• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Điểm dối lừa
  3. Trang 111

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 110
  • 111
  • 112
  • More pages
  • 140
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 110
  • 111
  • 112
  • More pages
  • 140
  • Sau

Chương 105

T

rên tàu Goya lúc này, Tolland đang giới thiệu Xavia với Rachel. Nhà địa chất học của tàu trông lại càng có vẻ thắc mắc hơn về nhóm người đang đứng trước mặt mình. Thêm nữa, cái kiểu vội vã đòi thử nghiệm và rời khỏi tàu của Rachel rõ ràng đang khiến Xavia khó chịu.

Cứ từ tốn, Xavia, Tolland đã bảo cô. Chúng tôi cần biết mọi chuyện.

Xavia bắt đầu nói, giọng kiên quyết. “Mike ạ, trong bộ phim anh đã nói rằng các chondrule chỉ có thể được hình thành ngoài không gian.”

Tolland đã bắt đầu thấy sợ. Chondrule chỉ có thể hình thành ngoài vũ trụ. Đó là điều NASA đã nói với mình.

“Nhưng theo các thông tin ở đây,” Xavia nói và giơ trang báo lên, “điều ấy không hoàn toàn đúng.”

Corky gầm lên. “Tất nhiên là đúng chứ.”

Xavia lườm Corky và vung vẩy tờ báo. “Năm ngoái, một nhà địa chất trẻ tuổi tên là Lee Pollock ở trường Đại học Drew đã sử dụng một loại robot hàng hải mới toanh để thăm dò vỏ Trái đất ở vực Mariana và đưa lên được một viên đá có thành phần mà anh ta chưa từng nhìn thấy bao giờ. Các thành phần của nó nhìn bên ngoài khá tương đồng với chondrule. Anh ta gọi chúng là “những khoáng chất plagioclase thể vùi” - những bong bóng kim loại nhỏ xíu đã tái đồng đẳng trong quá trình chịu áp suất cực lớn dưới đáy biển. Tiến sĩ Pollock kinh ngạc phát hiện ra những túi kim loại này trong một viên đá đại dương và anh ta đã có một giả thuyết đặc biệt để giải thích cho sự xuất hiện của chúng.”

Corky lẩm bẩm. “Thì rõ là phải thế rồi.”

Xavia lờ tịt anh ta. “Tiến sĩ Pollock khẳng định loại đá này được hình thành trong môi trường cực sâu với áp suất siêu lớn. Áp suất ấy làm biến chất những tảng đá có sẵn, cho phép một số kim loại khác nhau trong thành phần của nó chảy ra.”

Tolland cân nhắc chuyện này. Vực Mariana sâu 11 kilômét và là một trong những vùng đất cuối cùng trên hành tinh này thực sự chưa được khám phá. Mới có vài tàu thăm dò không người lái từng xuống đó và hầu hết đều bị ép nát trước khi tới được đáy vực. Áp suất dưới đấy ước tính lên đến hơn 8000 kilôgam trên 0,0006 mét vuông, trong khi đó trên mặt biển, con số này chỉ là 6,3 kilôgam. Các nhà hải dương học vẫn chưa có hiểu biết gì nhiều về tình trạng địa chất thực tế dưới tầng sâu nhất của đại dương ấy. “Thế cái anh chàng Pollock ấy đã nghĩ rằng vực Mariana có thể làm cho đá sản sinh ra chondrule à?”

“Đây vẫn còn là một lý thuyết mơ hồ,” Xavia nói. “Thực tế, nó còn chưa bao giờ được công bố chính thức. Tôi chỉ vô tình đọc được trong các ghi chép cá nhân của Pollock trên mạng vào tháng trước, khi tôi đang nghiên cứu về tương tác đá nóng chảy cho bộ phim sắp tới về megaplume. Ngoài ra, tôi chưa từng nghe nói về nó.”

“Lý thuyết này chưa bao giờ được công bố,” Corky nói, “bởi vì nó thật lố bịch. Cô cần phải có nhiệt lượng mới nung ra được chondrule chứ. Đời nào áp lực nước lại có thể tái sắp xếp kết cấu nội tại của đá.”

Xavia phản bác, “Áp lực mới là thứ đóng vai trò quan trọng nhất trong các biến đổi địa chất học trên hành tinh này. Cái thứ tên là đá biến chất ấy? Địa chất học cơ bản?”

Corky cau có.

Tolland nhận ra Xavia nói đúng. Mặc dù đúng là nhiệt lượng có vai trò nhất định trong sự hình thành đá biến chất trên Trái Đất, nhưng hầu hết những loại đá ấy đều được sinh ra từ áp suất cực lớn. Kỳ lạ thay, các vỉa đá ở tầng vỏ Trái Đất phải chịu áp lực lớn đến mức chúng phản ứng giống các chất lỏng sệt hơn là đá cứng, trở nên mềm dẻo và có những sự biến đổi hóa học trong quá trình ấy. Tuy nhiên, lý thuyết của Tiến sĩ Pollock nghe vẫn có vẻ phiêu lưu quá.

“Xavia,” Tolland nói. “Tôi chưa bao giờ nghe nói chỉ cần áp lực nước thôi cũng làm biến đổi thành phần hóa học của đá. Cô là nhà địa chất học, ý kiến của cô thế nào?”

