệu Đặng Huy Trứ treo đôi câu đố:
Nhân yên trù mật Thanh Hà phố
Thiện niệm du hưng Cảm Hiếu Đường
(Thanh Hà phố ấy dân trù mật
Cảm Hiếu Đường đây khách nhiệt nồng)
Và
Hiếu dĩ sự thân nhân sở cộng
ảnh giai tiếu tượng thế tương truyền
(Hiếu thờ cha mẹ người người muốn
Ảnh giống chung nhau mãi mãi truyền)
Có thể coi đôi câu đối tự giới thiệu hiệu ảnh là hình thức quảng cáo đầu tiên ở Việt Nam. Khách hàng ban đầu của Cảm Hiếu Đường là các gia đình giầu có, quan trong triều từ Huế ra Hà Nội công cán. Ông tự thao tác hết mọi công đoạn. Cho đến nay, các tấm ảnh ông tự chụp cho ông vẫn còn được lưu giữ tại bảo tàng ở Pháp. Một thời gian sau, vua Tự Đức cử ông Trương Văn Sán ra nước ngoài học "tiểu phép chụp hình". Tự Đức cũng lệnh mở một cơ sở ở gần cửa Thượng Tứ (Huế) để ông Sán chụp ảnh cho vua cùng hoàng thân quốc thích. Hiệu ảnh Văn Sán là hiệu ảnh đầu tiên ở Huế và là hiệu ảnh thứ hai ở Việt Nam.Năm 1883, thực dân Pháp mang máy móc sang chụp cho binh lính để họ gửi về nhà chứng minh dù ở xứ nhiệt đới xa lạ nhưng họ vẫn khỏe mạnh, sau đó là chụp công chức người Việt để lưu vào hồ sơ. Năm 1890, khi vừa tròn 16 tuổi, Nguyễn Đình Khánh (tên thật là Nguyễn Văn Xuân, tức Vân, sinh năm 1874 tại làng Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, Hà Nội) được chú ruột đỡ đầu cho ra Hà Nội học nghề ảnh tại hiệu Du Chương của người Hoa ở phố Hàng Bồ. Đây là hiệu ảnh duy nhất vào năm đó. Vốn tính thông minh lại thêm năng khiếu đặc biệt về nghề ảnh, chỉ sau 2 năm Khánh đã thành thạo nghề ảnh và ra mở hiệu riêng lấy tên là Khánh Ký ở phố Hàng Da. Đến năm 1909, Nguyễn Đình Khánh mở thêm cơ sở ở Hà Nội và Nam Định. Nguyễn Đình Khánh đã dạy nghề cho người ở quê, mở ra thời kỳ người làng Lai Xá "làm mưa làm gió" trong nghề ảnh. Lai Xá vụt sáng thành làng nghề nhiếp ảnh duy nhất ở Việt Nam. Từ năm 1920 – 1935, có tới 18 hiệu ảnh do người Lai Xá đứng đầu mọc lên ở khắp Việt Nam. Vào những năm 40, 50 của thế kỷ trước, Hà Nội có trên 40 hiệu ảnh thì người làng Lai Xá nắm 33 hiệu với những tên hiệu vào loại nổi nhất Hà Thành như: Kim Lai, Mỹ Lai, Vạn Hoa, Thủ đô ảnh viện…Sau khi mở rộng nghề ảnh ra khắp đất nước, ông đã sang Pháp hành nghề. Từ năm 1911 đến năm 1915, ông mở hai hiệu ảnh Khánh Ký, một tại thành phố Toulouse, một tại thủ đô Pari và cùng cụ Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường lập ra "Hội đồng bào thân ái" vào đầu năm 1912 do chính ông làm thủ quỹ. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), ông cùng với Phan Văn Trường đến vùng Pháp mới chiếm tại Đức để buôn bán vật tư ảnh, cơ sở xuất nhập ở Francort và Maience. Còn tại Paris ông còn mở thêm tiệm ảnh ở Đại lộ Malesherbe. Khoảng năm 1919- 1920, ông sạt nghiệp. Tháng 7- 1921, ông về nước đem theo 400 kg vật tư ảnh.
