Cùng với vũ khí và lòng tham khi xâm chiếm thuộc địa, lính Pháp còn mang theo cả cà phê trong cuộc tấn công Đà Nẵng năm 1858. Ngay sau khi chiếm được thành phố này, trong căng-tin của đám quân lính thực dân đã bán cà phê. Điều này cũng dễ hiểu vì khi đó, cà phê đã nhuộm cả châu Âu, đặc biệt là Pháp, Anh và Hà Lan từ thế kỷ thứ 17.
Năm 1864, ở Sài Gòn xuất hiện hai quán cà phê đầu tiên do người Pháp làm chủ là Lyonnais (đường Lý Tử Trọng) và Café de Pari (đường Đồng Khởi). Cà phê đến Hà Nội muộn hơn, tất nhiên cũng theo chân đám lính Pháp. Sau khi chiếm được Bắc thành năm 1882, năm 1883 ở phố Thợ Khảm (nay là phố Tràng Thi) xuất hiện quán cà phê đầu tiên. Báo Tương Lai Bắc Kỳ số ngày 5-8-1885 viết: "Từ 1884 đến 1885, số quán cà phê tăng lên rất nhiều, phố Hàng Khảm có các hiệu Café du Commerce, Café de Paris, Café Albin, Café de la Place, Café Block. Nhưng sớm nhất và nổi tiếng nhất là Café de Beira". Nếu Café du Commerce dành riêng cho các thương gia thì Beira là nơi hội tụ của các sỹ quan. Chủ quán Beira là người có tuổi, trước khi nghỉ hưu bà này bán căng-tin trong quân đội. Bộ phim đầu tiên chiếu ở Hà Nội là Thần cọp, tuy nhiên không phải ở rạp mà nó được chiếu tại phòng Grand café trong khách sạn Metropole.
Cà phê được đưa từ Pháp sang và cuối thế kỷ 19. Đầu thế kỷ 20, uống cà phê cũng chỉ người Pháp. Thời kỳ này các quan triều Nguyễn trên đất Bắc, những người hàng ngày phải tiếp xúc với đám sỹ quan Pháp nhưng theo báo Tương lai Bắc Kỳ thì "họ vẫn còn xa lạ với thứ nước uống màu đen như nước cống và có vị đăng đắng". Trước đó, năm 1870, một số nhà tư bản bắt đầu đưa cây cà phê vào trồng trên vùng đất bazan ở Tây Nguyên. Năm 1887, cũng người Pháp đưa cây cà phê vào trồng ở Indonesia. Như vậy có thể nói Việt Nam là nước uống cà phê cũng như trồng cây cà phê sớm nhất Đông Nam Á. Nhưng ai là người Hà Nội đầu tiên uống cà phê và quán cà phê đầu tiên ở Hà Nội do người Việt mở thì không thấy sách nào nói đến. Nhưng có điều chắc chắn đến cuối thập niên 30, ở Hà Nội có khá nhiều quán cà phê, tập trung chủ yếu ở khu phố buôn bán. Cà phê bột các quán sử dụng phần nhiều là Nestle và pha bằng phin.
