ÔNG LÀ MỘT NGƯỜI RẤT CỨNG RẮN, NHƯNG CŨNG LÀ NGƯỜI THẦY TUYỆT VỜI CỦA TÔI.
– DONALD TRUMP nói về bố.
Mặc dù Frederick Trump đã bị Ủy ban Thượng viện Hoa Kỳ triệu tập để giải trình về khoản 4 triệu đô la lợi nhuận ông thu về từ chương trình nhà ở của chính phủ cho cựu chiến binh, song mọi thứ còn có thể tồi tệ hơn nhiều. Ông đã có thể trở thành Roy Cohn(1).
(1) Roy Cohn (1927-1986): Vị luật sư người Mỹ, nổi tiếng với vai trò trưởng cố vấn luật của Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy và là cánh tay phải đắc lực của McCarthy trong các cuộc điều tra chống cộng. (ND)
Vì gần như cả tháng trước đó, Quốc hội Hoa Kỳ và cả nước đang chấn động vì hàng loạt phiên điều trần giữa Quân đội Hoa Kỳ và Thượng nghị sĩ McCarthy về tư cách đạo đức của Roy Cohn, người trợ tá của ông.
Bi kịch cuộc điều trần McCarthy vẫn còn đậm nét vào ngày 12 tháng 7 năm 1954, khi Fred Trump ngồi vào bàn nhân chứng để trả lời các câu hỏi về việc hối lộ và trục lợi trong một chương trình xây dựng của Cơ quan Quản lý Nhà ở Liên bang (FHA(2)). Ở một thời điểm khác, việc hối lộ xảy ra trong một cơ quan trợ cấp các chủ thầu xây dựng nhà ở cho các cựu chiến binh Thế chiến II có thể đã thu hút sự chú ý của cả quốc gia.
(2) Cơ quan Quản lý Nhà ở Liên bang (Federal Housing Administration – FHA): Một cơ quan của Bộ Gia cư và Phát triển Đô thị Hoa Kỳ (HUD). Hoạt động chính của cơ quan này là bảo hiểm các khoản cho vay thế chấp nhà ở.
Trump được triệu tập để trả lời các câu hỏi của nhân chứng trước ủy ban điều tra. Trong lời khai của mình, nhân viên điều tra liên bang William McKenna nói rằng Trump nằm trong số những nhà thầu đứng đầu chia chác những khoản tiền vượt mức được phê duyệt bởi các quan chức FHA, những người cũng gần như chắc chắn hưởng lợi từ đó. Rất nhiều vị quan chức đã nhận các món quà đắt tiền – tivi, đồng hồ, trang thiết bị - từ các chủ đầu tư này. Một số quan chức khác sống vượt mức thu nhập tới độ rõ ràng họ đã được hối lộ những khoản tiền khổng lồ. Đổi lại, các chủ đầu tư xây dựng nhận được những ưu đãi giá trị hàng triệu đô la. Theo McKenna, Trump đã hưởng lợi cụ thể là từ Clyde L. Powell, một nhân vật có thế lực ở Washington và là kẻ có khả năng bẻ cong luật pháp. Powell đã cho phép Trump hoàn thiện việc xây dựng ở Beach Haven sáu tháng trước khi ông bắt đầu hoàn trả khoản trợ cấp liên bang. Trong khoảng thời gian đó, Trump bỏ túi 1,7 triệu đô la tiền cho thuê nhà.
Lời khai của McKenna về Trump và một số người khác đã làm vị Chủ tịch ủy ban Homer Capehart phải thất kinh – vị thượng nghị sĩ đến từ Indiana đã phải dùng từ “ghê tởm” – nói rằng những nhà thầu đã lợi dụng cả chính phủ liên bang lẫn các cựu chiến binh. Capehart làm theo chỉ đạo của Tổng thống Dwight Eisenhower, người đã tức giận tím mặt khi nghe McKenna nói về bê bối của FHA. Là người đầu tiên không thuộc giới chính trị (ông xuất thân là một vị tướng cấp cao trong Lục quân Hoa Kỳ) được bầu làm tổng thống kể từ thời U. S. Grant(3), Eisenhower thực hiện chiến dịch tranh cử trên lời hứa nhổ cỏ tận rễ tham nhũng. Tổng thống không có thái độ đối lập gì cụ thể với các chủ đầu tư xây dựng cả. Tổng thống còn đích thân tới gặp William Zeckendorf, một chủ thầu xây dựng lớn ở New York, và khuyến khích ông nhận dự án mà sau này trở thành trung tâm thương mại L’Enfant Plaza ở đông nam Washington. Nhưng Ike(4) thực sự yêu quý những người lính mà ông đã dẫn dắt tới chiến thắng trong Thế chiến II. Khi ông đưa các điều tra viên liên bang vào cuộc bằng một mệnh lệnh hành pháp – gọi những viên chức phát triển FHA là “bọn khốn” – thượng nghị sĩ Capehart, một chính trị gia bình thường, đã thấy một cơ hội.
(3) Ulysses Simpson Grant: Tướng của quân đội Liên bang miền Bắc trong Nội chiến Hoa Kỳ và là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 18 (1869 - 1877). (ND)
(4) Ike: Biệt danh của Tổng thống Dwight Eisenhower. Cả năm anh em trong gia đình ông đều được gọi “Ike” ở một thời điểm nào đó, và Eisenhower cũng không chắc về nguồn gốc biệt danh này. Khẩu hiệu tranh cử của ông là “I like Ike” (Tôi thích Ike). (ND)
Cũng giống Eisenhower, Capehart là người thuộc Đảng Cộng hòa. FHA được sáng lập bởi Franklin Delano Roosevelt, người thuộc Đảng Dân chủ, và các sự kiện đang được điều tra đều xảy ra trong nhiệm kỳ của Tổng thống Đảng Dân chủ khác là Harry S. Truman. Nếu Capehart có thể tạo ra đủ sự lùm xùm quanh FHA, ông có thể gây thiệt hại cho Đảng viên Dân chủ trong cuộc bầu cử quốc hội sắp tới. Nên ông nói các chủ thầu xây dựng và FHA đang sa lầy trong “một vụ bê bối lớn” tồi tệ hơn nhiều so với vụ tham nhũng đáng xấu hổ Teapot Dome ở thế kỷ XX, khi các quan chức nhận hối lộ để trao hợp đồng thuê đất khai thác dầu cho chủ thầu. Teapot Dome liên quan đến lượng dự trữ dầu đáng giá hàng triệu – nếu không muốn nói là hàng tỷ đô la – xảy ra dưới thời Tổng thống Đảng Cộng hòa, Warren G. Harding.
