Năm 1884, Tòa lãnh sự Pháp được khánh thành ở khu nhượng địa Đồn Thủy (nay là 33 phố Phạm Ngũ Lão) gồm nhiều tòa nhà lớn nhất vào thời điểm đó ở Hà Nội. Không chỉ là nơi làm việc, tòa nhà này còn là địa điểm diễn ra vũ hội vào những ngày cuối tuần cho đám sĩ quan cùng vợ con họ, các viên chức và một số ít dân di cư từ Pháp sang. Khiêu vũ diễn ra đều đặn dịp cuối tuần phần vì đó là văn hóa của người Pháp, phần khác đó cũng là khai phá văn minh cho xứ thuộc địa mà họ cho là "mọi rợ". Chơi nhạc cho các đêm vũ hội là đội kèn đồng của Tiểu đoàn Khinh binh số 2 và họ thường chơi các bản valse hay polka.
Ngày 10-10-1886, quyền Kinh lược sứ Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp được Tổng trú sứ thay mặt nước Pháp trao cho huân chương Bắc Đẩu bội tinh, Nguyễn Trọng Hiệp đã tổ chức một buổi vũ hội lớn tại chùa Việt Đông hội quán. Do sân chùa không phẳng, sợ đám Tây khiêu vũ bị ngã, Hiệp cho trải chiếu cói che các chỗ mấp mô. Tham gia chỉ có người Pháp, còn khách mời người Việt, người Hoa đứng xem. Hôm đó Hiệp tái mặt khi một bà đầm to béo vấp ngã phơi cả hai đùi trắng như lợn cạo. Đây là vũ hội đầu tiên do người Việt Nam tổ chức.
Người Hà Nội giầu có đến với khiêu vũ muộn hơn, dù đầu thế kỷ XX, các khách sạn Metropole (phố Ngô Quyền), Coq d'or (Gà vàng - phố Tràng Tiền), Grand (Lê Thái Tổ)... đã mở khiêu vũ vào tối thứ bẩy. Năm 1930, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Hữu Hiếu, Nguyễn Văn Diệp từng học ở Trường Viễn Đông nhạc viện (trường mở năm 1927, đóng cửa năm 1930 vì không có kinh phí) đã kiếm tiền bằng việc đi đánh đàn khiêu vũ tại nhiều khách sạn tại Hà Nội. Từ nhẩy đầm ra đời trong thời gian này vì khiêu vũ bao giờ cũng có các bà đầm (dame - tiếng Pháp là đàn bà). Đầu những năm 1930, chữ Nho lụi tàn, người biết chữ quốc ngữ tăng lên, tiếng Pháp trở thành môn học bắt buộc ở các trường từ tiểu học. Tầng lớp trung lưu thành thị bị ảnh hưởng văn minh và văn hóa Pháp, đạo đức truyền thống trở thành cũ kỹ, lạc hậu không thích hợp với đời sống đô thị. Không ít các bà, các cô đã cạo răng đen, đầu không còn vấn khăn mỏ quạ. Tuy nhiên chỉ đến khi xuất hiện phong trào "vui vẻ trẻ trung", khiêu vũ mới thực sự trở thành sinh hoạt văn hóa của những trí thức cấp tiến, thanh niên du học ở Pháp. Họ tổ chức khiêu vũ tại tư gia, nhấm nháp rượu Tây, hút thuốc lá thơm. Một nguyên nhân khiến khiêu vũ ra đời chính là quan niệm của một thế hệ thanh niên tân học, họ ưa thích lối sống mới với khẩu hiệu "Muốn bình đẳng phải đồng đẳng", đồng đẳng nghĩa là sống theo kiểu Tây, văn hóa Tây. Rồi trong xã hội đã xuất hiện nhu cầu khiêu vũ cuối tuần tại quán bar, nơi đông người chứ không phải chỉ vài người trong căn phòng nhỏ và phòng nhẩy đầu ra đời ở phố Khâm Thiên vào năm 1936. Tại sao khiêu vũ lại xuất hiện ở phố Khâm Thiên mà không phải các phố trung tâm? Có lẽ do Khâm Thiên là phố ăn chơi nổi tiếng gần xa với gần 40 nhà hát tập trung hơn 200 cô đầu, những người vì nhiều lý do không bị ràng buộc bởi gia phong, đạo đức truyền thống.
