Quan niệm của người Á Đông nói chung và tín ngưỡng dân gian Việt Nam nói riêng, bốn con vật: Long, lân, qui, phượng (miền Nam gọi là phụng) được gọi là tứ linh. Nhưng trong tứ linh chỉ có qui (rùa) là có thật trong đời sống còn ba con vật kia không có thật. Với người Việt, rùa là vật cân bằng bởi có cả âm và dương, bụng rùa phẳng tượng trưng cho đất (âm), mai khum tượng trưng cho trời (dương). Dân gian cho rằng hình tượng rùa đội bia tượng trưng cho hạnh phúc, phát triển và sự chịu đựng. Rùa còn là biểu tượng của cao quý, sự bền vững của xã tắc và trường tồn. Chính vì vậy rùa tuy không xuất hiện nhiều trong các công trình kiến trúc tôn giáo nhưng có thể thấy làm con vật đỡ chân bia tại các chùa. Ở chùa Linh Ứng (Thanh Hóa), ngôi chùa được xây vào thời Lý, rùa đã được sử dụng để đội bia. Hình tượng rùa đội hạc cũng tìm thấy ở chùa Láng (Hà Nội), ngôi chùa được xây dựng vào thế kỷ XV. Đời vua Lê Thánh Tông (1484) đã cho dựng bia những người đỗ tiến sỹ từ khoa thi năm 1442 ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám, mỗi khoa là một tấm bia dựng trên lưng rùa ghi thành tích. Như vậy từ truyền thuyết Lê Thái Tổ trả gươm cho rùa vàng đến các tấm bia trên tiến sỹ trên lưng rùa đời vua Lê Thánh Tông cho thấy các vua triều Lê rất chú trọng đến hình tượng rùa. Rùa xuất hiện trong truyền thuyết từ thời An Dương Vương. Theo truyền thuyết, thần Kim Quy đã giúp nhà vua xây thành Cổ Loa sau nhiều lần thất bại trước đó và còn cho chiếc móng để làm nỏ thần để giữ thành. Nhưng rồi con gái An Dương Vương là Mỵ Châu đã đem lòng mến Trọng Thủy - con trai của Triệu Đà, kẻ đang có âm mưu chiếm đoạt Loa thành. Khi nỏ thần bị Trọng Thủy lấy cắp, thành bị rơi vào tay quân thù, trong lúc nguy cấp, An Dương Vương than thở thì thần Kim Qui hiện lên bảo: giặc đang ở sau lưng, An Dương Vương quay lại thấy Mỵ Châu liền rút gươm chém chết đứa con giá yêu, rồi cưỡi rùa và đi ra biển.
Vào triều vua Lý Thánh Tông (1057) đã cho xây dựng tháp Báo Thiên (nay là vị trí Nhà thờ lớn) bên hồ Lục Thủy. Tất cả những gì sử sách để lại về thời các vua Lý không thấy nói đến hồ Hoàn Gươm cũng như rùa. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, sau khi kháng chiến chống quân Nguyên thắng lợi, vua Trần Nhân Tông đã cho dựng một miếu thờ các liệt sỹ ở một địa điểm gần hồ Lục Thủy. Tuy nhiên,sử sách cũng không ghi chép nhiều về đền này và các nhà viết sử chỉ suy đoán đền nằm ở phía bắc hồ. Điều ấy cho thấy đời các vua Trần cũng chưa có tên hồ Gươm và cũng không có sách hay bia ghi lại sự tích gì ở Lục Thủy liên quan đến rùa.
