• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Điều diệu kỳ từ cách nhìn cuộc sống
  3. Trang 7

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 22
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 22
  • Sau

Điều quý giá nhất

“Cuộc đời này còn rất nhiều điều quan trọng hơn việc sở hữu mọi thứ.”

- Maurice Sendak

Sau một thời gian dài tìm kiếm, chúng tôi đã tìm được mảnh đất hoàn hảo để xây dựng gia đình: một mảnh đất gần Spokane, bang Washington; xung quanh đó là rừng thông bao la và những con suối nhỏ. Khi tôi và Joy, vợ tôi, vừa nhìn thấy mảnh đất, chúng tôi đã biết ngay đó chính là địa điểm hoàn hảo cho ngôi nhà mơ ước của chúng tôi. Mảnh đất đó được bán giá rất cao - vượt xa so với mức mà tôi có thể xoay xở với đồng lương khiêm tốn của một giáo sư Triết học tại Đại học Whitworth. Nhưng vì muốn mua mảnh đất, tôi đã bắt đầu nhận dạy thêm ngoài giờ đồng thời kiếm thêm nghề tay trái trong ngành bất động sản.

Sau cùng, hai vợ chồng tôi cũng mua được mảnh đất. Tôi vui sướng bế Soren, cậu con trai út mới sinh của chúng tôi, dạo quanh mảnh đất trống. “Cha đảm bảo con sẽ thích mê khi được thỏa thích dạo chơi trên những đồng cỏ và những con suối ở đây”, tôi thủ thỉ với thằng bé.

Hè năm đó, chúng tôi bắt đầu xây dựng ngôi nhà mơ ước của mình. Anh vợ tôi vốn là một kiến trúc sư và anh đã thiết kế cho chúng tôi một ngôi nhà xinh đẹp làm quà. Suốt khoảng thời gian xây nhà, ngày nào tôi cũng làm việc quần quật từ sáng sớm đến chiều muộn, sau đó tôi chạy vội về nhà ăn tối rồi lại đi đến lớp dạy thêm ban đêm. Mỗi khi các kỹ sư xây dựng hỏi tôi muốn chọn loại vật liệu nào cho ngôi nhà mới của mình, tôi đều trả lời: “Các anh cứ lấy loại tốt nhất. Chúng tôi sẽ sống ở ngôi nhà đó cả đời”.

Mỗi khi có công việc bên ngoài trường học, tôi thường dẫn theo hai cô con gái của mình - Sydney năm tuổi và Whitney bảy tuổi. Thế nhưng khi cùng ăn tối với cả nhà, tôi lại không thường xuyên nói chuyện hay đùa giỡn với các con vì quá mệt mỏi. Thời điểm đó, tôi hiếm khi dành tâm trí cho gia đình bởi chi phí xây nhà đang đội lên ngày một cao khiến tôi luôn lo lắng. Thế nhưng sau cùng chúng tôi cũng làm được - chúng tôi đã xây xong ngôi nhà mơ ước của mình! Ngày chuyển vào nhà mới, tôi cảm thấy tự hào và thỏa mãn vô cùng. Tôi hào hứng muốn dẫn các con khám phá ngôi nhà mới, gặp gỡ hàng xóm mới và làm quen thêm nhiều bạn mới.

Nhưng chỉ một tuần sau, chúng tôi đã phải dọn ra khỏi đó.

Vì không thể bán được ngôi nhà cũ, ban đầu chúng tôi dự định cho thuê ngôi nhà đó để có tiền trang trải món nợ của ngôi nhà mới. Thế nhưng đến phút cuối, người thuê nhà lại hủy hợp đồng. “Chúng ta sẽ tìm được cách xoay xở thôi”, tôi trấn an Joy. Nhưng cô ấy rất tỉnh táo khi đối mặt với tình trạng tài chính bi quan của chúng tôi. Cô ấy nói: “Forrest, nếu cứ thế này thì chúng ta không sở hữu ngôi nhà mà chính ngôi nhà đang sở hữu chúng ta”.