Capehart, người tiến vào Thượng nghị viện sau một thời gian làm nghề bán máy hát và máy làm bỏng ngô tự động, nổi tiếng là người biết tự quảng bá bản thân. Ông quyết định các buổi điều trần sẽ là một buổi trình diễn lưu động tại Washington và sau đó là khắp đất nước để nhiều người Mỹ có thể thấy ông tra hỏi những kẻ quan liêu bắt tay thông đồng cùng các chủ thầu xây dựng. Với một chút may mắn, máy quay truyền hình có thể xuất hiện để truyền hình trực tiếp buổi điều trần. Bất cứ chính trị gia khôn ngoan nào cũng có thể hiểu, truyền hình làm cuộc điều tra và vụ bê bối trở nên quan trọng hơn nhiều đối với công chúng. Các luật sư của ủy ban, các thượng nghị sĩ và nhân chứng được coi là nhân vật của vở kịch, và vụ bê bối được coi là một câu chuyện chiến đấu giữa thiện và ác. Cuối cùng, cái tên FHA có thể được đưa vào từ điển thuật ngữ chính trị có sức nặng ngang ngửa Teapot Dome, cái tên tượng trưng cho sự tham nhũng mà ai cũng biết.
Trong những ngày lấy lời khai trước khi Fred Trump xuất hiện, hầu hết các nhân chứng đều đã làm hết vai trò dự kiến của mình. Sau câu giải thích đầu tiên rằng mình sẽ không trả lời bất kỳ câu hỏi nào vì từ chối buộc tội chính mình, Clyde L. Powell chuyển hướng những người tra hỏi bằng cách liên tục nhắc lại, “Câu trả lời của tôi vẫn như vậy” hay “Câu trả lời của tôi như đã đưa ra trước đó”. Những người khác đã cố thử nhưng thất bại trong việc giải thích các khoản lợi nhuận gây sốc mà những chủ thầu này kiếm được. Trong một trường hợp, cứ mỗi 5 đô la của chủ thầu đầu tư nhanh chóng trở thành 1.737 đô la. Ở một ví dụ khác, 10.000 đô la trở thành 3,1 triệu đô la. Một chủ thầu đập mạnh xuống bàn nhân chứng khi nhất quyết khẳng định sự vô tội của mình. Một chủ thầu khác thì lên cơn đau tim trong vòng vài giờ sau khi cung cấp lời khai.
Buổi chiều điều trần hôm đó vào ngày 12 tháng 7. Sang trọng trong bộ com-lê chỉnh tề với bộ ria mép đã cắt tỉa gọn gàng, Fred Trump ngồi ở bàn nhân chứng bên cạnh các luật sư. Cũng như mọi nhân chứng khác, Trump được bố trí ngồi ở sàn dưới và vì thế mà phải ngước nhìn lên bục, nơi chủ tọa ngồi như vị quan tòa trong phòng xử án hay vua ngồi trên ngai vàng. Nhưng Trump không cư xử như một người đang van xin hay người bị buộc tội. Thay vào đó, ông nói đĩnh đạc về những phương pháp vòng vèo nhưng đúng luật mà mình đã sử dụng để có lợi nhiều nhất cho bản thân, từ một chương trình mà dường như chủ yếu được thiết kế để có lợi cho một chủ thầu xây dựng biết đọc quy tắc luật lệ thành thạo như đọc một bản vẽ thiết kế.
Thi thoảng, buổi lấy lời khai của Trump diễn biến với những câu hỏi-đáp kiểu chơi chữ hài đáng giá như “Ai trước?” của Abbott và Costello vậy. Khi được hỏi về thời điểm mua đất, Trump trả lời, “Năm năm, tám năm hoặc mười năm” về trước. Khi hỏi về ước tính chi phí dự án bao gồm 5% “chi phí thiết kế”, mà hầu hết rơi vào túi mình, Trump khăng khăng rằng con số đó chỉ được bao gồm để làm hài lòng FHA. Khi vị Thượng nghị sĩ đầy nghi ngờ Capehart gây sức ép cho ông, Trump thêm vào, “Và luật quy định như vậy”.
“Luật quy định gì?” Capehart hỏi.
“5% phí thiết kế”.
“Anh đã bao giờ thấy một quy định nào nói thế chưa?” “Chưa, tôi chỉ là nhà thầu xây dựng”.
“Vậy làm sao anh biết những quy định này cho phép 5% chi phí thiết kế xây dựng?”
“Vì FHA sẽ không cho phép nếu như luật không cho phép”.
Mọi thứ cứ diễn biến như vậy đến gần hết buổi chiều, Trump thỉnh thoảng nói, “Đó là một câu hỏi không dứt khoát”, và lao vào mô tả những cách thức phức tạp mình sử dụng để vắt kiệt tối đa lợi nhuận từ người nộp thuế. Ví dụ ông giải thích, rằng đất đai trong dự án xây dựng Beach Haven được nắm giữ bởi quỹ tín thác dành cho các con ông. Tuy nhiên, các tòa nhà lại được sở hữu bởi sáu công ty khác. Hàng năm, sáu công ty này trả tiền tiền thuê cho quỹ tín thác – mà thực ra là cho các con ông – cho việc sử dụng đất. Theo điều khoản hợp đồng cho thuê, con cái của Trump có thể nhận được khoản lợi nhuận thuần 60.000 đô la hoặc hơn mỗi năm trong 98 năm nữa. Và sau đó hợp đồng cho thuê sẽ được gia hạn tiếp 99 năm nữa.
