• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Điểm dối lừa
  3. Trang 114

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 113
  • 114
  • 115
  • More pages
  • 140
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 113
  • 114
  • 115
  • More pages
  • 140
  • Sau

Chương 108

T

rong lúc Corky và Xavia chúi đầu trên kính hiển vi điện tử để cùng đo tỉ lệ zirconium trên mẫu chondrule, Rachel đi theo Tolland sang phòng kế bên. Ở đây Tolland bật một cái máy tính khác lên. Rõ ràng là nhà hải dương học còn muốn kiểm tra một thứ nữa.

Trong khi máy tính khởi động, Tolland quay sang Rachel, muốn nói gì đó nhưng rồi lại thôi.

“Sao vậy?” Rachel hỏi, ngạc nhiên khi mình lại bị hút về phía anh đến thế, ngay cả giữa đống sự kiện hỗn loạn này. Cô ước gì mình có thể gạt bỏ tất cả để ở bên anh, dù chỉ trong chốc lát.

“Tôi nợ cô một lời xin lỗi.” Tolland nói, trông đầy hối hận.

“Vì điều gì?”

“Lúc trên boong ấy? Lũ cá mập đầu búa nữa. Tôi đã quá vui mừng. Đôi khi tôi quên mất đại dương với nhiều người là một điều rất đáng sợ.”

Đứng đối diện với anh, Rachel cảm thấy mình giống như một cô gái mới lớn đang đứng trước hiên nhà cùng với người bạn trai mới. “Cảm ơn anh. Không sao đâu. Thật đấy.” Điều gì đó bên trong cô mách bảo rằng Tolland đã muốn hôn cô.

Sau một thoáng, anh bẽn lẽn quay đi. “Tôi biết. Cô muốn lên bờ. Chúng ta nên quay lại công việc.”

“Lúc này thôi.” Rachel cười nhẹ.

“Lúc này thôi.” Tolland nhắc lại rồi ngồi vào trước máy tính. Rachel thở phào, đứng sát sau lưng anh và tận hưởng sự riêng tư của phòng thí nghiệm chật chội. Cô nhìn Tolland di chuột đến một tập file. “Chúng ta đang làm gì đây?”

“Kiểm tra dữ liệu để tìm loại rận biển khổng lồ. Tôi muốn xem liệu ta có thể tìm được loại hóa thạch cổ đại nào tương tự với thứ trông thấy trong thiên thạch của NASA không.” Anh mở trang tìm kiếm có mấy chữ in hoa bên trên: DỰ ÁN DIVERSITAS.

Kéo chuột xuống danh mục, Tolland giải thích, “Về cơ bản Diversitas là một cơ sở dữ liệu về hệ sinh thái đại dương liên tục được cập nhật. Khi một nhà sinh vật học hải dương nào đó phát hiện ra loài mới hoặc hóa thạch mới ở biển, anh ta sẽ chia sẻ bằng cách tải lên ngân hàng dữ liệu các thông tin cùng hình ảnh của nó. Vì mỗi tuần đều có quá nhiều thông tin được phát hiện, nên đây là cách duy nhất để khỏi bị lạc hậu trong nghiên cứu.”

Rachel nhìn Tolland kéo thanh công cụ. “Giờ anh đang truy cập Internet đấy à?”

“Không. Trên biển khó kết nối lắm. Chúng tôi lưu trữ tất cả thông tin này trong một ổ cứng có dung lượng lớn ở phòng bên cạnh. Mỗi lần cập bến chúng tôi sẽ kết nối với Dự án Diversitas để cập nhật ngân hàng dữ liệu với những phát hiện mới nhất. Bằng cách này, khi ở trên biển, chúng tôi vẫn tiếp cận được thông tin dù không có kết nối internet và dữ liệu cũng chỉ bị chậm 1 đến 2 tháng là cùng thôi.” Tolland cười khi anh bắt đầu gõ các từ khóa vào máy tính. “Chắc cô có nghe nói đến chương trình chia sẻ file nhạc mở tên là Napster rồi?”

Rachel gật đầu.

“Diversitas được coi là Napster phiên bản của các nhà sinh vật học hải dương. Chúng tôi gọi nó là LOBSTER1 - Những nhà sinh vật học cô đơn chia sẻ những nghiên cứu hoàn toàn lập dị.”