Ở Việt Nam ai cũng biết truyền thuyết Lê Thái Tổ trả lại gươm thần cho rùa vàng sau khi đánh tan giặc Minh. Cách truyền miệng trong dân gian, kể trong sách, trên các văn bia có đôi chỗ khác nhau nhưng có thể tóm tắt: Đầu năm 1428, Lê Thái Tổ cùng quần thần bơi thuyền trên hồ Lục Thủy dạo mát, ngắm cảnh, bỗng ngài thấy có ánh vàng loang loáng dưới nước và một lúc sau rùa vàng ngoi lên rồi bơi về phía thuyền của nhà vua. Lúc này Lê Thái Tổ chợt nhớ đến lưỡi gươm mà Lê Thận tặng có hai chữ "Thuận Thiên" đã giúp ngài đánh tan giặc ngoại xâm. Khi ngài vừa rút gươm ra khỏi vỏ thì lưỡi gươm đã tự bay về phía rùa vàng. Rùa ngậm lưỡi gươm rồi từ từ lặn xuống, và từ đấy hồ có tên là hồ Hoàn Gươm (dân gian quen gọi là hồ Gươm). Song vấn đề là ở chỗ truyền thuyết xuất hiện khi Lê Thái Tổ còn sống hay sau khi ngài qua đời thì không thể xác định được. Và việc trả gươm rùa vàng của Lê Thái Tổ phải chăng có liên quan đến truyền thuyết An Dương Vương với bài học về chữ tín, về mượn thì phải trả? Tại sao lại liên quan đến rùa mà không phải vật khác? Theo nhà sử học người Pháp Philippe Papin, người từng là thành viên của Viện Viễn Đông bác cổ, sống ở Hà Nội từ năm 1991 đến 2004, tác giả của cuốn sách Lịch sử Hà Nội cho rằng mô típ anh hùng trả gươm cho rùa sau khi diệt hết giặc ngoại xâm hay yêu quái không chỉ riêng Việt Nam mới có mà còn có ở các quốc gia Đông Nam Á. Phải chăng, những người dựng nên truyền thuyết tự thêu dệt nên hay bị ảnh hưởng của các nước láng giềng? Có một điều cũng rất lạ là quanh Hồ Gươm không có đền miếu thờ Lê Thái Tổ mà chỉ có đình làng Kiếm Hồ (nay là đoạn giữa phố Lý Thái Tổ) có bài vị thờ Lê Lợi làm thành hoàng làng. Cho đến năm 1897, Kinh lược sứ Hoàng Cao Khải mới cho dựng tượng ngài bằng đồng ở phía tây hồ (tượng nằm ngay sát Nhà hát ca múa nhạc nhẹ - số 16 phố Lê Thái Tổ).
Từ các triều vua Lý, Trần, Lê cho đến nhà Nguyễn, Thăng Long - Hà Nội có rất nhiều sông, ngòi, hồ, ao. Không những thế, các hồ còn nối với nhau bằng kênh rạch. Thời nhà Nguyễn, hồ Gươm vẫn còn thông với hồ Thái Cực (khu vực chợ Hàng Bè hiện nay) và người ta làm cầu bắc qua con kênh này để đi lại vì thế mới có tên là Cầu Gỗ. Theo thời gian, sông hồ, ao bị lấp nhiều nhưng cho đến nay, Hà Nội vẫn là thành phố có nhiều hồ nhất trong các tỉnh phía Bắc. Một câu hỏi đặt ra là rùa hồ Gươm có nguồn gốc ở đâu vì các hồ Bẩy Mẫu, Ba Mẫu, Hồ Tây, Trúc Bạch, Giảng Võ... không hề có loài rùa này?
Tháng 4-1993, những người đánh cá đã bắt được một con rùa nặng 175 kg ở đầm Quỳnh Lâm (thành phố Hòa Bình). Cũng tại hồ này, người ta bắt được con rùa nữa nặng 121 kg (tiêu bản hiện đang lưu giữ ở Bảo tàng Hoà Bình). Như vậy Hòa Bình có loài rùa lớn. Ngược dòng lịch sử, năm 1431, tức là chỉ ba năm sau khi Lê Lợi đánh tan giặc Minh, thổ tù người Thái trắng ở châu Ninh Viễn (Lai Châu ngày nay) là Đèo Cát Hãn nổi dậy câu kết với một thổ tù Ai Lao là Kha Lại chiếm cứ một vùng biên cương Tây Bắc chống lại triều đình, không chịu nộp cống phú. Họ Đèo là dòng họ lớn ở Tây Bắc, thời giặc Minh xâm chiếm Đại Việt (1407-1427), Đèo Cát Hãn đã đầu hàng rồi câu kết với chúng đàn áp phong trào đấu tranh của dân địa