Cũng với tính cách ngay thẳng đó, Trump giải thích cách ông tự thanh toán chi phí tổng thầu được bao gồm trong bản dự tính mà ông nộp cho FHA, và cách ông làm dày ví tiền thông qua việc để một công ty này làm việc với một công ty khác của mình. Đối với các thượng nghị sĩ, điều này đồng nghĩa với việc một người đàn ông cắt cỏ trên sân nhà mình và khăng khăng phải đòi trả tiền công cho việc đó. Trump quả quyết rằng mình giống một người thợ may hơn, trả lương thấp cho người phụ việc để may lại một bộ com-lê và sau đó tính tiền khách hàng trọn giá. Nếu chất lượng như nhau nhờ sự giám sát của người thợ may, tại sao anh ta không được nhận tiền?
Trong thiết kế của Trump tại Beach Haven, ông nộp bản kế hoạch cho chính phủ đòi thêm chi phí xây dựng cao để cho phép ông vay nhiều tiền hơn và nhận được sự phê duyệt của chính phủ để áp giá thuê cao hơn. Con số tổng tính toán cuối cùng của dự án cho thấy Beach Haven được xây với chi phí thấp hơn dự tính 4 triệu đô la. (Tương tương với 35 triệu đô la năm 2015.) Giá thuê nhà cao được thiết lập khi dự án đã phê duyệt vẫn được áp đặt ngay cả khi lợi nhuận khủng bị tiết lộ, bởi vì FHA cho phép điều đó. Tương tự, số tiền còn lại từ khoản vay nợ xây dựng của FHA vẫn nằm trong tài khoản ngân hàng của Trump. Theo ông thì số tiền này là mình đường hoàng kiếm được, và về mặt kỹ thuật mà nói, cũng chẳng phải thu nhập cá nhân. Như ông giải thích, trong bao lâu ông không bỏ túi số tiền này, thì 4 triệu đô la đó có thể được coi là quỹ dự phòng cho Beach Haven.
Với sự trợ giúp thi thoảng từ các luật sư của mình, Trump làm chứng hơn hai giờ liên tục. Hầu hết những điều ông nói sẽ làm bức xúc bất kỳ ai tin rằng những đồng tiền thuế được đầu tư qua chương trình của FHA sẽ được dùng cho những mục đích công cao quý hỗ trợ các cựu chiến binh nhiều nhất có thể. Nhưng Trump và các chủ thầu lại nói rằng khoản lời trên trời rơi xuống đó là khoản tiền đền đáp cho công trình xuất sắc họ đã làm trong việc xây dựng hàng chục nghìn ngôi nhà với tốc độ thần tốc như vậy. Bất kỳ sự ám chỉ về việc ông đã vi phạm quy định hay điều luật nào đều “hoàn toàn sai, và điều đó làm tổn hại tới tôi”, Trump nói đầy căm phẫn. Ông ấy mới là người phẫn nộ, chứ không phải các thượng nghị sĩ, do “những tổn hại không kể xiết đối với địa vị cũng như danh tiếng của tôi”.
Mặc dù Fred Trump rõ ràng đã xúc phạm tới tinh thần của chương trình FHA, ông vẫn không hề bị cáo buộc phạm tội. Nhiều người Mỹ thậm chí còn ngưỡng mộ và cổ vũ cho một người đàn ông tham vọng và khôn ngoan như ông, người hiểu rõ quy luật của xã hội và khai thác chúng theo hướng có lợi cho mình. Trump chính là người như vậy; một nhân vật New York cổ điển bước ra từ hồi ký một vụ tham nhũng chính trị trong Thời kỳ vàng son mang tên Plunkitt của Tammany Hall. Plunkitt ở đây là George Washington Plunkitt, một người làm luật bang New York thế kỷ XIX, nổi tiếng với câu nói, “Tôi nhìn thấy những cơ hội và tôi tóm lấy chúng”. Một trong những bài tiểu luận nổi tiếng nhất của Plunkitt tập trung vào thứ mà ông gọi là “sự hối lộ trung thực”, là khoản mà các chính trị gia nhận để đảm bảo những người bạn của họ được hưởng những đặc quyền, kể cả sự giúp đỡ trong các thương vụ bất động sản.
Sự hóm hỉnh tinh quái trong Plunkitt hoàn toàn tương phản với những quan sát gay gắt của Thorstein Veblen, người cũng từng viết một cuốn kinh điển về Thời kỳ vàng son. Trong cuốn In The Theory of the Leisure Class (Tạm dịch: Lý thuyết về giai cấp nhàn rỗi ), Veblen chỉ ra rằng giới thượng lưu Mỹ sống theo lối tham lam vô tận và trái đạo đức, được che đậy bởi vẻ bề ngoài học thức và cách hành xử đứng đắn. Quyền lực hơn và cũng vì thế mà nguy hiểm hơn những người làm thuê và ăn bám của Plunkitt, những thành viên trong tầng lớp nhàn rỗi của Veblen được thúc đẩy bởi những khối tài sản kếch sù tích lũy bởi những người đàn ông tàn bạo, những người tận hưởng “thoát khỏi sự thận trọng, đồng cảm, trung thực và tôn trọng đối với cuộc đời”.