Trong thâm tâm, tôi biết cô ấy nói đúng. Vì ngôi nhà mới tọa lạc ở vị trí đẹp và có kiến trúc độc đáo, ngôi nhà này chắc chắn sẽ bán được nhanh hơn ngôi nhà cũ. Tôi chần chừ mãi mới đồng ý với cô ấy việc bán nhà, và nỗi thất vọng đã khiến tôi suy sụp suốt một thời gian dài sau đó. Một buổi chiều nọ, tôi đã lái xe đến chỗ ngôi nhà mơ ước của mình và ngồi yên trong xe nhìn ngôi nhà mình đã dùng hết tâm huyết xây dựng nên. Cảm giác thất bại não nề bỗng dâng lên và tôi bắt đầu bật khóc trong nỗi ngạc nhiên của chính mình.

Mùa thu và mùa đông năm đó đã trôi qua mà tôi vẫn chưa vượt qua được cảm giác mất mát trong lòng. Tôi nghiên cứu về tôn giáo và triết học nên lẽ ra tôi phải biết rõ điều gì mới thật sự quan trọng trong đời - như những gì tôi đã dạy các sinh viên của mình; thế mà tôi vẫn cứ buồn bã mãi không nguôi.

Tháng Tư năm sau đó, cả nhà tôi cùng đến thăm gia đình Joy ở California. Một hôm, gia đình tôi bắt xe buýt đến thăm khu di tích Mission of San Juan Capistrano, một địa điểm du lịch rất nổi tiếng.

“Con cho bồ câu ăn được không cha?”, Whitney nài nỉ. Con bé chồm người về phía trước, cúi đầu nhìn xuống đài phun nước nằm giữa khoảng sân được trồng rất nhiều hoa. Hai vợ chồng tôi cùng cha mẹ Joy thay phiên dẫn bọn trẻ đi cho bồ câu ăn, đến các cửa hàng bán đồ lưu niệm và tham quan vườn hoa. Đến lúc chuẩn bị ra bến xe buýt về nhà, tôi nhìn quanh tìm Joy và thấy cô ấy đang đi với hai cô con gái, ngay cạnh đó là cha mẹ chúng tôi.

“Soren đâu rồi em?”, tôi hỏi.

“Em tưởng thằng bé đang đi với anh chứ?”

Chúng tôi kinh hoàng nhận ra chúng tôi đã để lạc thằng bé gần hai mươi phút rồi. Soren mới hai mươi tháng tuổi và là một đứa bé vô cùng hiếu động, gan dạ và thân thiện. Thế nên hiện giờ thằng bé có thể ở bất cứ chỗ nào.

Chúng tôi vội vã tản ra đi tìm thằng bé khắp khu di tích. “Anh có nhìn thấy một bé trai tóc đỏ cao chừng này không?”, tôi hỏi mọi người tôi gặp trên đường. Tôi chạy đi tìm Soren ở khu vườn đằng sau nhà thờ và ở tất cả các cửa hàng bán đồ lưu niệm nhưng vẫn không thấy bóng dáng thằng bé đâu. Tôi bắt đầu trở nên hoảng loạn.

Bất thình lình, tôi nghe tiếng Joy hét lên: “Ôi không!”. Ngay sau đó tôi nhìn thấy Soren. Thằng bé đang nằm trên thành một đài phun nước với hai cánh tay buông thõng. Người thằng bé tái xanh, bụng phình to và thằng bé trông không còn chút sức sống nào. Hình ảnh Soren nằm đó hằn sâu vào tâm trí tôi. Ngay giây phút đó, tôi biết rằng cuộc đời mình sẽ không bao giờ giống như xưa nữa.