Sau khi đi thăm Nhật về năm 1932, ông cổ đông cho phong trào đi du lịch ở Nhật giá rẻ để học cách làm ăn của xứ sở "Mặt trời mọc"sau đó bị bắt vào ngày 8- 8-1932 với tội danh đã liên hệ với Cường Để, phục vụ cho mưu đồ của Nhật và dính dáng với vụ gây rối năm 1932. Ra tù ông quay trở lại Pháp và qua đời ngày 31-5-1946. Năm 1920, Hà Nội có hiệu ảnh ở 86 phố Hàng Trống cũng khá nổi tiếng tên là Hương Ký. Bị bắt đi lính tham gia chiến tranh thế giới thứ I (1914-1918), may không phải cầm súng mà chỉ là lính thợ, mãn lính, Hương Ký học nghề ảnh và về Hà Nội mở hiệu.
Nói đến nhiếp ảnh Hà Nội không thể không nói đến công lao của Dieulefils, người chụp Hà Nội "mỏi tay" mà vẫn muốn chụp. Ông sinh ngày 21- 1 -1862 ở Malestroit, một làng nhỏ của xứ Bretagne miền bắc nước Pháp. Năm 1883, ông đi nghĩa vụ quân sự và đến Bắc Kỳ vào năm 1885. Dieulefils đóng quân ở Hà Nội nhưng cũng tham gia các chiến dịch của quân Pháp ở Bắc Kỳ và chính trong khoảng thời gian này, ông bắt đầu chụp ảnh. Sau 2 năm ở Bắc Kỳ, ông trở về Pháp nghỉ phép lấy vợ và quay trở lại Hà Nội vào tháng 7-1888 rồi mở một hiệu ảnh. Ông đã gửi những bức ảnh chụp Hà Nội và xứ Bắc Kỳ đi dự Triển lãm Quốc tế Paris tháng 4-1889 và được ban tổ chức trao huy chương đồng. Vợ ông đến Hà Nội năm 1889 và hai người sống trong một ngôi nhà khiêm tốn. Năm 1894, ông dọn về số nhà 53 phố Jules Ferry (Hàng Trống ngày nay). Chính tại địa chỉ này đã được ghi trên các bưu ảnh đầu tiên được phát hành sau đó. Cũng năm đó ông đã trúng thầu chụp ảnh căn cước dán trên thẻ lưu trú của người nước ngoài sống tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ (chủ yếu là người Trung Quốc). Việc đó đã tạo cho ông cơ hội đi nhiều nơi hơn để sáng tác. Tại triển lãm ảnh quốc tế ở Paris năm 1900 ông nhận được huy chương vàng cho những bức ảnh chụp Hà Nội và Đông Dương. Trở lại Hà Nội năm 1901, ông bắt đầu hoạt động trong việc phát hành bưu ảnh. Thiết bị nhiếp ảnh hồi đó rất nặng, cồng kềnh và dễ hư hỏng mà đường xá ở Bắc Kỳ không hề dễ dàng cho việc đi lại, đi chụp ảnh cũng đồng nghĩa là thám hiểm đã thế còn rất nguy hiểm nhưng lòng đam mê quá lớn khiến ông vượt qua tất cả. Từ khoảng năm 1900 đến 1905, thế giới bùng nổ phong trào bưu ảnh, không chậm trễ với trào lưu này, Dieulefils đã tham gia triển lãm ảnh quốc tế tổ chức tại Hà Nội năm 1902. Không chỉ trưng bày ảnh, ông còn đưa ra những bưu ảnh đầu tiên vì thế người ta đã gọi ông là "Nhà nhiếp ảnh thám hiểm và sản xuất bưu ảnh". Khách du lịch châu Âu đến Hà Nội không thể bỏ qua cửa hàng bưu ảnh của ông và trong món quà mang về từ xứ Đông Dương bao giờ cũng có những tấm bưu thiếp chụp Nhà hát lớn, hồ Gươm, Dinh Toàn quyền, chùa Một Cột, phố Tràng Tiền, chùa Quán