Nhà hát cô đầu có phòng khiêu vũ đầu tiên là của Cô Đốc Sao (số nhà 96), không có nhạc sống. Ai hát cô đầu, ai uống rượu có cô đầu phục vụ, ai thích nhẩy đầm sang phòng riêng có vũ nữ làm bạn nhẩy. Váy áo của các cô do sinh viên tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương chưa có việc làm thiết kế. Khách khiêu vũ mời ai sẽ "boa" cho vũ nữ ấy khi hết điệu. Ban đầu chỉ có khách Pháp và một số ít người Việt biết môn nghệ thuật này. Người có công lớn nhất trong việc ra đời phòng khiêu vũ Cô Đốc Sao là nhà báo Hoàng Tích Chu, chủ của tờ Đông Tây, người tình của Đốc Sao. Anh này học ở Pháp về có tâm hồn lãng mạn "hơn cả những người hoạt động nghệ thuật thời đó cộng lại". Hoàng Tích Chu huấn luyện các cô đầu hiếu động trở thành vũ nữ. Cô Đốc sinh năm 1990, quê ở Hưng Yên, Đốc có thân hình phốp pháp, da trắng, đôi mắt biết nói và đặc biệt khuôn mặt phồn thực. Một tờ báo thời đó đã mô tả "nhìn mặt Đốc Sao người ta không thể nghĩ những điều khác ngoài nghĩ đến chiếc giường Tây". Vì lấy bác sỹ người Hoa tên là Lầu Màn Sầu (Lưu Nam Sao) vì thế có tên là Đốc Sao. Trước khi mở khiêu vũ, Đốc Sao là chủ nhà hát cô đầu nổi tiếng nhất phố Khâm Thiên. Khách vào đây hầu hết là kẻ có chức sắc trong chính quyền hay đám có thế lực trong xã hội, kẻ có tiền vào đây để khỏi mang tiếng là không biết ăn biết chơi. Đốc Sao tuyển chọn các gái ở quê tuổi từ 16-17 có khuôn mặt xinh xẻo, vóc dáng đẹp rồi cho học tí ca, tí phách, dạy ít tiếng Pháp bồi, dạy tiếp khách và lấy lòng khách. Cô đầu nhà Đốc Sao đi ra ngoài có xe tay riêng, phần vì sợ các cô trốn phần là làm sang.