Một người phụ nữ đứng ngay gần đó ngay lập tức chạy đến chỗ Soren, nhẹ nhàng nhấc đầu thằng bé lên và tiến hành hà hơi thổi ngạt cho thằng bé. Cùng lúc đó, một người đàn ông khác cũng tiến hành ép tim ngoài lồng ngực cho thằng bé. “Con tôi… thằng bé vẫn ổn chứ?”, tôi thất thanh hỏi, lòng sợ hãi phải nghe sự thật.

“Chúng tôi đang cố gắng hết sức”, người phụ nữ nói. Joy quỵ ngã, miệng lẩm bẩm trong trạng thái thất thần: “Không thể như vậy được. Không thể được”.

Cầu xin Chúa, xin hãy giữ thằng bé ở lại, tôi khẩn thiết cầu nguyện. Tôi biết rõ cơ hội sống sót của thằng bé là vô cùng mong manh, đặc biệt là nếu thằng bé đã đuối nước hơn hai mươi phút.

Chưa đầy một phút sau, tổ cấp cứu đến nơi. Soren được gắn máy thở và đưa ngay đến bệnh viện. Tổ cấp cứu tiến hành kiểm tra sơ bộ cho thằng bé và đánh giá Soren “bị thiếu oxy do đuối nước”.

“Thằng bé sao rồi bác sĩ?”, tôi liên tục hỏi các nhân viên trong tổ cấp cứu suốt quãng đường đến bệnh viện.

“Hiện tại thằng bé vẫn ổn”, một y tá trả lời tôi. “Nhưng hai mươi bốn tiếng tiếp theo rất quan trọng. Chúng tôi sẽ đưa thằng bé đến bệnh viện Trung ương miền Tây ở Santa Ana bằng máy bay trực thăng.”

Cô y tá nhìn tôi với vẻ thông cảm và nói thêm: “Nhưng anh cần chuẩn bị tinh thần, vì dù vượt qua được, thằng bé vẫn có nguy cơ cao bị tổn thương não nghiêm trọng”.

Tôi chưa bao giờ nghĩ đến cảnh đứa con trai bé bỏng của mình phải nằm ở phòng chăm sóc tích cực trong bệnh viện. Cơ thể mềm oặt, trần truồng của thằng bé trông càng bé nhỏ hơn khi nằm giữa vô số máy móc và dây nhợ. Một bác sĩ phẫu thuật thần kinh đã đặt máy dò áp lực nội sọ vào giữa trán và đỉnh đầu của thằng bé. Thiết bị này được cố định trên đỉnh đầu thằng bé bằng một chiếc đinh vít có đai ốc cánh ở trên. Ngón tay Soren được gắn một thiết bị có đèn đỏ nhấp nháy. Thằng bé trông như một sinh vật ngoài hành tinh vậy.

Soren sống sót qua hai mươi bốn tiếng đồng hồ đầu tiên. Trong bốn mươi tám tiếng tiếp theo, Soren bị sốt đến hơn bốn mươi độ và hai vợ chồng tôi không dám rời thằng bé nửa bước. Chúng tôi ngồi ngay bên cạnh thằng bé, khe khẽ hát những bài hát ru quen thuộc, hy vọng những bài hát này có thể xoa dịu được nỗi khốn khổ thằng bé đang phải chịu đựng.

Hai ngày kinh hoàng cũng trôi qua và Soren bắt đầu hạ sốt. “Anh chị cũng cần phải nghỉ ngơi một lát”, bác sĩ phụ trách Soren hết lời khuyên nhủ chúng tôi. Thế nên tôi và Joy đã cùng lái xe đi vòng quanh thành phố và trò chuyện với nhau.

“Anh không chỉ lo lắng về tình trạng của Soren mà còn lo về cả mối quan hệ của chúng ta”, tôi nói. “Anh nghe nói có nhiều gia đình đã đổ vỡ sau khi trải qua những bi kịch tương tự thế này. Anh sẽ không thể chịu nổi nếu mất luôn cả em.”

“Dù chuyện gì xảy ra đi nữa”, cô ấy nói, “chúng ta cũng sẽ chiến đấu cùng nhau. Tình yêu chúng ta dành cho Soren vượt trên cả tình yêu chúng ta dành cho nhau.”