“Chà,” cô nói trong lúc lật giở tài liệu, “có vẻ như áp suất dưới nước không phải là yếu tố duy nhất.” Xavia tìm thấy đoạn đó và đọc to ghi chép của Pollock. “Vỏ Trái Đất ở vực Mariana, ngoài lực thủy tĩnh cực lớn, còn bị tác động bởi sức ép kiến tạo của các khu vực đang lún xuống.”

Tất nhiên rồi, Tolland nghĩ. Ngoài chuyện bị ép dưới khối nước sâu 11 kilômét, vực Mariana còn là một khu vực vẫn đang tiếp tục sụt lún. Nó nằm đúng trên vết đứt gãy nơi nền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương va vào nhau. Áp suất cộng dồn trong vực chắc phải khủng khiếp lắm và vì khu vực ấy quá xa xôi lại nguy hiểm, nên nếu dưới ấy có chondrule thì cũng hiếm có người biết được chuyện ấy.

Xavia vẫn đang đọc. “Áp lực thủy tĩnh và sức ép kiến tạo cộng lại có thể biến vỏ Trái Đất ở khu vực ấy thành một dạng hóa lỏng sền sệt, khiến những phần tử nhẹ hơn nóng chảy thành các tinh thể trông giống chondrule mà người ta vẫn tưởng chỉ có thể hình thành trên vũ trụ.”

Corky đảo mắt. “Không thể nào.”

Tolland liếc Corky. “Có lời giải thích nào khác cho những chondrule trong đá mà Tiến sĩ Pollock tìm được không?”

“Dễ ợt,” Corky nói. “Thực ra Pollock đã tìm được thiên thạch. Các thiên thạch vẫn rơi xuống biển suốt đấy thôi. Pollock không nghĩ ấy là thiên thạch vì lớp vỏ nhám của nó đã bị bào mòn hết sau nhiều năm chìm dưới nước, khiến trông nó chẳng khác gì đá thường.” Corky quay sang Xavia. “Tôi không nghĩ Pollock lại đủ thông minh để đi kiểm tra hàm lượng niken đâu nhỉ.”

“Thực ra là có,” Xavia phản bác, tiếp tục lật sang trang. “Pollock đã viết: ‘Tôi rất ngạc nhiên khi phát hiện ra tỉ lệ niken của mẫu vật rơi vào tầm giá trị trung bình hiếm thấy trên các loại đá ở Trái Đất’.”

Tolland và Rachel cùng nhìn nhau sửng sốt.

Xavia đọc tiếp. “Mặc dù hàm lượng niken không rơi hẳn vào trong phạm vi được chấp nhận của các tảng thiên thạch thường thấy, nhưng nó vẫn sát một cách đáng kinh ngạc.”

Rachel tỏ ra bối rối. “Sát đến mức nào? Có cách nào để người ta nhầm lẫn tảng đá dưới biển này thành thiên thạch không?”

Xavia lắc đầu. “Tôi không chuyên về hóa-thạch học, nhưng theo tôi hiểu có vô số sự khác biệt về hóa học giữa đá mà Pollock tìm được với các thiên thạch.”

“Khác biệt gì cơ?” Tolland hỏi ngay.

Xavia quay sang nhìn một đoạn ghi chép trong sổ của mình. “Theo như trong này nói thì một trong những khác biệt đó là ở cấu trúc hóa học của chính các chondrule. Có vẻ như là ở tỉ lệ titanium/ zirconium khác nhau. Tỉ lệ zirconium trong chondrule dưới đáy biển gần như là không có. Chỉ chiếm hai phần triệu.”

“Hai phần triệu ư?” Corky buột miệng kêu lên. “Trong thiên thạch thì phải có gấp cả ngàn lần như thế.”

“Chính xác.” Xavia trả lời. “Đó là lý do Pollock nghĩ các chondrule trên mẫu đá của anh ta không phải từ vũ trụ.”

Tolland nghiêng người sang hỏi Corky, “NASA có đo tỉ lệ titanium/zirconium trên tảng đá ở Milne không?”

“Tất nhiên là không,” Corky lắp bắp. “Làm gì có ai đi đo cái đó. Việc đó chẳng khác nào nhìn vào một chiếc ô tô rồi đi đo thành phần cao su trong lốp xe để khẳng định đó chính là một chiếc ô tô.”

Tolland thở dài rồi nhìn lại Xavia. “Nếu chúng tôi đưa cho cô một mẩu đá có chứa chondrule ở trên đó, cô có thể tiến hành kiểm tra xem chính xác thì chúng là chondrule trên thiên thạch hay chúng giống như những thứ chịu áp lực dưới đại dương của Pollock được không?”

Xavia nhún vai. “Tôi cho là được. Độ phân giải của kính hiển vi điện tử chắc là đủ. Mà chuyện này là thế nào đấy?”

Tolland quay sang Corky. “Đưa nó cho cô ấy đi.”

Corky miễn cưỡng lôi mẫu thiên thạch từ trong túi áo ra đưa cho Xavia.

Lông mày cô ấy chau lại khi nhận viên đá hình đĩa. Cô nhìn lớp nhám bên ngoài rồi đến các hóa thạch nằm bên trong. “Chúa ơi!” Cô ngẩng đầu lên ngay. “Cái này không phải là…”

“Ừ,” Tolland nói. “Không may đúng là nó đấy.”