Nhà hát cô đầu và khiêu vũ Cô Đốc Sao ra đời làm nổ ra bút chiến trong báo giáo Hà Thành. Một phe cho rằng khiêu vũ là đồi phong, bại tục, là công khai "dâm đứng". Có tờ còn nói thẳng " khiêu vũ làm cho dân ta quên đi mình đang là kiếp nô lệ". Phe cổ súy lại biện minh, khiêu vũ là thiền ở dạng động, bởi khi khiêu vũ cũng giống như thiền, người ta không nghĩ đến bất cứ chuyện gì chỉ có xoay, quay, tay chân, "vào những thời điểm tuyệt vời, khiêu vũ còn có thể đưa người ta vào những khoảnh khắc nhập đồng siêu thoát và như thấy mình gần hơn với thần tiên". Lại có tờ báo ngợi ca khiêu vũ còn là một dạng luyện tập nhu quyền hấp dẫn hơn cả môn võ Vĩnh Xuân. Dù biện minh hay lên án, khiêu vũ ra đời là đòn giáng vào quan niệm "nam nữ thụ thụ bất thân" của Nho giáo vốn dĩ cắm dễ hàng trăm năm trên đất Việt Nam. Năm 1936 là năm bùng nổ của khiêu vũ và từ năm 1936-1938, ở Khâm Thiên có 6 sàn nhẩy gồm: Casino (Hí trường), Etoile (Minh tinh), Féeric (Cảnh tiên), Déesse (Nữ thần), Pagode (Cảnh chùa) và Tanaka do một người Nhật làm chủ gần chùa Linh Ứng. 6 sàn này có khoảng 20 chục gái nhẩy. Thu hút nhiều khách nhất là Pagode, chủ sàn cho trang trí gần như cảnh chùa. Khâm Thiên có hai nhà chuyên dạy nhẩy và nếu Hoàng Tích Chu dù sao cũng chỉ là người hướng dẫn thì người được "phong" vũ sư đầu tiên là Đỗ Đình Khang. Anh này từng du học ở Pháp, đam mê khiêu vũ và vừa lúc phòng nhẩy Đốc Sao ra đời, Khang nhanh chóng mở lớp. Để thu hút học viên, Khang lấy tên rất Mỹ: Jean Dod K. Thời kỳ tạm chiếm (1946-1954), đầu phố Bà Triệu có tiệm khiêu vũ Rex chủ tiệm là Trần Văn Chi trước đó là cai thầu thuế ở chợ Hà Đông, sau ra Hà Nội kinh doanh xe khách, phất lên đã mua cả nhà hàng Poinsaird Verylet (nay là Công ty du lịch Hà Nội), và mở Rex dancing. Rex có một vị khách đặc biệt, mỗi khi cô đến là mọi cặp mắt đổ dồn về phía cô, không chỉ đẹp, nhẩy rất lả lơi, "nóng bỏng" mà cô được chú ý vì là người tình của Quốc trưởng Bảo Đại. Đó là Lý Lệ Hà. Hà quen biết Bảo Đại, người nổi tiếng ăn chơi này ở Sài Gòn, từng sống với nhau một thời gian ở Hà Nội và Hồng Công. Lý Lệ Hà bị cơ quan tình báo Pháp nghi là người của Việt Minh, còn Việt Minh lại nghi cô là nhân viên mật vụ của Pháp. Thậm chí sau này, chính Bảo Đại cũng nghi ngờ Hà có ý định ám sát mình. Lý Lệ Hà thường nhẩy với một thanh niên tên là Hạnh. Hạnh là thợ may có tiếng ở số 10 phố Hàng Bông, mê nhẩy đến mức 30 tuổi vẫn chưa lấy vợ. Ông Nguyễn Bắc (Giám đốc Sở Văn hóa Hà Nội giai đoạn 1954-1978), người hoạt động bí mật ở Hà Nội và là người chắp nối liên lạc giữa các trí thức với chiến khu là bạn của Hạnh kể, có lần đang nhẩy điệu valse với Hà, hai mật thám ghé vào tai Hạnh "Tiên sư mày, muốn yên thân thì dừng ngay để bọn tao đưa cô lên hầu cụ (Bảo Đại)". Khi bộ đội tiếp quản Thủ đô, Hạnh bảo Nguyễn Bắc: "Chắc là Hà Nội không còn sàn nhẩy và cô đầu nên tôi phải đi". Và năm sau, Hạnh xuống Hải Phòng di cư vào Nam. Năm 1952, Thủy Tạ ban ngày là quán bar nhưng tối trở thành nơi khiêu vũ. Nếu các tiệm khác đa phần là ban nhạc người Philippin hay người Nga trắng thì chơi nhạc tại Thủy Tạ là ban nhạc thuần Việt Lúa Vàng, có khi là nhóm của Hoàng Trọng. Trong một đêm các vũ điệu đang sôi động đã xảy vụ nổ làm bị thương một lính Pháp. Người ta chỉ biết gây ra vụ nổ là em bé bán thuốc lá, thuốc nổ và kíp nhồi vào điếu thuốc Craven. Năm 1940 ở phố Yên Ninh có cô Kỳ Đen, gái nhẩy nhưng rất lịch lãm biết cách giao tiếp. Kỳ Đen nhẩy đẹp đến mức đám lính Nhật mặt lúc nào hằm hằm nhưng nhìn Kỳ Đen xoay người trong điệu valse phải mềm lòng. Trừ các tiệm ở Khâm Thiên có vũ nữ, còn lại những tiệm khác mở ra dành cho những người yêu bộ môn nghệ thuật này và hầu hết khách là người lịch lãm. Những điệu nhẩy phổ biến trong thời kỳ đầu gồm: Valse (tiếng Anh là Waltz), Tango, Rumba và Chachacha...