Đó chính là những lời tôi muốn nghe nhất lúc này. Chúng tôi bật khóc và rồi nhìn nhau cười trong nước mắt. Chúng tôi nhắc lại những kỷ niệm, những khoảnh khắc quý giá và những điểm đáng yêu ở cậu con trai tinh nghịch của chúng tôi. Thằng bé rất thích chơi bóng. Khi Soren chưa đầy một tuổi, tôi đã đặt một trụ bóng rổ trẻ em trong phòng ngủ thằng bé. “Em có còn nhớ thằng bé thường hét ‘Ye’ thật to mỗi khi lao đi trên xe tập đi không?”, tôi hỏi.

Chúng tôi cũng nói về nỗi sợ thằng bé sẽ bị tổn thương não. “Các bác sĩ giờ đã có vẻ lạc quan hơn”, tôi trấn an Joy. Bác sĩ đã nói với chúng tôi rằng Soren còn sống chính là nhờ được sơ cứu kịp thời ngay khi được phát hiện. Mỗi khi nghĩ đến việc chúng tôi đã để lạc thằng bé tận hai mươi phút, chúng tôi lại cảm thấy biết ơn vì ít ra thằng bé còn có một cơ hội để giành giật sự sống. Chúng tôi sẽ làm mọi cách có thể để cứu sống Soren, chúng tôi chỉ không biết cuộc sống của thằng bé và cả gia đình sẽ bị tác động ra sao nếu thằng bé bị tổn thương não nghiêm trọng.

“Em có tin nổi rằng suốt mấy tháng qua, điều khiến anh trăn trở nhất lại là việc chúng ta mất đi ngôi nhà không?”, tôi hỏi. “Ngôi nhà mới kia có gì tốt đẹp nữa nếu chúng ta sống ở đó mà không có con mình?”

Dù Soren vẫn còn hôn mê, cuộc nói chuyện hôm đó đã giúp hai vợ chồng tôi bình tĩnh hơn rất nhiều. Chúng tôi cũng nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ từ bạn bè, gia đình và những người xung quanh.

Ngày hôm sau, có bốn vị khách ghé thăm Soren. Người đầu tiên là Dave Cameron, người đã phát hiện ra Soren bị đuối nước và sau đó tiến hành ép tim cho thằng bé. Ông là một cựu chiến binh và hiện đang làm hướng dẫn viên du lịch ở khu di tích. “Hôm đó tôi đến khu di tích từ khá sớm. Khi đang đứng gần chỗ đài phun nước, tôi bỗng cảm nhận được một điềm báo mạnh mẽ”, ông nói, “đó cũng là lúc tôi nhìn thấy đế đôi giày bé xíu của thằng bé trong đài phun nước. Sau đó tôi đã làm mọi việc theo bản năng và những kiến thức tôi học được trong chương trình huấn luyện hướng dẫn viên.”

Vị khách thứ hai là Mikiel Hertzler, người phụ nữ đã tiến hành hà hơi thổi ngạt cho Soren đến tận khi xe cấp cứu đến. “Tôi từng học hồi sức tim phổi”, bà nói với chúng tôi. “Lần đầu tiên bắt mạch cho thằng bé, tôi thấy mạch đã dừng. Nhưng rồi tôi nhìn thấy những bong bóng nhỏ dưới cuống họng thằng bé nên tôi đoán thằng bé đang cố thở.”

Tôi rùng mình khi nghĩ đến tình trạng tồi tệ có thể xảy ra nếu người phát hiện ra thằng bé là người không có kiến thức y khoa và bỏ cuộc ngay khi thấy mạch thằng bé ngừng đập. Tôi thật sự không dám tưởng tượng đến tình cảnh đó.