Được biết đến như những “ông trùm cướp bóc”, đối tượng của Veblen mang những cái tên như Rockefeller, Morgan, Carnegie và Vanderbilt. Trong những thành tựu tuyệt vời nhìn ngay thấy được của những người này, cùng sự tiêu xài hoang phí và sự theo đuổi những thú vui tốn thời gian như dong thuyền và chơi gôn, Veblen thấy một nỗ lực có mưu tính để làm kẻ khác xao nhãng khỏi việc theo đuổi của họ và thúc đẩy sự ngưỡng mộ và bắt chước. Những gia tài lớn đó cũng mua được lối đi cho những người được bảo hộ và con cháu đến những tầng cao nhất của giới kinh doanh – tài chính, độc quyền công nghiệp, dầu và khoáng sản – nơi mà địa vị của họ sẽ được bảo hộ với sự trợ giúp của các cố vấn, luật sư, và nhiều người khác cũng mong muốn gia nhập vào giai cấp nhàn rỗi đó.
***
Vào những năm 1890, khi Plunkitt đang viết những bài tiểu luận của mình và Veblen đang giảng dạy tại trường Đại học Cornell, bố của Fred Trump không thể tiếp cận với tổ chức Tammany Hall hay tầng lớp nhàn rỗi. Sinh ra và lớn lên ở Đức, ông di cư từ Bremen tới Southampton vào tháng 10 năm 1885, trên khoang hạng bét của Eider, con tàu thủy chạy bằng hơi nước đóng tại Glasgow. Mới tuổi mười sáu, Friedrich được đào tạo để làm thợ cạo trong một đất nước đã quá thừa những chàng trai trẻ biết sử dụng kéo và dao cạo.
Ông của Donald Trump đặt bước chân đầu tiên lên mảnh đất Hoa Kỳ tại một trung tâm di cư tại Castle Garden. Nơi đây từng có một pháo đài nằm trên một hòn đảo được hình thành từ bãi chôn rác ở rìa phía nam Manhattan. Những người dân nhập cư đến đây phải qua một loạt kiểm tra nghiêm ngặt trước khi được phép đi qua cây cầu vào khu phố. Một khi đã an toàn tại thành phố New York, họ được tự do đi bất cứ đâu trong địa phận và lãnh thổ Hoa Kỳ. Cũng như nhiều người mới đến khác, Friedrich Drumpf được các nhân viên phụ trách nhập cư đổi tên. Theo hồ sơ chính phủ, ông rời khỏi Castle Garden với cái tên Friedrich Trumpf, và từ đây cái tên này đã theo ông nhiều năm sau đó.
Sau sáu năm ở New York, Friedrich theo dõi tin tức về một cuộc bùng nổ khai thác mỏ ở miền Tây, nơi có nhiều thành phố và thị trấn đang phát triển với tốc độ nhanh. Tại phố đèn đỏ ở Seattle, ông dần phát đạt khi làm chủ một nhà hàng phục vụ những bữa ăn ấm cúng và gái mãi dâm trong phòng riêng. Đây không hoàn toàn là câu chuyện thần thoại của Horatio Alger sống dậy, nhưng ở một đất nước vốn coi trọng tài sản ngang đức hạnh, Friedrich trở thành một người Mỹ chân chính và có phẩm hạnh. Bảy năm sau ngày đầu đặt chân tới New York, ông tới Tòa án bang Washington Hoa Kỳ và, sau khi từ bỏ “bổn phận và lòng trung thành” với “Vua William II nước Đức”, đã ký tờ khai xác nhận ông là công dân nước Mỹ. Trong tờ khai này, chữ f trong tên Trumpf đã biến mất.
Sau khi trở thành một công dân và một doanh nhân với cái tên Trump, Friedrich tìm kiếm cơ hội làm giàu. Và ông đã phát hiện một trại khai thác mỏ ở dãy núi Cascade gọi là Monte Cristo, đang quá tải với những người thăm dò vàng và bạc. Nhìn thấy một nguồn tiền đáng tin cậy ở những người này hơn là trong đất, Trump giả vờ tuyên bố đã tìm thấy vàng trong một miếng đất, và điều này đã cho phép ông nắm quyền kiểm soát tài sản đất đai quý báu mà không phải thực sự trả tiền cho nó. Trump không cố gắng chứng minh lời tuyên bố của mình mà thay vào đó, ông xây dựng một nhà trọ. Nhà trọ đó là một thành công lớn. Lợi nhuận của Friedrich lại càng lớn hơn nữa khi ông chẳng mất chút tiền thuê để mua địa điểm.
Khi biến sức mạnh trí tuệ và sức lao động vất vả thành của cải, Trump đã chứng tỏ mình là một người Mỹ thực thụ. Trong những năm 80, Tây Bắc Thái Bình Dương gần như không có luật pháp, và khu vực này đầy những đàn ông, phụ nữ thoải mái khai thác nền văn minh còn chưa được thành hình. Nghi thức chẳng mấy quan trọng trong rừng núi tách biệt, nên tính táo bạo và gan lì có lẽ đã đủ để đem đến thành công. Người kinh doanh ngoài vòng pháp luật dần dần thay thế chiến binh da đỏ Anh-điêng trong vai trò là người canh giữ vùng biên, và không ai ở một nơi như Monte Cristo cảm thấy bất ngờ khi nghe tin một người đàn ông đơn giản là chiếm đất của một người khác. Trump hẳn phải cả gan hơn đa số vì ông chấp nhận việc vận chuyển gỗ và thiết lập việc kinh doanh trên mảnh đất của người khác, nhưng hầu hết những người ở đây đều sống và khai thác mỏ trên những mảnh đất mà mình không sở hữu.
Và cũng sẽ chẳng ai lấy làm ngạc nhiên khi biết rằng Monte Cristo hóa ra là một lời hứa giả dối được duy trì để John D. Rockefeller, người mà chính sự đầu cơ của ông đã chấm dứt cơn sốt vàng, bạc, có thể trốn thoát với lợi nhuận lớn. Năm 1891, người đàn ông giàu nhất nước Mỹ này đã đầu tư vào vùng mỏ dựa trên các báo cáo lạc quan của các nhà địa chất học. Rockefeller xây dựng một nhà máy xử lý lớn để vận chuyển quặng dọc đường ray mới. Tuy nhiên, việc sản xuất khá tồi tệ, sau cùng Rockefeller và các thành viên nghiệp đoàn hiểu rằng các nhà địa chất đã sai. Họ lặng lẽ bán nhà máy với giá lời và cầm tiền quay trở về miền Đông.