1 Viết tắt của Lonely Oceanic Biologists Sharing Totally Eccentric Research.

Rachel cười phá lên. Ngay cả trong tình trạng căng thẳng thế này mà khướu hài hước của Michael Tolland vẫn xoa dịu được nỗi sợ trong cô. Cô đã bắt đầu nhận ra gần đây đời sống của mình quá ít tiếng cười.

“Cơ sở dữ liệu của chúng tôi rất lớn,” Tolland nói, hoàn thành dòng từ khóa mô tả. “Hơn 10 terabyte2 các bản mô tả và hình ảnh. Trong đây có những thông tin mà chưa ai từng biết đến - và sẽ không có ai được biết. Các loài trong đại dương đơn giản là quá nhiều.” Anh bấm chọn từ tìm kiếm. “Được rồi, để xem có ai từng trông thấy những hóa thạch trong đại dương mà gần giống với những con bọ vũ trụ của chúng ta không.”

2 Là một thuật ngữ đo lường dùng để chỉ dung lượng lưu trữ máy tính (thường được viết tắt là TB).

Vài giây sau màn hình chuyển đổi, hiện ra 4 loài hóa thạch. Tolland chọn từng cái một và xem ảnh. Không có cái nào na ná như hóa thạch trong thiên thạch ở Milne cả.

Tolland cau mày. “Để thử cách khác xem nào.” Anh bỏ từ “hóa thạch” ra khỏi dòng lệnh của mình và chọn “tìm kiếm.” “Chúng ta sẽ tìm những loài còn sống vậy. Có khi lại tìm được một hậu duệ vẫn còn tồn tại và mang nhiều đặc trưng hình thể như hóa thạch ở Milne ấy chứ.”

Màn hình lại chuyển động.

Một lần nữa, Tolland cau mày. Máy tính trả lại hàng trăm kết quả. Anh ngồi một lát để gãi cái cằm đã lún phún râu. “Được rồi, thế này thì nhiều quá. Chúng ta hãy thử sàng lọc một lần nữa xem nào.”

Rachel theo dõi anh chuyển sang cột ghi “môi trường sống.” Các lựa chọn dường như không có điểm dừng: vùng thủy triều, đầm, phá, vùng có đá ngầm, núi ngầm trong lòng biển, mạch sun phua. Tolland kéo xuống dưới danh sách và chọn mục có tên: KHE VỰC HIẾM SỰ SỐNG.

Thông minh thật, Rachel nhận xét. Tolland đã giới hạn tìm kiếm của mình tới những loài sống gần môi trường được cho là có thể hình thành những thứ giống chondrule.

Màn hình lại chuyển động lần nữa. Lần này, Tolland cười. “Tốt rồi. Chỉ có 3 mục.”

Rachel nheo mắt nhìn cái tên đầu tiên trên danh sách. Limulus poly… gì đó.

Tolland bấm chọn. Một bức ảnh hiện ra. Sinh vật ấy trông giống một con cua móng ngựa cỡ lớn không có đuôi.

“Không phải.” Tolland nói và trở lại trang trước.

Rachel nhìn mục thứ 2. Shrimpus Uglius From Hellus3. Cô cảm thấy bối rối. “Cái đó mà cũng là tên à?”

3 Biến tấu từ cụm Shrimp ugly from Hell, có nghĩa là loài tôm xấu hoắc từ địa ngục.

Tolland cười. “Không phải. Đây là một loài mới chưa được phân loại. Người phát hiện ra nó hẳn là hài hước lắm. Anh ta đã gợi ý đặt cái tên Shrimpus uglius làm tên khoa học chính thức cho nó.” Tolland mở ảnh ra, nó quả là một loài sinh vật giống tôm xấu ma chê quỷ hờn, với những cái râu và ăng ten màu hồng neon.

“Tên gì mà hợp thế,” Tolland nói. “Nhưng vẫn không phải chú bọ vũ trụ của chúng ta.” Anh quay lại danh mục. “Món cuối cùng là…” Anh chọn mục thứ 3 và trang tiếp theo hiện lên.