Hai vị khách cuối cùng là hai thành viên trong tổ cấp cứu hôm đó đã đưa thằng bé đến bệnh viện, Brian Stephens và Thor Swanson. Hai người nói rằng bình thường tổ cấp cứu ở cách khu di tích khoảng mười phút đi đường, nhưng hôm đó khi chúng tôi gọi điện họ đang có việc ở dãy nhà ngay gần khu di tích, nên họ đã có mặt trong vòng chưa đến một phút. Khi vợ chồng tôi nhớ đến lời bác sĩ nói rằng Soren còn sống chính là nhờ thằng bé đã được sơ cứu đúng lúc, những lời chia sẻ của các vị khách đặc biệt này lại càng khiến chúng tôi cảm động sâu sắc.

Vào đêm thứ tư sau khi sự việc xảy ra, lúc tôi đang ngủ trong phòng dành cho thân nhân thì điện thoại tôi bỗng rung lên. “Anh mau đến đây”, Joy cố kìm nén tiếng reo vui mừng. “Soren tỉnh rồi.”

Khi tôi đến nơi, Soren đang khẽ cựa quậy và đưa tay lên dụi mắt. Vài giờ sau, thằng bé bắt đầu phục hồi ý thức. Chúng tôi ôm nhau và bật khóc trong hạnh phúc. Thế nhưng lòng tôi vẫn canh cánh không biết liệu thằng bé có thể hoàn toàn hồi phục và quay trở lại là cậu bé hiếu động, tinh nghịch ngày xưa hay không.

Vài ngày sau, Soren đã khỏe mạnh hơn rất nhiều. Joy để thằng bé ngồi trên đùi mình, còn tôi ngồi bên cạnh và trao cho thằng bé một quả bóng. Thằng bé giơ tay muốn bắt lấy quả bóng, rồi thằng bé bập bẹ: “Quả bóng”. Tôi hoàn toàn sửng sốt! Sau đó, Soren chỉ vào ly soda đang đặt trên bàn nên tôi mang ly soda cùng một cái ống hút đến cho thằng bé. Soren ngậm lấy ống hút rồi bắt đầu thổi bong bóng. Thằng bé bật cười - tiếng cười yếu ớt, nhỏ xíu - nhưng đó chính là tiếng cười quen thuộc của Soren! Hai vợ chồng tôi cùng bật cười trong nước mắt; các bác sĩ và y tá bên cạnh cũng vậy.

Chỉ vài tuần sau đó, Soren lại khỏe mạnh chạy nhảy khắp nhà, hào hứng chơi đùa với quả bóng rổ yêu thích và nói líu ríu suốt cả ngày. Thằng bé trông tràn đầy sức sống và nụ cười của thằng bé đã giúp chúng tôi nhận ra đâu mới chính là thứ quý giá nhất trong cuộc sống này.

Giờ đây, khi đã một lần suýt mất Soren, tôi mới nhìn nhận lại một cách sáng suốt hơn vai trò làm cha của mình. Thứ quan trọng và ý nghĩa nhất một người cha có thể mang đến cho con mình không phải là một ngôi nhà tiện nghi, một căn phòng toàn đồ chơi hay rừng thông và những con suối, mà chính là sự hiện diện của anh ta.

Cách đây không lâu, tôi có quay lại ngôi nhà mơ ước ngày xưa của mình. Tôi đỗ xe ở đằng xa, lặng yên ngắm nhìn khung cảnh lộng lẫy khi ánh nắng lấp lánh chiếu xuyên qua năm mươi hai ô cửa sổ được thiết kế và thi công tỉ mỉ của ngôi nhà. Nhưng giờ đây tôi không còn cảm thấy day dứt vì đã để mất ngôi nhà ấy nữa và tôi biết rõ lý do. Một lúc sau, khi tôi lái xe quay về ngôi nhà cũ kỹ quen thuộc của mình để dẫn các con đi dã ngoại, cả ba đứa con tôi cùng chạy ra đón tôi. Soren reo lên: “Cha ơi, cha ơi!” và tôi thấy cuộc đời mình trọn vẹn vô cùng.