Khi bí mật của Rockefeller bị tiết lộ – rằng không có quặng nào ở đó cả - và Monte Cristo bị bỏ hoang, người ta phàn nàn về sai lầm của các nhà địa chất và sự rút lui lén lút của những người New York. Nhưng việc đó thì mang lại điều gì tốt đẹp chứ? Hơn nữa, một cuộc sốt vàng mới lại bắt đầu ở khu vực Klondike phía tây bắc Canada. Gần một trăm ngàn người chạy loạn về phương bắc sau khi hai chuyến tàu đến Seattle mang theo những người thăm dò ôm về số vàng có giá trị một tỷ đô la năm 2015. Friedrich Trump khởi hành tới Yukon với ý định lặp lại thành công tại Monte Cristo. Sau khi đặt chân tới Alaska, ông phải trải qua chuyến đi cơ cực, chết chóc nhất có thể tưởng tượng nổi giữa vùng hoang vu. Trump bắt đầu quản lý một nhà hàng mái lều chuyên phục vụ các món thịt ngựa, từ những con ngựa hết tuổi chạy xe đường dài. Không lâu sau một cơ sở kinh doanh thực sự được xây dựng từ những tấm ván gỗ – Nhà hàng khách sạn New Arctic – nơi một lần nữa nhà hàng của ông cung cấp dịch vụ gái mại dâm. New Arctic lần đầu tiên được xây dựng tại thị trấn Bennett và sau đó trôi nổi trên hồ và dòng suối đến nơi định cư lớn hơn tại White Horse. Lại một lần nữa, Trump chiếm mảnh đất mình không thực sự sở hữu, ông mở cửa nhà hàng cả ngày lẫn đêm và kiếm nhiều tiền hơn bất cứ người tìm vàng nào. Khi cuộc bùng nổ chấm dứt, ông rời White Horse, để lại New Arctic cho một cộng sự, người này không lâu sau đó đã kinh doanh phá sản.
Giàu có và ở vào cái tuổi gấp đôi số tuổi khi mới tới Mỹ, Friedrich Trump, lúc này ba mươi hai, tới New York, rồi bắt tàu trở về Đức với ý định tìm một người vợ ở đó. Theo một ghi chép, ông mang cùng mình gia tài trị giá hơn 8 triệu đô la tính theo thời giá năm 2015. Năm 1905, ông quay về New York cùng vợ mình, Elizabeth Christ Trump. Bà mang thai một bé trai, em bé được sinh ra ở Mỹ và được đặt tên Frederick (không phải Friedrich) Christ Trump.
Người cha trẻ Friedrich sử dụng số tài sản kiếm được ở Yukon đầu tư vào bất động sản. Ông tập trung đầu tư khôn ngoan vào khu phố Queens uể oải, nơi cư ngụ rải rác của chưa đến hai trăm nghìn người. Một chiếc cầu mới tới Manhattan đang được xây dựng cùng tuyến đường hầm tàu hỏa. Chiếc cầu được thông vào năm 1909. Tới năm 1910, khi Tuyến đường sắt Long Island bắt đầu chạy các chuyến từ Queens tới nhà ga Pennsylvania mới và lộng lẫy, có 284.000 người đang sống ở khu phố này. Các chủ đầu tư nhanh chóng xây dựng các căn hộ, nhà ở. Các tòa nhà thương mại dần nhô lên dọc các khu Hillside, Jamaica và đại lộ Atlantic. Tới năm 1920, Queens trở thành nơi cư trú của gần nửa triệu người.
Friedrich Trump có thể nhận biết được đâu là một vụ sốt vàng khi bắt gặp. Lên kế hoạch làm giàu bằng cách đầu tư vào nhà đất, ông thường xuyên tới gặp các đại lý bất động sản, thường dẫn cả con trai đi cùng. Một trong những chuyến thăm ấy đã làm ông mắc bệnh, vào tháng 3 năm 1918. Chỉ trong vòng vài giờ, ông cảm nhận những triệu chứng đầu tiên của bệnh cảm cúm. Theo một vài ghi chép, cái chết của ông hoàn toàn là do “cúm Tây Ban Nha”, đại dịch đã lấy đi tính mạng của 775.000 người Mỹ trong khoảng thời gian 1918 - 1919. Nhưng trong gia đình, rượu cũng có thể là một phần nguyên nhân.
Bỗng nhiên trở thành người đàn ông của gia đình, chàng thanh niên Frederick bắt đầu phải làm việc và đóng góp cho gia đình khi cuộc khủng hoảng kinh tế rộng khắp cả nước – cuộc suy thoái năm 1920 - 1921 – cuốn phăng gần hết của cải của gia đình. Cậu tham gia các lớp học buổi tối, bổ sung thêm với các lớp học dưới dạng trao đổi thư từ về thương mại xây dựng và ngay khi học hết trung học, cậu bắt đầu đi làm thuê cho một chủ xây dựng. Cậu bắt đầu từ vị trí một người giúp việc chưa có nghề, đẩy xe chở hàng đống vật tư nặng. Ngày nào tốt thì cậu có một con ngựa làm việc cùng. Những ngày không may, cậu lại thay ngựa làm việc. Tận tụy và khỏe mạnh, cậu nhanh chóng được cho lên làm thợ mộc và bắt đầu học những mánh khóe cùng nghề xây dựng - nhà đất.