Sứ... Bị ốm nặng năm 1904, ông phải trở về Pháp an dưỡng nhưng năm 1905 ông quyết định đi Campuchia, ngược dòng Mê Kông bằng tàu thủy từ Sài Gòn đến Phnôm Pênh rồi đi Angkor. Quay về Hà Nội, ông mở một cửa hàng mới ở Hà Nội tại 42 và 44 phố Paul Bert (Tràng Tiền ngày nay) rồi lại xuống tàu thủy về Pháp để tham gia Triển lãm Thuộc địa ở Marseille (từ ngày15-4 cho đến tháng 11-1906). Những bức ảnh của ông về Đông Dương lại được trao huy chương vàng. Năm 1909 ông xuất bản cuốn sách ảnh Đông Dương Tráng lệ và Kỳ vĩ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ trưng bày tại Triển lãm Quốc tế ở Bruxelles năm 1910 và ông lại thêm lần nữa ông được ban tổ chức trao huy chương vàng.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Dieulefils đều đặn trở lại Đông Dương tiếp tục sáng tác. Ông là nhà nhiếp ảnh thành công nhờ chụp con người,cảnh vật ở Đông Dương và điều đó cũng có nghĩa là ông đã quảng bá Đông Dương với thế giới. Người ta ước tính con số phim ảnh và bưu ảnh của Pierre Dieulefils lên đến 5.000 bản với mọi mặt của đời sống thường ngày ở Đông Dương thời đó. Nó giúp cho các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, tôn giáo khám phá Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Vân Nam (Trung Quốc) và Campuchia trong giai đoạn 1885 và 1925. Đồng thời nó là bằng chứng cản động về các khía cạnh của xã hội một thời. Trong hàng nghìn bức ảnh đó, bộ mặt Hà Nội một thời hiện lên và cho đến ngày nay nó lại càng giá trị không chỉ với Hà Nội mà còn cả với lịch sử Việt Nam. Hiện tại, người cháu ngoại của Pierre Dieulefils là Lionel Labastire (năm 2010, ông 62 tuổi) sống ở trung tâm thành phố Manosque, cách thủ đô Paris 800km về phía nam đang lưu giữ rất nhiều những tấm bưu thiếp, những bức ảnh liên quan đến Việt Nam cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Một điều bất ngờ là kho tư liệu cổ quí giá mà ông Labastire đang sở hữu không phải là "của thừa kế," mà do ông bỏ tiền của và công sức ra để sưu tập. Nhờ những bức ảnh hay bưu thiếp bao giờ cũng đóng triện hình chiếc lư đồng nhỏ kèm theo mã số và địa danh mà Pierre Dieulefils luôn có thói quen ghi chú trên mỗi tác phẩm của mình nên Labastire mới có thể tìm lại được ảnh của cụ mình. Ra đời khi cụ Pierre Dieulefils đã mất, những ký ức của ông Labastire về cụ ngoại chỉ là những câu chuyện mẹ kể và những bức ảnh gia đình chụp từ thời còn ở Việt Nam, nay vẫn còn lưu giữ được chút ít. Hiện ông Lionel Labastire đã tìm kiếm và tập hợp được hơn 2.500 tấm ảnh gốc và bưu thiếp, trong số đó có khoảng 100 bức ảnh in trên giấy cát (albumin) và khoảng 200 bức ảnh in trên giấy mịn. Đây là những tác phẩm gốc duy nhất của P.Dieulefils còn lưu giữ lại được cho đến nay.