“Bathynomous giganteus…” Tolland đọc lớn đoạn mô tả trong lúc chờ ảnh hiện ra. Một bức ảnh màu chụp gần.

Rachel giật nảy. “Chúa ơi!” Sinh vật đang nhìn chòng chọc lại cô khiến cô lạnh sống lưng.

Tolland hít một hơi thật sâu. “Ôi trời. Gã này trông quen quá.”

Rachel gật đầu, không biết phải nói gì thêm. Bathynomous giganteus. Trông nó y chang một con rận khổng lồ đang bơi. Và nó rất giống loài hóa thạch trong tảng đá của NASA.

“Chỉ có một số điểm khác biệt không đáng kể,” Tolland nói, kéo xuống xem những tiêu bản giải phẫu học và số liệu. “Nhưng mà rất giống. Đặc biệt là khi cân nhắc đến chuyện loài này đã có 190 triệu năm tiến hóa.”

Giống lắm, Rachel nghĩ. Quá giống.

Tolland đọc đoạn mô tả trên màn hình. “Được cho là một trong những loài cổ xưa nhất trong đại dương, loài Bathynomous giganteus là vô cùng quý hiếm và chỉ mới được phân loại gần đây. Chúng thuộc họ đẳng túc ăn xác thối hiếm thấy, chuyên sống ở tầng nước sâu và có hình dạng giống một loại bọ lớn. Có thể dài đến đến 60 centimét. Loài này có lớp vỏ kitin chia thành đầu, ức và bụng. Chúng có 2 phần phụ, ăng ten và mắt hỗn hợp giống các loài côn trùng trên mặt đất. Cho đến nay vẫn chưa tìm ra được bất kỳ loại nào như bathynomous giganteus, có thể sống ở những môi trường cằn cỗi mà trước đây người ta vẫn cho là không thể tồn tại sự sống.” Tolland ngước lên. “Điều này cũng có thể giải thích được cả sự thiếu vắng các hóa thạch loài khác trong mẫu vật!”

Rachel nhìn chằm chằm vào sinh vật trên màn hình, vừa vui nhưng cũng vừa băn khoăn không hiểu mình đã nắm rõ ý nghĩa của toàn bộ việc này chưa.

“Hãy tưởng tượng xem,” Tolland phấn khích nói, “190 triệu năm trước, một ổ Bathynomous bị vùi trong một mảng bùn sâu dưới đáy đại dương. Khi bùn cứng lại thành đá, bọ bị hóa thạch. Đồng thời đáy đại dương cũng không ngừng chuyển động như một băng tải từ từ tuột xuống dưới vực, mang theo hóa thạch này vào vùng áp suất cực lớn nơi đá hình thành những chondrule!” Tolland nói càng lúc nhanh. “Và nếu một phần của lớp đá có chứa hóa thạch và chrondrule này vỡ ra rồi trôi tới một khe sâu có thể tiếp cận được, chuyện này thực ra cũng không phải là hiếm gặp, thì nó hoàn toàn có thể được phát hiện!”

“Nhưng nếu NASA…” Rachel lắp bắp. “Ý tôi là, nếu tất cả chỉ là một lời nói dối, thì hẳn NASA phải biết chẳng chóng thì chày cũng sẽ có người phát hiện ra hóa thạch ấy giống một sinh vật biển chứ? Chẳng phải chúng ta đã phát hiện ra đấy thôi!”

Tolland đang in ảnh Bathynomous trên máy in laze. “Tôi không biết. Ngay cả khi có ai đó đứng lên chỉ ra những điểm tương đồng giữa hóa thạch và loài rận biển này đi chăng nữa, các đặc điểm hình thể của chúng cũng không hoàn toàn giống nhau. Việc ấy gần như càng củng cố chắc chắn giả thuyết của NASA.”

Rachel bỗng hiểu ra. “Thuyết tha sinh.” Sự sống trên Trái Đất được bắt nguồn từ vũ trụ.

“Chính xác. Sự giống nhau giữa một thực thể vũ trụ và thực thể trên Trái Đất hoàn toàn phù hợp về mặt khoa học. Loại rận biển này thực ra là chỉ càng củng cố cho mọi giả thuyết của NASA hơn mà thôi.”

“Trừ khi có ai đó nghi ngờ tính xác thực của chính thiên thạch.”