Ở tuổi hai mươi mốt, với tham vọng mãnh liệt, Fred Trump bắt đầu kinh doanh cùng mẹ, một người có đủ sự chín chắn để làm yên lòng bất cứ ai làm ăn với công ty E. Trump and Son. Quả thật không còn thời điểm nào tốt hơn nữa. Thành phố New York bước vào thời kỳ phát triển bùng nổ với dân số tăng 20% trong vòng một thế kỷ. Trở thành thành phố lớn nhất thế giới, ảnh hưởng văn hóa và kinh tế của New York như làn sóng lay động khắp nước Mỹ và khắp thế giới. Nhờ những thước phim thời sự và những bức ảnh in, ý niệm của thế giới về thành phố New York là những tòa nhà chọc trời, rạp chiếu bóng và đường phố Manhattan; và với sự giúp đỡ của vị thị trưởng trẻ Jimmy Walker, khu phố dần trở thành đại diện cho sự giàu sang, quyến rũ, và tham nhũng tới mức độ vừa hấp dẫn vừa đáng sợ. Mặc dù những phần tưởng thưởng khổng lồ đang chờ đợi những người có thể lập nghiệp ở Manhattan, sự canh tranh ở đây vô cùng khốc liệt. Gia đình Trump lựa chọn lối đi an toàn, bám lấy những khu phố vòng ngoài của Brooklyn và Queens. Từ những dự án, từng ngôi nhà một, họ tăng dần thành một nhóm nhỏ các ngôi nhà trên những khoảng đất đã được chia nhỏ. Trong vòng hai năm, họ đã hoàn thành và bán được hàng tá ngôi nhà, thu mua thêm nhiều mảnh đất lớn hơn nữa gần bờ biên ngoại ô quận Nassau.
West Egg trong tiểu thuyết Đại gia Gatsby của F. Scott Fitzgerald chính là nằm trên bờ bắc quận Nassau, và những ngôi nhà mới được xây quanh khu vực cao sang này đều mang những dấu ấn đặc biệt. Dân số của Queens tăng nhanh hơn bao giờ hết so với thập kỷ trước, đẩy giá nhà đất lên tới mức kỷ lục. Khi thời đại “những năm hai mươi gầm thét” tạo ra bong bóng bất động sản, gia đình Trump đang xây dựng những căn nhà lớn hơn, trên những mảnh đất lớn hơn, và tô điểm cho chúng những họa tiết kiến trúc để hấp dẫn những người muốn kiếm tìm sự thể hiện cho thành công. Đã có thời điểm, khi một ngôi nhà điển hình ở Mỹ có giá 8.500 đô la, thì gia đình Trump lại xây dựng căn nhà với giá 30.000 đô la.
Vụ sụp đổ thị trường chứng khoán năm 1929 thay đổi những điều mà nhiều độc giả thấy trong tiểu thuyết của Fitzgerald – nó trở thành một câu chuyện cảnh báo – và chấm dứt cơn bùng nổ nhà đất thực sự ở Queens. Những tai ương đến từ Phố Wall lan tràn khắp nơi theo mọi hướng, trở thành cuộc Đại khủng hoảng của những năm 1930. Nhiều người làm thuê bị mất việc tới mức tỷ lệ thất nghiệp vốn trước đây chỉ quanh 5%, giờ đây đã tăng vọt lên hai chữ số. Khi bắt đầu có những hàng dài phát chẩn, hầu hết mọi người đều không tiêu xài nữa, kể cả những người có tiền. Cố níu lấy những căn nhà mà chẳng ai có thể hoặc sẽ mua, E. Trump and Son phá sản. Fred mở một cửa hàng tạp hóa, kiếm tạm khoản lời đủ sống, và chờ đợi thời cơ để quay về bất động sản.
***
Nền kinh tế Hoa Kỳ chạm đáy vào năm 1933, khi cuộc Đại khủng hoảng đẩy tỷ lệ thất nghiệp lên tới 25% và giá trị nhà ở giảm 20%. Nhiều nơi điều kiện còn tồi tệ hơn nhiều với hàng triệu người mất việc, vật lộn từng ngày để trả tiền mua thức ăn, quần áo và chỗ ở; nhưng những con số chẳng nói lên điều gì về nỗi sợ hãi, lo lắng cũng như tuyệt vọng của họ. Việc tịch thu tài sản đã buộc phần lớn các gia đình phải ra khỏi nhà. Chỉ riêng trong một ngày tháng Một đã có mười lăm căn nhà bị tịch thu vì không thanh toán được tiền thế chấp, bị đem đi bán đấu giá tại New York.
Ngạc nhiên thay, giữa tất cả những ảm đạm đó, một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất thời đại lại viết về lịch sử huy hoàng, tựa đề The Epic of America (Tạm dịch: Thiên hùng ca Mỹ ), giới thiệu thế giới về khái niệm “giấc mơ Mỹ”. Tác giả James Truslow Adams định nghĩa giấc mơ đó là niềm tin chung rằng mỗi một người công dân đều được có cơ hội để sống “một cuộc đời trọn vẹn nhất có thể trong khả năng”. Khái niệm này không chỉ đơn thuần mang tính kinh tế. Adams nhấn mạnh đến phẩm giá và sự tôn trọng mà mỗi người đều kiếm tìm – đó là những yếu tố chính của giấc mơ – và trăn trở về “cuộc vật lộn của một người đối đầu với tất cả”, mà ông đổ lỗi cho đầu cơ thái quá trong những năm 1920 và cuộc khủng hoảng. Sau khi cuốn sách được xuất bản cuối năm 1931, Adams dành hơn một năm để du lịch và viết về niềm hy vọng rằng cuộc khủng hoảng sẽ nhắc nhở con người quay về với những giá trị ít mang tính vật chất hơn. Tới năm 1934, khi tình trạng tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng dường như đã qua, ông ghi chép lại rằng có quá nhiều đồng hương của ông lại tiếp tục nỗi ám ảnh của họ với việc “kiếm tiền và tiêu xài” và cảnh báo về “một sự điên cuồng khác” của việc đầu cơ.