Trên thế giới có năm kiểu pha cà phê. Mỹ, Đức, Thụy Sỹ pha cà phê bằng cách cho nước sôi chảy qua túi lọc; Ý thì cho nước bị ép dưới áp suất cao rồi mới chảy qua bột cà phê. Còn người Pháp nghĩ ra kiểu giống phin pha hiện có ở các quán ngày nay từ năm 1822. Tuy cùng xuất xứ từ Pháp, nhưng lại có sự khác nhau giữa cà phê Hà Nội và cà phê Sài Gòn. Thời Pháp thuộc, cà phê Sài Gòn chia ra làm hai loại: cà phê bình dân và cà phê cao cấp, trong khi ở Hà Nội chỉ có một loại. Chủ quán cà phê bình dân ở Sài Gòn phần lớn do người Hoa gốc Quảng Đông (ở Sài Gòn giữa thế kỷ 19 có hẳn một phố tên là Quảng Đông). Người lao động sau khi ăn sáng xong, làm một cốc pha sẵn rồi bắt đầu công việc nên cà phê được pha trong tất hay trong vợt. Nghĩa cho cà phê vào trong chiếc tất (miền Nam gọi là vớ), sau đó dội nước sôi nhiều lần cho đến khi mầu nhạt thì thôi. Có quán lại cho cà phê bột vào trong chiếc vợt ngâm vào nước sôi. Hai cách pha này đáp ứng cho lượng khách uống cấp tập vào buổi sáng. Trong khi đó, cà phê ở Hà Nội thời Tây đều pha bằng phin. Người chế ra máy dập lỗ phin cà phê là Trần Văn Minh,vì phin có lỗ dập máy đẹp và đều nên hàng của ông Minh bán chạy từ năm 1942 đến 1946.Ông Minh sau này là người kinh doanh đồ điện nổi tiếng nên có biệt hiệu là Núi điện.Tuy nhiên các phin cỡ lớn vẫn phải đặt thợ Hàng Thiếc. Nét đặc thù của cà phê Hà Nội là dân mê thứ nước mầu nâu có vị đắng này đa phần là trí thức, những người buôn bán khá giả. Người lao động chủ yếu uống nước chè. Chè vừa thức uống truyền thống lại vừa là thứ chữa bệnh (Bình minh nhất trản trà - Lương y bất đáo gia), nên họ không hứng thú với cà phê.
Thời kỳ Pháp tạm chiếm, dân Hà Nội tản cư về các tỉnh không chỉ mang theo phở mà còn cả cà phê. Quán cà phê xuất hiện ở vùng tự do là nguồn sống của nhiều gia đình thời buổi bom đạn, loạn lạc. Còn những người không đi vẫn đến cà phê Nhân, Giảng, Lâm... Mỗi người có cách pha chế riêng để tạo ra hương vị đặc trưng mà các quán khác không có được. Cà phê Nhân đậm đà, cà phê Lâm qua cổ họng trồi lên vị đắng nguyên chất, cà phê Giảng có món cà phê trứng "tam vị, nhị mùi". Sau này có thêm cà phê Hói uống có hậu. Sau năm 1954, cà phê ở Hà Nội hiếm dần. Nguồn cà phê từ Pháp và từ Tây Nguyên không còn, cà phê ở Nghệ An ngày càng cằn cối nên sản lượng không đáng là bao. Thế là ngành ngoại thương nhập cà phê từ Đông Âu và Liên Xô, song cà phê của các quốc gia này chua, khác với khẩu vị cà phê Pháp hay miền Tây Nguyên. Các quán cà phê tư nhân cũng ít dần và được thay thế bằng các quán cà phê quốc doanh. Có thể kể vài quán cà phê quốc doanh khá đông khách như: Bốn Mùa, Nguyên Sinh, Phố Huế... Cửa hàng Nguyên Sinh trước kia là của ông Nguyên Sinh, người chuyên bán cà phê xe đẩy và bánh ngọt lót dạ sáng và tối trên các phố. Nhờ chăm chỉ lại tiết kiệm nên đã mua được cửa hàng mở quán rượu và giải khát "Bistrot Nguyên Sinh" ở phố Thuốc Bắc, sau khi cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, cửa hàng của ông thành hợp doanh và sau đó là của nhà nước.