Tolland gật đầu. “Nếu tảng thiên thạch này bị nghi ngờ thì mọi chuyện sẽ đổ bể. Chú rận biển của chúng ta sẽ từ bạn trở thành thòng lọng của NASA.”

Rachel im lặng nhìn các trang hình ảnh của Bathynomous đang ra khỏi máy in. Cô cố tự nhủ rằng rốt cuộc đây chỉ là một sai lầm ai cũng mắc phải của NASA, nhưng cô biết không phải thế. Khi mắc sai lầm phổ biến, người ta sẽ chẳng bao giờ giết người bịt đầu mối cả.

Giọng léo nhéo của Corky bỗng vang vọng trong phòng thí nghiệm. “Không thể nào!”

Cả Tolland và Rachel cùng quay sang.

“Đo lại lần nữa đi! Không hợp lý gì hết!”

Xavia vội vã đi vào, trong tay là 1 tờ giấy vừa in ra từ máy tính. Mặt cô ấy tái mét. “Mike, tôi không biết phải nói sao…” Giọng cô ấy tắc nghẹn. “Tỉ lệ titanium/zirconium mà chúng tôi tìm được trên mẫu vật ấy?” Cô hắng giọng. “Có vẻ như NASA đã mắc một sai lầm khủng khiếp. Thiên thạch ấy chẳng qua chỉ là một hòn đá dưới biển”. Tolland và Rachel nhìn nhau, không ai nói một lời. Họ đã biết điều đó. Chỉ cần câu đó thôi là mọi hoài nghi và ngờ vực đã tan biến.

Tolland gật đầu, mắt buồn rười rượi. “Vâng. Cảm ơn cô, Xavia.”

“Nhưng tôi không hiểu. “Lớp vỏ bị nung chảy… rồi lại còn vị trí trong băng…”

“Trên đường lên bờ chúng tôi sẽ kể cho cô nghe,” Tolland nói. “Chúng ta đi thôi.”

Rachel nhanh chóng thu thập hết giấy tờ và bằng chứng họ có trong tay. Những bằng chứng ấy đã quá rõ ràng: bức ảnh in từ máy GPR cho thấy đường hầm bên dưới sông băng Milne, những ảnh chụp loài rận đại dương giống hóa thạch của NASA, bài báo về chondrule trong đại dương của Tiến sĩ Pollock, dữ liệu phân tích dưới kính hiển vi cho thấy tỉ lệ zirconium gần bằng 0 trong tảng thiên thạch.

Kết luận bây giờ là không thể chối cãi được nữa. Giả.

Tolland nhìn chồng giấy tờ trong tay Rachel và thở dài não nề. “Vậy là William Pickering đã có đầy đủ bằng chứng.”

Rachel gật đầu, một lần nữa tự hỏi sao Pickering lại không nghe máy.

Tolland cầm một chiếc điện thoại gần đó lên và đưa cho cô. “Cô muốn thử gọi ông ấy từ đây không?”

“Không, ta lên đường thôi. Tôi sẽ thử lại trên trực thăng.” Rachel đã quyết định là cô sẽ không gọi cho Pickering nữa, cô sẽ bảo đội cứu hộ bờ biển đưa họ về thẳng trụ sở NRO chỉ cách đây gần 300 kilômét.

Tolland định dập máy thì ngập ngừng. Bối rối, anh lắng tai nghe điện thoại và cau mày. “Lạ ghê. Không có tín hiệu.”

“Ý anh là sao?” Rachel nói, bỗng dưng thấy lo lắng.

“Lạ thật.” Tolland nói. “Đường dây vệ tinh COMSAT có bao giờ mất tín hiệu…”

“Anh Tolland?” Viên phi công lao rầm rập vào trong phòng thí nghiệm, mặt trắng bệch.

“Sao thế?” Rachel hỏi. “Có ai đang đến à?”

“Vấn đề là ở chỗ đó,” phi công trả lời. “Tôi không biết. Tất cả ra đa và thiết bị liên lạc trên máy bay đã tắt ngóm rồi.”

Rachel nhét giấy tờ vào trong người. “Lên máy bay ngay. Chúng ta phải đi. NGAY LẬP TỨC.”