Adams không phải là người duy nhất sợ điều đó. Vào tháng 3 năm 1934, hàng trăm người dân Brooklyn và Queens bất ngờ xông tới tìm các nhà làm luật bang Albany để yêu cầu họ làm gì đó giúp người dân giữ lại nhà cửa và ngăn chặn những kẻ đầu cơ nhà đất. Rất nhiều chủ nhà ở hai phố này đã phải tìm kiếm sự hỗ trợ qua một chương trình mà cơ quan đó đang xử lý chậm hẳn một năm. Matthew Nappear, người đại diện cho những chủ nhà gửi đơn kiến nghị, nói rằng “Khi thị trường bất động sản hồi phục, là khi những kẻ cho vay nặng lãi và bọn đầu cơ thu lời. Rất nhiều những khoản tài chính khổng lồ được xây dựng theo cách đó. Điều này không nên để xảy ra một lần nữa”.
Nappear đã nói đúng một điều. Khủng hoảng nhà đất của người này lại là cơ hội của người khác. Tất cả các thị trường đều hoạt động như vậy, cung cấp tiền cho các nhà đầu tư để có cơ hội thu mua – cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản, và hàng hóa – khi giá cả giảm. Thực tế này không bao hàm sức nặng cảm xúc nhưng lại là sự thật căn bản duy trì hoạt động của nền kinh tế tư bản. Nhưng khi nói đến bất động sản, sự khác biệt là “công cụ” đầu tư có thể là nhà ở của một người nào đó. Một ngôi nhà, không giống như một chứng nhận cổ phiếu, mà còn mang theo cả ý nghĩa đặc biệt. Nhà là nơi trú ẩn an toàn, thoải mái, thậm chí còn là danh tính; nhà không chỉ là nơi chốn mà còn là nơi trái tim mỗi người hướng về. Chúng ta không mơ về những danh mục chứng khoán và quỹ tương hỗ. Chúng ta mơ về những ngôi nhà và những căn phòng từ hồi còn bé thơ.
Những yếu tố thêm vào đó khiến bất động sản khác biệt với các loại hình đầu tư khác. Vì một nhẽ, hầu hết tài sản đất đai được mua với sự trợ giúp của một khoản thế chấp, điều đó nghĩa là chỉ cần một khoản tiền mặt tương đối nhỏ có thể dùng làm khoản vay cho khoản mua lớn hơn nhiều. Hơn nữa, tài sản ở đây, cụ thể hơn là đất đai, là vĩnh viễn và cố định. Cổ phiếu và trái phiếu và những công ty mà chúng đại diện thường và có thể biến mất không một dấu vết. Trừ trường hợp chính phủ thu mua và chủ đất phải được đền bù, những mảnh đất sở hữu tư nhân luôn có giá trị của nó. “Họ không thể tạo ra thêm đất đai được”, người ta nói để truyền đạt sức hấp dẫn đặc biệt của bất động sản. Những từ ngữ ấy chuyển tải một điều gì đó nguyên thủy đến mức nó thường được biết đến hay nói đúng hơn là được cảm nhận bởi bất kỳ sinh vật nào từng bảo vệ lãnh thổ của mình khỏi kẻ thù. Dù đó là mảnh đất hay khu rừng, chẳng nơi nào giống nơi này.
Phép màu bất động sản chẳng có gì bí mật cả. Trong những thành phố và thị trấn đang phát triển, các chủ sở hữu nhà đất hiểu rằng nhu cầu mạnh sẽ đẩy giá trị tăng cao, và nhiều người sẽ bán những lợi nhuận trên giấy tờ đổi lấy tiền mặt. Nhưng khi nhu cầu và giá cả tiếp tục tăng cao, ngày càng nhiều chủ nhà đất tìm cách kiếm tiền trên những cơ hội đó, thị trường bước vào giai đoạn bong bóng bất động sản. Cung khi đó vượt xa cầu và rồi bong bóng vỡ, giá sụt giảm. Những kẻ đầu tư khôn ngoan là những kẻ tham gia trò chơi khi giá đang ở mức chạm đáy và thoát ra khỏi đó trước khi nó nổ tung.
Vào những năm 30 ở New York, những kẻ đầu tư khôn ngoan ấy xoay quanh các tòa án, nơi thẩm phán giải quyết các vụ phá sản, tịch thu tài sản thế nợ và thanh lý tài sản bất động sản ở những mức giá vô cùng thấp. Bản thân là những người làm chính trị, các thẩm phán này hiểu rằng mặc dù luật pháp có chế tài cho các hành vi của họ, nhưng những người chơi có mối quan hệ tốt vẫn có thể được xử lợi bất cứ khi nào có thể. Bạn bè và đồng minh là những người được ghi danh ủy thác cho các món bất động sản tốt bị cưỡng chế trong các vụ phá sản và là những người đầu tiên có thể tiếp cận tài sản đó. Với đủ thông tin cần thiết, các nhà đầu tư quen biết còn có thể tiếp cận những chủ nhà đang chậm các khoản thanh toán và đưa ra giá mua căn nhà hoặc chút đất, trước khi người cho vay tịch thu tài sản hoặc thành phố ra quyết định nắm giữ tài sản vì nợ thuế. Người bán sẽ thoát khỏi áp lực và sự xấu hổ nếu bị đuổi đi, trong khi người mua có thể thu mua được món tài sản mà không phải rắc rối làm việc với tòa án hay cạnh tranh với các nhà đầu tư khác.
Thiếu mối quan hệ để nắm bắt những cơ hội dễ dãi đó, Fred Trump quan sát các động thái phá sản/tịch thu tài sản thế nợ, hy vọng có thể mở ra một cánh cửa có thể khai thác. Ông học thuộc tên và thói quen của những người quyền lực đang điều hành các hội Đảng Dân chủ của thành phố và xem xét sổ ghi án tại tòa. Vào cuối năm 1933, các khiếu nại chống lại công ty Lehrenkrauss & Co. đã thu hút sự chú ý của Trump, đây là một trong những công ty thế chấp nhà đất lớn nhất tại Brooklyn. Được chính quyền cấp phép hoạt động như một ngân hàng đầu tư, công ty thuộc dạng sở hữu gia đình và đã hoạt động hơn năm mươi năm. Vào những năm 20, người người nhà nhà ở Mỹ chạy đua theo cuộc bùng nổ tiền tệ, Lehrenkrauss bán mọi thứ từ ngoại tệ cho đến vàng. Tuy nhiên, việc kinh doanh chính của công ty là bán trái phiếu được đảm bảo bằng các gói tài sản cầm cố lớn. Rất nhiều người nắm giữ trái phiếu là dân di cư Đức mới đến, những người đã an tâm đầu tư khoản tiết kiệm của mình vì danh tiếng tốt của ngân hàng.