Cà phê mậu dịch thường không ngon, vì bị nhân viên pha loãng để được nhiều hơn so với chuẩn và số tiền thu được do bán phần dư thì chia nhau. Cũng có khi họ chia nhau cà phê bột mang về nhà cho chồng con uống. Thời bao cấp, cả tư nhân và nhà nước đều gọi là quán giải khát, không ai gọi cà phê. Quán tư nhân ngoài cà phê có sen dừa (gồm nước đường, vài viên mứt sen và một chút dừa nạo thành sợi), nước cam, nước chanh... Còn quán giải khát nhà nước, tùy theo thời kỳ sẽ có thêm sữa nóng, sữa hộp đá, xi rô... bánh thì có bánh quả (vỏ bột mỳ, nhân khoai lang ngào đường đỏ), bánh xốp và bánh sừng bò. Riêng cà phê chỉ có đen và đá, cà phê ngọt hay nhạt người uống phải chịu vì họ giữ lọ đường. Thế mà vẫn xếp hàng, nhất là mùa hè. Đám học sinh cấp III láu lỉnh có cách uống cà phê không mất tiền. Uống xong các cô cậu giấu thìa và cốc vào cặp sách mang ra quán nước chè bán được 4 hào, vừa đủ tiền mua cốc cà phê đá. Đầu năm 1983, người ta cho sửa sang lại nội thất quán Bốn Mùa, trên tường cho gắn những miếng gốm hình các cô gái mặc áo dài, đội nón lá. Bàn được thay bằng gốc cây to bào nhẵn mặt. Ghế cũng bằng các gốc cây nhỏ. Vào quán, khách có cảm giác đây là triển lãm thớt, nên nhiều người gọi Bốn Mùa là cà phê "thớt". Dù sao Bốn Mùa cũng là quán đầu tiên đổi mới nhưng cung cách phục vụ vẫn không thay đổi. Uống cà phê vẫn phải xếp hàng và nì nèo xin thêm cục đá.
Từ khi có cà phê đến nay, thế giới đã tạo ra trên 100 đồ uống có xuất xứ từ cà phê, trong đó Hà Nội góp một thứ thuộc loại độc đáo là cà phê trứng. Người nghĩ ra cà phê trứng chính là Nguyễn Văn Giảng. Cụ quê ở huyện Thanh Oai, Hà Nội. Năm 1924, mới 13 tuổi, Giảng rời quê ra Hà Nội kiếm sống. Lăn lộn đủ nghề, trong đó làm ở quầy bar khách sạn Tavarne Royal (tòa nhà góc ngã tư Tràng Thi - Đinh Tiên Hoàng hiện nay). Sống ở Hà Nội nên Giảng chứng kiến nhiều gia đình đánh trứng với đường để bồi dưỡng cho con và thế là anh thử nghiệm ở nhà. Trứng gà ta chỉ lấy lòng đỏ, sau đó cho vào cốc, thêm một chút sữa, chút đường rồi dùng bông tre đánh cho đều. Khi trứng, đường và sữa quện vào nhau mới cho cà phê đặc. Lại đánh tiếp cho đến lúc bọt dâng lên miệng cốc, mùi thơm tưng bừng tỏa ra là được. Sau nhiều lần rút kinh nghiệm về lượng đường, sữa, anh đã cho ra món cà phê trứng thơm ngon và cực kỳ hấp dẫn thị giác. Anh đặt tên là "cà phê tam vị, nhị mùi " (vị béo của sữa, vị ngọt của đường, vị đắng của cà phê và mùi thơm của trứng gà, mùi thơm của cà phê). Phụ trách quầy bar thấy độc đáo nên quyết định đưa cà phê trứng vào thực đơn. Và lập tức nó thu hút được nhiều khách Pháp. Pháp là một trong những quốc gia sử dụng cà phê đầu tiên ở châu Âu, song cho đến nay, cà phê ở quốc gia này vẫn chỉ có khoảng 6 loại. Có thể họ bảo thủ, có thể quan niệm của họ về cà phê khác với các nước châu Âu khác. Trên thế giới, nước duy nhất có cà phê trứng là Áo với 4 loại gồm: Kaisermelamge (cà phê, lòng đỏ trứng và mật ong), Lamkaffee (Cà phê, rượu, kemsữa), Geburgskaffee (lòng đỏ trứng gà, rượu hoa quả và kem sữa), Zarenkaffee-Espresso (trứng đánh bông đổ lên trên cà phê) và Eíkaffee (lòng đỏ trứng gà đổ lên trên cà phê và kem sữa). Nhưng trong 4 loại cà phê trứng của Áo thì cà phê là nguyên liệu phụ còn cà phê trong món của Giảng lại là chính. Cà phê trứng của Giảng không có rượu, kem như của Áo, đó cũng là khác biệt lớn.