Sau 1954, cả thành phố vẫn còn 13 sàn nhẩy và cũng như nhà hát cô đầu, chủ các tiệm khiêu vũ ở phố Khâm Thiên và ở các phố khác tự đóng cửa để nghe ngóng thái độ của chính quyền mới. Một số vũ nữ Khâm Thiên trong đó có các cô nổi tiếng như: Xuyến, Lan, Hồng... theo tình nhân vào Nam, số khác về quê, một số tìm việc mới. 20 năm kể từ khi sàn nhẩy đầu tiên xuất hiện, Khâm Thiên trở lại yên ả, buổi tối không còn ánh đèn mầu, không còn tiếng nhạc xập xình và không còn cảnh xe tay chầu chực đón khách. Nhưng khiêu vũ công cộng lại xuất hiện vào đêm cuối tuần vào những năm 1958, người ta cho dựng sàn nhẩy trên mặt Hồ Tây, chơi nhạc sống. Trước Bưu điện Bờ Hồ, sân khấu ngoài trời ở Công viên Thống Nhất cũng là nơi diễn ra khiêu vũ, đánh nhạc của những "tay chơi" Hà Nội một thời. Không khí thật sống động khi hàng trăm người cũng say sưa với điệu tango hay chachacha. Và tại phòng khánh tiết của Ủy ban hành chính Hà Nội, tối thứ bẩy, Chủ tịch thành phố Trần Duy Hưng vẫn mời các nhân sỹ, trí thức đến khiêu vũ . Nhưng rồi sau đó, lo sợ bị quy là có lối sống của giai cấp tư sản và tiểu tư sản thành thị, không ai ra nơi cộng cộng khiêu vũ nữa. Nhớ lại thời kỳ đó, bà Hậu, người được cho là nhẩy tuyệt nhất Hà Nội trước năm 1954 bảo "Tôi xếp những chiếc váy vào đáy va li và cất kỹ trên gác với hy vọng một ngày nào đó lại được mặc trên sàn nhẩy".
Khiêu vũ là một phần quan trọng trong văn hóa châu Âu, nên khi chiêu đãi khách quốc tế, Bộ Ngoại giao không thể không tổ chức khiêu vũ. Sứ quán các nước ở châu lục này mở tiệc kỷ niệm quốc khách nước họ cũng tổ chức và một trong số khách được mời có Trương Văn Hiếu. Tốt nghiệp khóa II Trường Cao đẳng Thể dục Phan Thiết năm 1943, chưa nhận công việc, hàng đêm, Hiếu theo bạn chơi acoocdeon ở một quán bar; thấy các vũ công người Philippin nhẩy qua hấp dẫn, anh về nhà mở nhạc tự tập. Nhờ có tai thẩm âm tốt, lại có năng khiếu nên Hiếu trở thành nổi tiếng. Khi nhận công việc ở Lào Cai nhưng cuối tuần, Hiếu vẫn nhẩy tầu về Hà Nội khiêu vũ. Người nhà kể rằng hôm cưới vợ, đón dâu xong, Hiếu để người vợ trẻ ở nhà rồi ra luôn sàn nhẩy. Hiếu dìu các cô điệu valse Viên thì thôi rồi.