phương. Nhưng đến năm 1427, giặc Minh buộc phải rút quân về nước thì Đèo Cát Hãn lại qui xin quy thuận và được Lê Lợi phong cho chức tước cai quản châu Ninh Viễn như cũ. Đến lúc này, họ Đèo lại nổi dậy mưu đồ cát cứ cho đem quân cướp phá các vùng lân cận như: Thái Nguyên, Tuyên Quang, Qui Hóa, Gia Hưng. Hành động của Đèo Cát Hãn đã gây ảnh hưởng xấu đến hàng ngũ thổ tù thiểu số miền biên viễn, nếu không trấn áp, quốc gia Đại Việt mới thống nhất sẽ bị đe dọa. Do vậy Lê Lợi đã thân chinh chia quân làm hai đường: thủy và bộ cùng tiến lên Ninh Viễn. Quân của Đèo Cát Hãn nhanh chóng bị đánh bại. Trong cuộc hành binh trấn áp này cả lúc đi lẫn lúc về, Lê Lợi đều làm thơ theo thể ngũ ngôn và thất ngôn ca ngợi chiến công của mình. Nhà vua sai tạc lên vách núi sông Đà hai bài thơ để đề cao uy tín của triều đình trung ương và nhằm cảnh tỉnh các thổ tù thiểu số sau này. Dưới triều vua Lê Thái Tông (1423-1442), một số thổ tù người Thái khác cũng chiếm cứ châu huyện, kháng cự lại triều đình. Năm 1439, thổ tù họ Cầm ở các châu: Phù Yên, Sơn La, Tuần Giáo, Mai Sơn thuộc phủ Gia Hưng nổi lên chống lại triều đình và đánh phá vùng biên giới. Để tăng sức mạnh, thổ tù họ Cầm cho người sang cầu cứu Ai Lao và vua Ai Lao sai tướng Nữu Hoa đem trên ba vạn quân lấy danh nghĩa cứu viện đã vượt biên giới cướp phá các vùng thuộc châu Phục Lễ. Trước sự ngang ngược đó, Lê Thái Tông thân chinh đem quân đi dẹp và chỉ trong thời gian ngắn quân Ai Lao bị đánh bại, thổ tù họ Cầm run sợ phải qui phục, triều cống. Năm 1440, Lê Thái Tông cũng thân chinh dẫn quân lên đến phủ Gia Hưng dẹp thổ tù Nghiễm khi thổ tù này liên kết với thổ tù Ai Lao chống lại triều đình. Nghiễm chịu thua phải dâng voi, trâu nộp cống phẩm xin qui thuận. Năm 1441, Nghiễm lại liên kết với Ai Lao làm phản buộc Lê Thái Tông phải tự đưa quân đi đánh Nghiễm lần nữa và lần này đã bắt được viên tướng Ai Lao. Sau nhiều ngày bị quân của Lê Thái Tông vây hãm, cuối cùng Nghiễm ra hàng và bị giải về Thăng Long. Đến đời vua Lê Thánh Tông (1442-1497), Bồn Man là lãnh thổ phía tây Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn La và tỉnh Hủa Phăn của Lào thuộc châu Qui Hợp của Đại Việt dưới quyền quản lý của tù trưởng Cầm Công. Nhờ có sự giúp đỡ của Lão Qua, Cầm Công đã dứng lên đánh đuổi quân Đại Việt, trước sự phản trắc, Lê Thánh Tông đích thân ngự giá lên đánh. Và để triệt mầm mống làm phản, năm 1479, Lê Thánh Tông sai Thái úy Lê Thọ Vực cùng các tướng Trịnh Công Lộ, Lê Đình Ngạn, Lê Lộng và Lê Hiếu Nhân chia quân làm năm cánh từ Nghệ An, Thanh Hóa và Hưng Hóa tiến đánh Lão Qua đến tận bờ sông Kim Sa giáp với Miến Điện. Xâu chuỗi chuyện các vua Lê cầm quân đi dẹp thổ tù ở Tây Bắc và đầm Quỳnh Lâm, Hòa Bình có giống rùa lớn, có người cho rằng hoặc Lê Lợi, Lê Thái Tông hay Lê Thánh Tông đã bắt rùa ở vùng này mang về thả vào Lục Thủy rồi nghĩ ra truyền thuyết trả gươm cho rùa vàng làm bài học về chữ tín: mượn thì phải trả. Tuy nhiên giả thiết này chưa thuyết phục vì nếu Lục Thủy có rùa tại sao các hồ khác như: Ba Mẫu, Bẩy Mẫu, Hồ Tây, Giảng Võ... lại không có rùa khi khí hậu, điều kiện tự nhiên như nhau, hơn nữa, các hồ này thông với nhau?