Vào năm 1936, ảnh của Võ An Ninh và vào năm 1937, ảnh của ông Phạm Văn Mùi đã đượcgiải thưởng do "Hội khuyến khích Mỹ thuật và Kỹ nghệ Việt Nam" trao. Năm 2004, bức ảnh chụp bộ tóc thiếu nữ mượt mà uốn lượn như suối của Phạm Văn Mùi được bán đấu giá tại Thành phố Hồ Chí Minh. Trong giới nhiếp ảnh vẫn lưu truyền giai thoại về Võ An Ninh, cây đại thụ của làng nhiếp ảnh từng kiên trì "phục" suốt một tuần liền để chụp sương mù ở Sapa. Lần khác chụp được bức ảnh ưng ý cụ mượn dao chặt ngay cành cây đó để không ai chụp được bức ảnh giống cụ. Năm 1945, Võ An Ninh đã ghi vào ống kính hàng trăm bức về nạn đói ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ trong đó có nhiều bức chụp người chết đem chôn ở nghĩa trang Hợp Thiện (nay thuộc phường Minh Khai, quận Hai Bà Trưng). Một sự kiện lịch sử khác là các nhà nhiếp ảnh Hà Nội gồm: Vũ Năng An, Tô Na, Võ An Ninh, Đinh Đăng Định, Nguyễn Bá Khoản, Nguyễn Hồng Nghi, Đức Vân… chụp được rất nhiều ảnh trong ngày lễ khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong đó có ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đang đọc Tuyên ngôn độc lập.
Số nhà 11 phố Hàng Khay hiện là hiệu ảnh Quốc Tế, trước kia thuộc sở hữu của ông Phan Xuân Thúy. Ông Thúy cùng người anh rể mua lại ngôi nhà này với giá 65.000 đồng tiền Đông Dương vốn là hiệu chuyên bán giầy cho hãng Batta, để mở hiệu ảnh vào đầu năm 1954. Phan Xuân Thúy đến với nghề từ năm 1935, lúc mới 16 tuổi. Sở dĩ Thúy theo nghề này vì anh rể ở Pháp về nước mang theo đồ nghề và mở cửa hàng đầu phố Hàng Bài. Khi tự làm được ảnh, gia đình cấp vốn cho ông lên mở hiệu ở Sapa, sau đó lại về Hà Nội làm chung với anh rể. Năm 1945, khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, rất nhiều bộ đội đến hiệu Hàng Bài chụp làm kỷ niệm, nhờ thế mà em ruột ông đã gia nhập bộ đội và được phiên vào đơn vị bảo vệ Bắc Bộ phủ. Tết Bính Tuất 1946, Chủ tịch Hồ Chi Minh lúc này đang ở Bắc Bộ phủ đã mời gia đình các chiến sỹ quê Hà Nội vào ăn tết. Sáng mồng 1, Người cho rải chiếu và bầy cỗ ở sân sau. Cả nhà ông Thúy cùng vào và được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp đón ân cần. Sẵn máy, ông xin phép chụp kỷ niệm và Người đã đồng ý. Ông chụp bốn kiểu, sau này một trong bốn tấm ảnh đó được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Thời kỳ Pháp tạm chiếm Hà Nội, gia đình ông sơ tán lên Tuyên Quang mở hiệu ảnh sinh nhai. Bộ đội đến chụp rất đông. Ngày 10-10-1954, bộ đội về tiếp quản Thủ đô, nhiều chiến sỹ trong bộ quần áo vệ quốc đoàn đã ra hồ Hoàm Kiếm chụp ảnh kỷ niệm và họ nhận ra ông. Có sĩ quan quân đội quen biết gia đình hồi ở Tuyên Quang chuyển ngành sang ngành công an đã yêu cầu người dân làm chứng minh thư phải chụp ở Quốc Tế. Thế là từ 1955-1959, ông làm không hết việc. Ông Thúy