Khi phong trào khiêu vũ sống lại ở Hà Nội vào năm 1983, bà Hậu bảo: "Tôi rất vui và lục va ly lấy những chiếc váy của một thời, chúng vẫn còn tốt nguyên. Dù có tuổi nhưng tôi trở thành tâm điểm của sự chú ý ở sàn 23 phố Quang Trung". Lúc này thì ông Hiếu trở thành vũ sư, dù từ chối nhiều lời mời nhưng một ngày ông dạy tới 3 lớp với hàng trăm học viên. Người ta thích ông không chỉ ông nhẩy đẹp, biết thị phạm mà còn dạy học viên biết ứng xử lịch lãm trên sàn, biết gìn giữ hạnh phúc gia đình. Sàn 23 Quang Trung quá đông, người ta mở thêm ở Nhà văn hóa Thanh niên (phố Tăng Bạt Hổ), OIJ (Hội nhà báo Việt Nam - phố Lý Đạo Thành), Nhà văn hóa Thành phố (88 phố Hàng Buồm), những nơi này là sàn nhẩy đông đúc trong suốt một thời gian. Tiếp đó là hàng loạt các sàn nhẩy ra đời như: Nhà khách Trung ương Đoàn (15 phố Hồ Xuân Hương), Chí Linh (nằm trong Sở Thương mại), Thư Viện Quốc gia (phố Tràng Thi)... Năm 1988, một nhà đầu người Sài Gòn đã bỏ ra 300 cây vàng xây dựng sàn nhẩy Place dành cho tầng lớp giầu có ở Nhà văn hóa quận Hoàn Kiếm (42 phố Nhà Chung). Sàn được thiết kế hiện đại, chơi nhạc sống là ban nhạc Sông Hồng trong đó có Huy "móm" (sau này lấy ca sỹ Thu Phương), Phương "mù". Quầy bar của Place bán những thứ hồi đó còn rất hiếm như: Coca Cola, bia lon, thuốc lá 555, Dunhill, Cravell... Buổi tối, bãi trông giữ xe toàn xe máy. Xe Pháp có Peugeot 102, 103, BB 5 thụt... xe Nhật có CD 50, CD 90 hay các loại xe Honda Cup. Vé vào cửa là 50.000 đồng (giá vàng thời điểm này là 200.000 đồng/chỉ). Đang thành công thì Place gặp rắc rối vì lý do khách quan. Palace đóng cửa năm 1995, sau đó một chủ khác thuê lại mở lại vào năm 2000, nhưng một năm sau thì đóng cửa.
Khiêu vũ Hà Nội có sự thay đổi khi lớp trẻ thích những điệu nhảy mạnh mẽ hơn và không bó hẹp trong các điệu valse, tango, chachacha, rumba... và Queen Bee (cạnh Seaprodex, phố Láng Hạ) ra đời vào năm 1996 đã đáp ứng cho nhu cầu này. Đây là sàn nhẩy disco vì thế không có trung niên và người cao tuổi chỉ có thanh niên. Âm nhạc mạnh mẽ đã kích thích mọi giác quan khiến hàng trăm thanh niên ngoáy, lắc điên cuồng như để giải thoát bức bối bản thân. Cũng ở đây bắt đầu xuất hiện vũ nữ mà gọi một dân giã, không miệt thị là gái nhẩy, khách phải trả 50USD/giờ nếu nói chuyện hay nhẩy cùng. Tất nhiên họ không được hưởng cả mà phải chia chác với người quản lý gọi là "má mì". Chuyện khó tin nhưng có thật, nhiều người cho vợ, cho người yêu làm nghề này. Mô hình kiểu này được nhân ra ở Khách sạn Royal (phố Hàng Tre), Khách sạn Hà Nội (Giảng Võ) và ở phố Nguyễn Du. Từng xảy ra chuyện dân anh chị cấm gái nhẩy không được "làm ăn" ở Khách sạn Hà Nội, nếu cố tình sẽ bị "xử lý" và cuối cùng chủ sàn phải thương lượng mới ổn thỏa. Khách sạn Hà Nội vốn có nhiều khách nước ngoài, nhất là Đài Loan. Tô Lịch, nghệ sỹ violon kiêm ca sỹ có giọng hát "độc" chuyên chơi nhạc ở đây lúc còn sống kể rằng, nhiều gái nhẩy năn nỉ anh dạy cho bài hát bằng tiếng Trung để các cô hát cho khách nghe khi rượu đã phê phê.