PGS- TS Hà Đình Đức đã đưa ra giả thiết rùa hồ Gươm có gốc tích ở vùng Lam Sơn (nay là Thọ Xuân, Thanh Hoá, nơi nhà Lê đã khỏi nghĩa chống lại giặc Minh). Theo ông Đức, ở đây hiện vẫn có rùa cùng loài với rùa hồ Gươm. Ông Đức kể, sáng ngày 27-9-2000, hôm khánh thành khu tưởng niệm vua Lê (16 phố Lê Thái Tổ), "cụ" bơi vào rồi ghé đầu lên kè đá đền Ngọc Sơn từ 8 giờ 20 phút đến 10 giờ 20 phút trước sự chứng kiến của nhiều người. Lần khác một số người chèo thuyền ra tháp Rùa thắp hương xin phép về Lam Kinh tìm lại hậu duệ của "cụ", lúc trở vào bờ thì nhìn thấy tăm hướng về mũi thuyền. Sau đó "cụ" bơi đến và nhô đầu sát mạn thuyền, mọi người sợ quá chắp tay lạy, lúc ngẩng lên "cụ "đã lặn... Chuyện mà ông Đức kể và Lam Sơn có giống rùa như ở Hồ Gươm liệu gốc gác "cụ" rùa có phải ở Thanh Hóa?
Cuối triều Lê, chúa Trịnh Doanh (1740-1767) cho xây lầu Ngũ Long ở phía đông hồ (nay là khu vực Bưu điện thành phố ) để xem tập thủy quân. Trịnh Doanh cũng cho đắp con đường từ Phủ (khu vực quanh Bảo hiểm xã hội hiện nay) sang lầu Ngũ Long thì hồ mới bị chia làm Tả Vọng và Hữu Vọng. Hữu Vọng đã bị lấp còn Tả Vọng chính là hồ Gươm hiện nay, nghĩa là hồ Gươm hiện hữu ra đời cách bây giờ khoảng 250 năm. Căn cứ vào kết quả do các nhà khoa học xác định, cá thể rùa hồ Gươm đang được chữa trị vết thương có tuổi thọ gần 100 năm. Như thế rùa này được thả vào hồ từ đầu thế kỷ XX.
Người nghiên cứu rùa hồ Gươm một cách khoa học đầu tiên là GS Trần Kiên - giảng viên Đại học Sư phạm. GS Kiên bắt đầu nghiên cứu từ những năm 1980 của thế kỷ trước. Tuy nhiên công trình bị dang dở vì ông đi làm chuyên gia ở châu Phi. Năm 1991, PGS TS Hà Đình Đức, khi ấy là giảng viên khoa sinh Đại học Tổng hợp Hà Nội bắt đầu tìm hiểu. Sau chín năm, PGS TS Hà Đình Đức khẳng định, rùa hồ Gươm là loài rùa mới và đặt tên là Rafetus leloii rồi công bố trên Tạp chí Khảo cổ số 4-2000. Một số nhà khoa học trên thế giới cũng nghiên cứu về loài này có TS. Peter Maylan (Đại học Eckerd), GS Kraig Adler (Đại học Cornell - Mỹ) đã đồng ý với quan điểm của ông Đức, rằng rùa hồ Gươm thuộc loài rùa mai mềm nước ngọt, loài thứ 5 có ở Việt Nam và cũng là thứ 23 trên thế giới (tính đến năm 2006, có 22 loài rùa nước ngọt trên thế giới được biết đến). Tên ông Đức xuất hiện trong bảng Danh mục rùa thế giới, mục về giống mai mềm ở Việt Nam: Rafetus leloii Duc 2000. Dù ông Đức nghiên cứu rùa hồ Gươm nhiều năm nhưng nghiên cứu theo kiểu của ông nên không ai biết rùa nặng bao nhiêu cân và là giống đực hay giống cái. Năm 2004, Viện Công nghệ Sinh học đã tiến hành xác định gene của các loại rùa mai mềm kích thước lớn (trong đó có rùa hồ Gươm) và cho kết quả rùa Hồ Gươm là loại giải Thượng Hải (Rafetus swinhoei). Giám đốc Chương trình rùa châu Á - Douglas Hendrie, người đã có nhiều năm tìm kiếm và nghiên cứu rùa nước ngọt ở Việt Nam sau khi thực hiện các xét nghiệm cần thiết đã kết luận: rùa bắt được ở Đồng Mô và rùa hồ Gươm cùng loài với hai con giải ở Thượng (Trung Quốc) hiện nay. Còn Peter Richard, chuyên gia bảo tồn sinh học quốc tế và cũng là nhà khoa học về loài