Năm 1946, nhiều gia đình sống ở Hà Nội đi tản cư nhưng gia đình cụ Giảng không đi mà ở lại Hà Nội. Lúc này cụ đã nghỉ việc ở khách sạn và mở quán cà phê ở 90 phố Cầu Gỗ. Buổi sáng, cụ bán phở đến 9 giờ, sau đó là bán cà phê tới đêm. Nhờ biết cách pha theo gu thưởng thức của người Hà Nội và có món cà phê trứng nên quán khá đông khách. Để tạo ra hương vị riêng, cụ không lấy cà phê từ Tây Nguyên mà đặt mua cà phê trồng ở Phủ Quỳ (Nghệ An), cà phê này có mùi vị rất đặc biệt. Sau ngày tiếp quản Thủ đô 10-10-1954, cụ vẫn tiếp tục bán cho đến 1958, năm Nhà nước thực hiện cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Đóng cửa hàng, hai vợ chồng vào làm ở ngành ăn uống và giải khát quốc doanh. Nhờ biết kỹ thuật làm bánh và pha cà phê, cụ trở thành người đi hướng dẫn cho nhiều cửa hàng khắp thành phố. Nhưng lương hai vợ chồng vốn đã thấp lại phải nuôi 8 đứa con nên cụ quyết định mở quán cà phê bán lén tại nhà ở số 7 phố Hàng Gai vào năm 1969. Sở dĩ phải bán lén vì dù cà phê không là mặt hàng cấm nhưng quán tụ tập đông người trong lúc đang chiến tranh nên chính quyền tạm thời cấm. Bên ngoài che đậy bằng chè đậu đen, song khách quen hỏi cà phê thì vẫn có. Cà phê bột hiếm vô cùng nên cụ mua gom từng nửa lạng của mậu dịch viên các cửa hàng giải khát bớt xén, của cán bộ có sổ được mua tại cửa hàng giao tế. Lại có khi nhờ phiên dịch mua suất của chuyên gia Liên Xô... Mua rồi phải gửi mỗi nơi một tí phòng khi quản lý thị trường kiểm tra phát hiện ra là mất hết. Giấu được cà phê bột nhưng đã pha thì không giấu được mùi, nhất là mùi cà phê trứng và thế là bị công an phát hiện, may mà họ cũng thích cà phê trứng nên bỏ qua. Không có sữa hộp, cụ phải nghiền sữa bánh đun cho tan ra. Vì bán lén, có hôm khách đông cụ chỉ đánh qua rồi đưa khách tự đánh, cung cách phục vụ là vậy nhưng cũng không ai phàn nàn. Vào cái thời buổi khó khăn, không phải ai cũng có tiền để uống cà phê trứng hàng ngày nên khách thời đó đa phần là các nhà tư sản còn giấu được của, mấy bác chủ nhiệm hợp tác xã. Đạo diễn Đan Thiết Thụ kể rằng, sau khi Mỹ phải ngừng ném bom Hà Nội ngày 30-12 -1972, ông được phép cùng với các sĩ quan không quân bay trực thăng quay cảnh phố Khâm Thiên đổ nát và lúc trở về sân bay Gia Lâm, khi qua hồ Gươm, mùi cà phê bốc lên trên không thơm ngào ngạt, hóa ra dân Hà Nội vẫn uống cà phê. Và cái gì dân thích thì khó mà cấm đoán, bằng cách này hay cách khác họ vẫn duy trì sở thích của mình.