chụp đẹp nên các đoàn trong Ủy ban đình chiến Quốc tế (gồm Canada, Ba Lan, Ấn Độ) giám sát thi hành Hiệp định Geneve đều thuê ông chụp bên hồ Hoàn Kiếm làm kỷ niệm. Họ còn mời vào trong chỗ đóng quân (trong Bưu điện) chụp cả lễ chào cờ. Trước khi cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, Hà Nội có 135 cửa hiệu nhiếp ảnh, nổi tiếng có Quốc Tế, Tam Anh, Vũ Ninh, Hoàng Hải... Từ 1960-1965 các hiệu này được tổ chức lại thành 6 cửa hàng quốc doanh, 8 hợp tác xã và 8 cửa hàng công tư hợp doanh. Hiệu ảnh Quốc tế thành công tư hợp doanh, song người ta vẫn giữ tên hiệu Quốc Tế. Từ chủ nhà, chủ cửa hàng với máy chụp máy phóng trở thành nhân viên lĩnh lương tháng. Trong thời kỳ chống Mỹ,nhiều người có máy ảnh chỉ dám chụp loanh quanh gần nhà,ai bạo gan thì ra hồ Gươm,đi xa mà không phải là phóng viên có thể bị bộ đội hay công an bắt vì " làm gián điệp cho Mỹ". Thời kỳ "góp gạo thổi cơm chung" cũng có những cơ sở có tiếng tăm như hiệu Nắng Vàng (ở ngã 3 Lương Văn Can-Hàng Mành) chụp ảnh chân dung khá đẹp hay hiệu Nắng Thu ở Ngã Tư Sở. Do chỉ chụp trắng đên nên hợp tác xã nào cũng có tổ tô mầu để đáp ứng khách hàng thích ảnh mầu.Và cũng thời kỳ này nhiều hợp tác xã phóng hàng loạt ảnh nghệ sỹ nữ có tiếng bán cho bộ đội đi B. Đặc biệt là ảnh nhân vật Dianob trong bộ phim Trên từng cây số của Bulgari bán chạy như tôm tươi vì Dianob này đẹp trai và là thần tượng của các cô gái
Trong suốt thời gian dài,cả dân ảnh chuyên nghiệp lẫn không chuyên nghiệp đều phải dùng phim đen trắng Orwo (Cộng hòa dân chủ Đức), Svetma,Tarma (Liên Xô) còn giấy chủ yếu là của Đức, Liên Xô cộng thêm phần nhỏ giấy Tiệp Khắc và Hungari. Dân điện ảnh thì cắt phim cuộn dùng quay phim truyện ra chụp. Năm 1982, Hà Nội xuất hiện ảnh mầu và đơn vị làm ảnh mầu đầu tiên là Xí nghiệp ảnh của Thông tấn xã Việt Nam. Thuốc và giấy của Đức, sau có thêm giấy Formar của Tiệp. Song chất lượng không tốt, chỉ khoảng 6 tháng sau, mầu ảnh chuyển sang mầu tím và vàng. Thời kỳ này có một người làm ảnh mầu thủ công là ông Bùi Việt Hưng. Cuối thập niên 80, giới buôn máy, giấy ảnh hay ngồi ở ngõ Cấm Chỉ, tiếng tăm nhất là ông Lâm và Nhân. Chính vì thế cứ ai báo mất máy là cánh công an ra đây nghe ngóng thế nào cũng tìm ra. Vụ Văn phòng Chính phủ mất chiếc máy Nikon F3 tìm được bắt đầu từ đây. Phim và giấy Kodak vào Việt Nam khoảng năm 1984 qua ngả Thái Lan. Năm 1989, chiếc lab rửa ảnh tự động hiệu Norishu đầu tiên đặt ở 34 Bà Triệu do anh em ông Thắng Đại nhập về đã thu hút người chụp nghiệp dư, chuyên nghiệp đến đây làm ảnh mầu vì vừa nhanh giá hợp lý. Tiếp đó vào khoảng 10-1990 Thông tấn xã Việt Nam nhập về lab Fuji 27F với giá khoảng 100.000 đô la Mỹ đặt tại 77 Lý Thường Kiệt và chỉ hơn 5 tháng đã kéo lại được vốn vì lab hoạt động cả ngày lẫn đêm.