Rafetus Swinhoei khẳng định: rùa hồ Gươm, Đồng Mô và tiêu bản ở Bảo tàng Hòa Bình cũng cùng loài với giải Thượng Hải. Ngày 9-4-2011, TS Bùi Quang Tề, trưởng nhóm chữa bệnh cho cụ rùa thông báo rùa hồ Gươm nặng 169 kg là loài rùa mới, không phải giống giải Thượng Hải và 99% là cái. Thông báo của TS Bùi Quang Tề đưa ra là câu trả lời cho giả thuyết rùa hồ Gươm có xuất xứ ở Thanh Hóa hay không. Song cũng khẳng định kết luận của PGS TS Hà Đình Đức là đúng. Tuy nhiên, cũng từ thông báo có hai câu hỏi cần làm rõ: Vậy tại sao các hồ ở Hà Nội không hề có giống rùa này? Và kết quả liệu có đúng như ông Tề đã thông báo? Trên tạp chí khoa học nước ngoài tháng 9-2011 có bài viết chung của các nhà khoa học Việt Nam và một chuyên gia nước ngoài về rùa khẳng định rùa hồ Gươm là giống giải Thượng Hải.
Sau năm 1954, nhiều cán bộ Sở Văn hóa Hà Nội chưa có gia đình lại không có nhà riêng được bố trí ở dưới tầng hầm của Văn phòng sở (47 phố Hàng Dầu). Số người sống trong tập thể hầm tăng lên khiến cho lãnh đạo Sở lúc đó quyết định thành lập "khu tập thể đền Ngọc Sơn". "Tập thể đền Ngọc Sơn" là căn phòng rộng chừng hơn chục thước, trước đó người ta dùng làm nơi ngồi chờ cho những người đến đây rút quẻ xem bói. Không chịu nổi tình cảnh bức bối vì lúc nào cũng chỉ nhìn thấy bốn bức tường, Lê Bầu khi đó là chuyên viên văn hóa đã xin chuyển sang "khu tập thể đền Ngọc Sơn". Ở cùng với ông có hai chuyên viên văn hóa khác là Huỳnh Tâm Chí và Huyền Tâm. Lê Bầu tốt nghiệp Đại học Trung văn tại Trung Quốc, ông làm phiên dịch rồi trở thành giáo viên dạy tiếng Trung ở trường Sư phạm. Có năng khiếu viết văn lại đam mê văn hóa, nhất là văn hóa dân gian, ông xin chuyển về làm việc ở Sở Văn hóa Hà Nội nghiên cứu về văn hóa dân gian ở ngoại thành năm 1961. Ông sống ở đền Ngọc Sơn từ năm 1963 cho đến năm 1972. Sáng sáng, ông đi bộ từ "khu tập thể" sang sở làm việc, trưa về nghỉ, đầu giờ chiều lại sang và hết giờ lại về. Nếu hôm nào báo cơm tập thể ông phải đi qua cầu Thê Húc tới sáu lần, vì thế nên ông chứng kiến nhiều chuyện về rùa. Ông thường xuyên chứng kiến rùa bò lên đình Trấn Ba về đêm, không chỉ rùa nhỏ mà có lần cả "cụ rùa". Mùa hè, rùa bò lên thân cây si, lên bờ hóng gió nhưng hễ thấy tiếng động là ào xuống nước. Có lần Lê Bầu đã thấy bầy rùa đưa tang một con rùa đã chết mà ông khẳng định "còn tình cảm hơn cả con người". Nhiều năm sống cạnh rùa nên ông có bài ký thú vị Rùa hồ Gươm. Trong bài ký ông kể có lần ông nhìn thấy "cụ rùa" bị thương ở phía đường Lê Thái Tổ (gần tượng vua Lê), khi đó Mỹ đang ném bom Hà Nội, thành phố vắng người nên mãi sau mới báo được cho ban quản lý hồ. Tuy nhiên, họ cho nhân viên khiêng "cụ" lên bờ để bán cho khách sạn Phú Gia làm thực phẩm. May mà Chủ tịch Ủy ban hành chính Trần Duy Hưng biết tin đã chỉ thị cho ngành y tế phải cứu chữa bằng mọi giá. Nhưng cuối cùng "cụ rùa" đã ra đi. Từ khi rời "khu tập thể đền Ngọc Sơn", Lê Bầu không quay trở lại vì ông bảo "mình về nhà mình" mà người ta cứ bắt phải mua vé tham quan, nên ông không dám chắc tiêu bản ở đền Ngọc Sơn có phải là "cụ rùa" đó không.