Đầu thập niên 50, cà phê xe đẩy bán kèm bánh ngọt khá nhiều ở Hà Nội, phần vì những người này không có nhà mặt phố, phần khác là họ chỉ có khu trung tâm buôn bán, công sở mới nhiều khách uống cà phê. Ông Lâm cũng nằm trong số đó, ông "chiếm cứ" ở vườn hoa Paul Bert (nay là vườn hoa Lý Thái Tổ). Khách là công chức, nhân viên Tòa Đốc lý, sở điện, ngân hàng và bưu điện. Sáng ra họ ngồi trên những chiếc ghế đẩu, vừa uống vừa tranh thủ bàn tán chuyện thời cuộc. Mùa đông, ông pha liên tục trên bốn chiếc phin to tướng nhưng vẫn không đủ. Cảnh sát Pháp thấy khách tụ tập đông lấy cớ bảo vệ an ninh cho Tòa Đốc lý cấm không cho bán, thế là ông thuê nhà ở phố Tông Đản (nay là khách sạn Thăng Long Opera) mở quán. Khách lại chạy theo, đa phần là trí thức và thanh niên. Những ngày Việt Minh mở chiến dịch Điện Biên Phủ, quán cà phê là chỗ bàn chuyện chính trị của nhiều trí thức Hà Nội. Năm 1957, ông mua căn nhà ở 60 phố Nguyễn Hữu Huân. Vì mắt ông kèm nhèm nên khách gọi là Lâm "toét". Cà phê Lâm "toét" trở thành địa chỉ quen thuộc của các họa sỹ Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Nguyễn Tư Nghiêm, Văn Cao, Nguyễn Trọng Kiệm, Lưu Công Nhân, Nguyễn Sỹ Ngọc... trong thập niên 60,70. Nguyễn Tuân cũng thường lui tới đây và có lần ông nói vui: "Hữu ngạn sông Saine có bảo tàng Louvre, tả ngạn sông Hồng có cà phê Lâm". Thời kỳ này, các họa sỹ phần lớn là công chức, lương phải nộp cho vợ mới có ăn, tranh vẽ ra không biết bán cho ai nhưng thú uống cà phê lại không thể bỏ. May mà có Lâm "toét", không chỉ quý các văn nghệ sỹ, ông Lâm sẵn sàng cho họ mượn tiền mà không bao giờ đòi. Nếu không có tiền họa sỹ đưa tranh, ông sẵn sàng nhận và coi như món nợ được xí xóa. Lại có họa sỹ cần tiền dùng vào việc này việc nọ nhưng nhẵn túi không biết vay ai và thế là Lâm "toét" sẵn sàng giúp mà không bao nhắc về món nợ ấy. Lại có họa sỹ hứng lên đãi bạn bè, uống xong chỉ còn cách ghé tai ông Lâm xin được khất. Cũng chẳng sao, Lâm "toét" không bao giờ phàn nàn. Nguyễn Sáng từng gửi thư tay cho ông Lâm: "Thân gửi a.Lâm! Tôi cần gặp anh và nói nhỏ với anh với anh là tôi cần 10 đồng để chiều nay tiễn một người bạn đi làm việc. Anh cứ giao cho a.Dậu mang về. Tôi đang sáng tác nên không gặp anh được. Anh rỗi đến tôi chơi. Bao giờ tôi vẫn cho anh là người đi vào lịch sử của cách mạng Việt Nam vì nhân dân quên mình. Thân 29-9-73. Tái bút: Nếu có hơn số đã định càng tốt, không sao cả". Trong thư tích gia đình ông Lâm còn lưu giữ thư của nhạc sĩ Văn Cao viết ngày 25-6-1974, "Nếu như người ta yêu nhau thì nhìn đôi mắt, anh Lâm lại là người kém mắt. Người kém mắt lại yêu hội họa. Tôi yêu người kém mắt ấy và vẽ tặng". Quý đức tính ấy, nhiều họa sỹ nổi hứng ký họa tại chỗ tặng ông, lại có họa sỹ tặng cả tác phẩm hoàn chỉnh, vì thế ông Lâm là một trong những người lưu giữ nhiều tranh của các họa sỹ tiếng tăm. Ông Lâm mất năm 2003, bây giờ quán cà phê vẫn còn, nhưng nó không còn là địa chỉ của văn nghệ sỹ thời nay nữa.