Năm 1999, vũ trường New Century khai trương ở 10 phố Tràng Thi với quy mô lớn hơn nhiều so với Royal, Queen Bee nhưng chỉ có một cửa ra vào duy nhất. Đầu tư vũ trường này là doanh nghiệp nhưng thiên hạ chỉ biết chủ của nó tên là Nguyễn Đại Dương, người được dư luận mô tả: "Có xe Hummer gần như đầu tiên ở Hà Nội, sau này là chủ chiếc MayBach trị giá triệu đô cho khỏi đụng hàng". Ngay từ khi mở ra, New Century đã hút khách đủ các loại khách, con nhà lành, dân chơi, khách nước ngoài... trong đó nhiều thiếu gia tiêu tiền như nước. Nhạc chói tai, rượu bia như suối, đám bảo vệ soi mói, các cô gái nhẩy mặt trắng lốp đưa mắt tìm khách là chuyện hàng đêm ở đây. Cứ như thế cho đến ngày 28-4-2007, vũ trường bị công an đột kích và ba cô gái ra tòa vì tội sử dụng ma túy. Cũng thời gian này có Apocalypse ở phố Hòa Mã, là bar nhưng ai thích cứ nhẩy, khách chủ yếu là Tây ba lô và số ít sinh viên đang học tiếng Anh. Có thể mua được cần sa ở đây.
Tính đến tháng 6-2011, khu vực nội thành Hà Nội có khoảng 20 sàn: Lý Nam Đế, Nhà văn hóa Thanh niên, chợ Hôm, Cung văn hóa Hữu nghị... chủ yếu là khiêu vũ cổ điển còn sàn Lương Đình Của chuyên Disco. Không chỉ buổi tối, rất nhiều sàn mở cả sáng và chiều. Khách chủ yếu là người đã hưu, các cô sồn sồn rỗi việc. Nhiều sàn không bán vé, thay vào đó họ tính tăng tiền nước, không uống cũng phải mua. Trước tình trạng nữ nhiều hơn nam, một số sàn thuê thanh niên làm "trai nhẩy" để dìu các bà, các cô. Mỗi lần dìu, "trai nhẩy" được các bà, các cô "bo" tùy tâm, nhưng ít nhất cũng là 20.000 đồng. Có bà "độc quyền" một thanh niên, sắm sanh cho quần áo, trả lương tháng. Và câu chuyện "phi công trẻ lái máy bay bà già" từ đây mà ra. Vũ sư bây giờ không còn có những người như ông Hiếu, phần lớn năm trước còn học, năm sau đã là thầy.
Khiêu vũ bây giờ khác xa ngày xưa, sàn nhẩy không còn là riêng của những người tầng lớp trung lưu, dân chơi, nó trở thành thứ giải trí bình dân đến mức trước khi ra chợ cóc mua rau, không ít các bà, các cô tranh thủ tạt vào sàn nhẩy vài điệu cho dẻo chân, mềm tay. Lại có người đến sàn để đi bộ đúng nhịp kiếm tí mồ hôi hay khoe bộ đầm mới, tìm kiếm thứ gì đó.