Nhà văn Nguyễn Dậu có ba năm (1963-1967) sống tại "khu tập thể đền Ngọc Sơn". Khi học xong lớp Nhất trường Jean Dupuis vừa lúc cách mạng Tháng 8 nổ ra, Nguyễn Dậu tham gia công tác tuyên truyền ở Hải Phòng rồi gia nhập quân đội, học trường Thiếu sinh quân. Năm 1950, ông được quân đội cử sang Trung Quốc học khóa đào tạo sĩ quan. Năm 1954 về công tác tại phòng Văn nghệ Quân đội. Nhưng ông buộc phải rời Tạp chí Văn nghệ Quân đội sau khi lấy vợ (chị ruột của ca sỹ Quang Hưng), bởi chồng trước của vợ là sỹ quan trong quân đội Pháp. Ông bỏ Hà Nội lên mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng) làm công nhân. Một thời gian sau, trở về Nhà máy đóng tầu Hải Phòng. Số phận lại đưa đẩy ông quay lại với văn nghệ khi người ta nhận ông làm biên tập viên ở báo Văn nghệ. Năm 1964, Nguyễn Dậu chuyển công tác về Sở Văn hóa Hà Nội. Về hưu, ông mở hiệu cắt tóc ở đền Bà Kiệu. Gần 10 năm dao kéo bên Hồ Gươm đã cho ông nhiều hiểu biết về rùa. Trong tập truyện ký Rùa hồ Gươm xuất bản năm 1991, Nguyễn Dậu kể rằng, ông phân biệt và đếm được tới 17 "cụ rùa". Ông cũng nói rõ cụ to nhất đã biến mất. Hai cụ bị đánh trọng thương và chết, xác được làm tiêu bản trưng bày ở đền Ngọc Sơn. Về chuyện cụ rùa bị thương, Nguyễn Dậu viết: Ngày 2-6-1967, một trận bão lớn tràn qua Hà Nội, mưa to làm nước hồ dâng lên mấp mé đường, một "cụ rùa" bị thương nổi lên gần số nhà 16 phố Lê Thái Tổ. Người ta đã dùng lưới đưa "cụ" lên bờ. Không biết ai báo tin nhưng lúc đó có mặt nhiều cán bộ của Sở Văn hóa, Sở Thủy sản, Công ty Công viên. Tranh cãi nổ ra với hai luồng ý kiến trái ngược, Công ty Công viên muốn đưa về Bách Thảo để cứu chữa nhưng Xí nghiệp Thủy sản lại muốn bán cho Công ty Thực phẩm. Trong khi người ta bàn cãi và tranh luận đã để mặc "cụ" phơi nắng trên vỉa hè. Lúc thống nhất được ý kiến đưa cụ đi cấp cứu thì "cụ" đã tắt thở. Tiêu bản hiện nằm trong đền Ngọc Sơn chính là "cụ" này. Hai "cụ" khác thì bị "rùa tặc" ngang nhiên bắt chở đi làm thịt. Nguyễn Dậu còn mô tả rất tỉ mỉ chuyện một đôi vợ chồng rùa làm cái chuyện bảo tồn nòi giống và đào ổ đẻ hàng trăm trứng. Cũng theo nhà văn Nguyễn Dậu, những cụ rùa to nhất thường nổi lưng trên mặt hồ hoặc phơi mình trên bãi cỏ ở Tháp Rùa. Ông tả: "Có một con to nhất, từ đầu đến cuối dài bằng chín lần bề ngang của những phiến xi măng cạp ven bờ hồ...".