Chiều ngày 29-10-1999, nhà nhiếp ảnh nổi tiếng người Đức là Thomas Bichard đã dựng giàn giáo tre vây quanh đài phun nước ở quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục để treo 42 bức ảnh đen trắng khổ lớn chụp tại Hà Nội và miền Bắc trong chiến tranh chống Mỹ. Đây là triển lãm ảnh ngoài trời lần đầu tiên diễn ra quanh hồ Gươm. Có bức chụp bà cụ đang ngồi khóc bên cạnh xác đứa trẻ, có bức chụp một cô thanh niên xung phong với nụ cười tươi bên cạnh hố bom, lại có bức chụp những đôi mắt ngây thơ của những đứa trẻ ngồi trong hầm tránh bom, ảnh bệnh viện, trường học đổ nát... Thomas mở triển lãm với mục đích muốn tìm lại người trong ảnh. Thomas Bichard sinh năm 1937, học đồ họa và nghệ thuật ở Lepzich nhưng say mê chụp ảnh, ông xin vào làm việc tại hãng phim Defa (Cộng hòa dân chủ Đức) cho đến khi nước Đức thống nhất. Say mê chụp các sự kiện lịch sử và chính trị, ông đã đến nhiều quốc gia như: Nga, Chile, Bangladed... để chụp, nhưng có lẽ Việt Nam là quốc gia ông chụp nhiều ảnh nhất, với 300.000 bức. Ông đã triển lãm ảnh Việt Nam tại New York, Moscow, Paris, Berlin, London... và bức ảnh cô thanh niên xung phong Hồng Lý với nụ cười tươi bên hố bom trở nên nổi tiếng trên thế giới, rất nhiều tờ báo đã in bức ảnh này. Từ năm 1968-1985, ông đã viết 7 cuốn sách về Việt Nam trong đó có những cuốn: Những người phi công trong bộ quần áo tù (1967), Việt Nam mong muốn có hoà bình (1973), Hà Nội những ngày trước hòa bình... Triển lãm kéo dài một tuần thu hút số người đến xem đông chưa từng thấy. Thật bất ngờ cô gái Hồng Lý trong bức ảnh năm xưa đã nhận ra chính mình. Hai người gặp lại nhau và cô Lý đã mời Thomas đến thăm nhà ở Đê La Thành. Một người đàn ông ở phố Hàng Trống cũng nhận ra bà cụ ngồi bên xác đứa trẻ chính là mẹ ông và con trai ông. Đầu tháng 10-2007, tại gallery 39 A Lý Quốc Sư, cách hồ Gươm không xa có một triển lãm ảnh Vietnam 80-00 của nhà nhiếp ảnh không chuyên người Thụy Điển, bà Eva Lindskog và họa sĩ Lê Thiết Cương. Với 20 bức ảnh chụp về phong cảnh, con người, tầu điện, xếp hàng mua hàng tết, đưa dâu bằng xe đạp… ở Hà Nội thập niên 80 đã gây ấn tượng mạnh cho người xem trẻ tuổi và làm người xem cao tuổi bùi ngùi. Cuối thập niên 60, đầu 70 cùng với hàng nghìn người Thụy Điển, Eva Lindskog xuống đường phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Bà từng làm việc ở Đại sứ quán Việt Nam tại Stockholm. Tháng 3-1975, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã mời bà sang thăm Hà Nội hai tuần. Trước đó bà từng tình nguyện sang Việt Nam chiến đấu tại mặt trận Quảng Trị nhưng bị từ chối vì là người nước ngoài. Năm 1980, Lindskog trở lại đất nước mà bà yêu quý, gửi con ở Nhà trẻ Trung Tự, bà học tiếng Việt ở Trường đại học Tổng hợp. Sau đó bà làm việc cho Dự án hỗ trợ đời sống công nhân lâm nghiệp do Chính phủ Thụy Điển tài trợ tại Nhà máy giấy Bãi Bằng. 300 bức ảnh bà chụp trong thời gian sống và làm việc tại Hà Nội là tài sản mà bà cho là vô cùng quý giá. Bà hiểu Việt Nam những năm đó nên mỗi lần giơ máy lên chụp mà thấy công an là bà bỏ máy xuống ngay. Bà kể thời đó người nước ngoài muốn đổi Đô la Mỹ ra tiền Việt phải đến Ngân hàng Nhà nước và kèm theo hộ chiếu. Bà nhận thấy đổi ở Ngân hàng "thiệt" hơn nhiều so với chợ đen nên bà không đến Ngân hàng nữa. Công an cũng biết bà bán Đô la Mỹ ở đâu nhưng họ lờ đi.