Trước năm 1975 số nhà 110 phố Mai Hắc Đế là quán cà phê Hùng "đù". Người ta gọi như vậy vì ông Hùng là người miền Nam và nói một câu là "đù mẹ". Khách uống cà phê quán Hùng đa phần là có "chất nghệ". Cà phê không sánh được với nhiều nơi khác, càng không thể so được với Nhân, Giảng, Lâm, Hói, song quán Hùng "đù" có chiếc máy quay đĩa hiệu Tuổi trẻ của Liên Xô cùng nhiều đĩa hát của các nước Đông Âu có các ca khúc nổi tiếng của phương Tây. Đặc biệt cà phê Hùng có rất nhiều đĩa của Beattle. Võ nghệ của Hùng "đù" làm giới anh chị phải nể nhưng so với vợ (người Bình Định) thì ông chỉ là môn sinh. Có lần, khách lạ cù nhầy chuyện tiền bạc, vợ ông xách tai lôi ra đường, ông khách kia không dám ho he cum cúp lủi mất. Tuy nhiên ông bà rất dễ chịu và vui tính.
Hà Nội có một quán cà phê khá đặc biệt, sáng là chỗ của bậc cao tuổi, từ trưa cho đến khi đóng cửa chỉ có sinh viên, đó là quán cà phê của bà Bích ở 13 phố Đinh Tiên Hoàng. Năm 1984, cô giáo Bích nghỉ hưu, chẳng biết làm thêm gì để sống, bà tính chuyện bán cà phê. Là con gái cụ Giảng nhưng bà Bích không biết pha chế. Thế là ngày ngày sang học cha. Nhờ có món cà phê trứng gia truyền, còn cà phê mua từ Tây Nguyên rồi tự rang xay theo kiểu riêng, lại thêm món nước sấu tuyệt hảo và giá bình dân, nên quán bà Bích lúc nào cũng đông khách. Vốn là con gái Hà Nội nên bà Bích rất nhẹ nhàng và lịch sự với khách, ai không có tiền bà cho nợ nên đám sinh viên càng thích và họ truyền bá "Phi cà phê Bích bất thành sinh viên". Quán u Bích (đám sinh viên hay gọi là u) trên gác hai. Phải len qua đống va li,túi xách trong ngõ hẹp mới lên được. Quán rộng hơn hai chục mét, phía ngoài có ban công, ngồi đây cả hồ Gươm bị thu gọn vào trong tầm mắt nên kẻ đến sau chỉ mong người đang ngồi mau mau đứng dậy. Quán có chiếc cát-xét, u không phải mua băng vì ai thích nhạc gì tự mang đến, tự lắp vào mà nghe. Có khi nhóm này đang nghe, nhóm khác không thích lại cho băng mình thích vào. Song lạ là không bao giờ xảy ra chuyện. Người ta bán hàng càng đông càng mừng nhưng quán đông bà Bích lại lo vì cái sàn gỗ lâu ngày không được sửa ọp ẹp như muốn sập. Tết nào quán cũng mở qua giao thừa, để chiếm được ban công có nhóm sinh viên phải "đổ bê tông" từ chập tối, đói thì từng người một đi ăn, nhất quyết không rời "trận địa". Lại có năm, một vài sinh viên "xếp gạch" ở ban công, nhằm anh chàng nào có người yêu xinh đẹp gọi ra nhượng lại chỗ lấy tiền thanh toán tiền cà phê cho u Bích. Thời gian chưa cấm pháo, không gì thú vị hơn ngồi đây ngắm thiên hạ đốt pháo, nghe pháo nổ và ngửi mùi thơm thuốc pháo trên màn sương giăng giăng và Tháp Rùa mờ mờ. Đích thực là tết Hà Nội.
Ngày nay không thể đếm được số quán, cũng không thể kể hết các nhãn hiệu cà phê tại Hà Nội. Song cà phê vẫn không phải là thứ uống bình dân vì giá không hề rẻ. Nếu ai sành cà phê và qua nhiều tỉnh thành trên khắp đất Việt sẽ không khó để nhận ra cà phê Hà Nội là số một. Dường như bên ly cà phê, người Hà Nội sắc sảo hơn khi tranh luận về bóng đá, rượu và cả chính trị. Đó cũng là nét rất riêng của cà phê Hà Nội.