Cuối thế kỷ XX nhiều triển lãm ảnh nghệ thuật được tổ chức, song ấn tượng nhất là hai triển lãm ảnh nude nghệ thuật. Những tấm ảnh nude đen trắng của họa sĩ Lê Thanh Đức trưng bầy tại Trường đại học Mỹ thuật Yết Kiêu vào khoảng năm 1990 thu hút rất đông người đến xem. Với các góc khác nhau cùng kỹ thuật buồng tối điệu nghệ Lê Thanh Đức đã tạo ra những bức ảnh nude tràn trề sức sống, sức thanh xuân mà không dung tục gây ấn tượng mạnh cho người xem. Triển lãm nude thứ hai diễn ra vào mùa hè năm 1996 ở Nhà Thông tin 45 phố Tràng Tiền. Đâu như ba hay bốn nhà nhiếp ảnh tham gia triển lãm trong đó có Trần Huy Hoan. Ảnh nude của Hoan được dàn dựng có tính toán, mầu sắc cải lương, không gian mở như vô tận gây cho người xem cảm giác lãng mạn, bay bổng pha chút bí ẩn. Có bức vượt qua ngưỡng ảnh đạt đến độ hội hoạ. Trước khi học quay phim ở Trường đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội, Trần Huy Hoan đã tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Công nghiệp. Triển lãm diễn ra được hai ngày thì hai bức bị yêu cầu dỡ xuống sau khi có ý kiến của một Thứ trưởng Bộ Văn hóa -Thông tin. Chụp ảnh nude gây ồn ã nhất là nhà nhiếp ảnh quá cố Trọng Thanh. Nghe đồn ông chụp hàng nghìn bức với vài chục người tự nguyện làm mẫu. Trọng Thanh là phóng viên chiến trường của Thông tấn xã Việt Nam. Năm 1999, một phần trong kho ảnh chiến tranh của ông được triển lãm tại Hoa Kỳ và Phó Tổng thống All Gore đã đọc lời chào mừng trong buổi khai mạc. Thời bao cấp, có những nhà nhiếp ảnh chụp nude nghệ thuật phải vào tù. Không có ranh giới giữa ảnh nude nghệ thuật và ảnh nude dung tục, tất cả đều bị coi là văn hóa phẩm đồi trụy.
Ngày nay thì ai cũng có thể chụp được ảnh vì máy nghiệp dư, máy chuyên nghiệp quá sẵn. Thậm chí Hà Nội còn có cả câu lạc bộ Leica tới mấy chục thành viên. Leica là máy ảnh nổi tiếng thế giới được phóng viên chiến trường sử dụng vì màn chập bằng lụa không gây ra tiếng xoạch khi bấm. Nhiều tay máy chuyên nghiệp Hà Nội đã mở triển lãm với những bức ảnh để đời.