Gia đình Lehrenkrausses nổi tiếng tới mức việc họ đi đâu làm gì cũng được ghi lại trên các trang báo xã hội - Charles F. Lehrenkrauss giải trí trên du thuyền tại Vịnh Manhasset – và những vụ ly hôn của họ thì xuất hiện trên mục báo tin tức. (Vợ của J. Lester Lehrenkrauss, Beatrice, đạt được thỏa thuận ly hôn với ông nhờ một phiên tòa tại Reno, Nevada.) Cúp Lehrenkrauss được trao mỗi năm cho những học sinh đứng đầu ở trường học địa phương, và các thành viên trong gia đình được mời vào các vị trí trong nhiều hội đồng và ủy ban. Vào tháng 4 năm 1929, thành viên lớn tuổi nhất trong gia đình Lehrenkrauss, Julius được bổ nhiệm vào ủy ban của công ty tài chính mới mang tên Brooklyn Capital. Ngay tháng sau đó, ông tham gia hội đồng cố vấn Bộ phận Tín dụng Hamilton của Ngân hàng Chase National.
Cả ba người đàn ông nhà Lehrenkrauss – Julius, Charles và Lester – được nêu tên đích danh trong đơn khiếu nại ngân hàng mà các nhà đầu tư nộp lên Tòa án Liên bang Brooklyn. Theo các tờ đơn này, các nhà đầu tư nghi ngờ công ty không có khả năng trả nợ và các giấy nợ mà công ty đã bán gần như không có giá trị. Hàng nghìn người nắm giữ trái phiếu phẫn nộ với câu chuyện lừa dối bị phanh phui trong các phiên điều trần. Như Julius giải thích, ông bán những trái phiếu với giá trị gấp nhiều lần giá trị tài sản thế chấp. Cổ tức được trả bằng các doanh thu mới, giống như mô hình Ponzi, và tiền được chuyển từ tài khoản này sang tài khoản khác để tạo ấn tượng rằng các hoạt động của công ty vẫn có khả năng trả nợ. Khi công ty gần bờ vực phá sản, Julius đã rút 1.900 đô la tiền mặt, tất cả bằng tờ bạc mệnh giá 20 đô la, bởi vì theo như ông ta nói, ông “đang hy vọng vào tương lai”.
Trước khi vụ thú tội kết thúc, các điều tra viên phát hiện rất nhiều chứng thư bị thiếu trong tài liệu lưu trữ của công ty và gần như tất cả các thành viên khác trong công ty không hề biết Julius đã thua lỗ hơn 450.000 đô la – tương đương gần 8,1 triệu đô la trong năm 2015 – trên thị trường chứng khoán. (Một trong những khoản đầu tư của ông vào một công ty đồng chỉ sản xuất được 52,26 đô la quặng.) Một người cháu kể lại rằng Julius gần đây có nói với cậu ta, “Cổ phiếu chắc chắn sẽ tăng giá”. Không thể trả nổi tiền thuê luật sư bào chữa và bị chứng cứ dồn ép, Julius mặc áo sơ mi cổ cánh én, quần sọc và áo vét đen đến tham dự phiên tòa nơi ông nhận tội trộm cắp lớn. Luật sư của ông nói rằng Lehrenkrauss sẽ chấp nhận án phạt “như một người đàn ông”. Vị thẩm phán, một người bạn lâu năm của bị cáo, tuyên bố Lehrenkrauss chịu án phạt từ 5 đến 10 tại nhà tù bang Sing Sing.
Mặc dù trái phiếu của Lehrenkrauss vô giá trị, nhưng một phần nhỏ công ty, bộ phận thu các khoản thanh toán tài sản thế chấp từ những người vay nợ, vẫn còn một phần giá trị. Các thành viên ủy thác được chỉ định bởi tòa án mời thầu cho phần kinh doanh này. Một công ty dịch vụ tài sản thế chấp lớn, Home Title Guarantee tham gia cạnh tranh bỏ thầu. Các nhà thầu khác ít được biết đến nhưng có mối quan hệ tốt hơn với bộ máy chính trị tại Brooklyn. Fred Trump, người đã xoay xở nắm được nhiều tài sản cầm cố qua nhiều ngôi nhà mình đã bán, thêm thắt vào hồ sơ của bản thân bằng cách nói với tòa rằng ông đã làm việc trong ngành kinh doanh bất động sản và tài sản thế chấp được mười năm rồi. (Lời khẳng định này có nghĩa ông đã bắt đầu bán nhà từ khi còn là học sinh trung học.) Nhưng kể cả với lời khuếch trương này, ông cũng sẽ không thắng thầu nếu không có lợi thế đặc biệt.
Trump kết thân những người môi giới có quyền lực chính trị tại Brooklyn và hợp tác với một nhà thầu khác ở Queens là William Demm. Lo ngại về nhóm đông đảo các nhà đầu tư của Lehrenkrauss có thể cản trở thương vụ, hai người tới tham dự một trong những cuộc họp của các nhà đầu tư tại Trường Trung học Bushwick. Các nạn nhân sợ rằng công ty cũ một ngày nào đấy có thể phục hồi và họ sẽ bị tươc đoạt bất kỳ thứ gì có giá trị còn lại trong việc kinh doanh dịch vụ tài sản thế chấp. Chỉ có phép màu mới làm Lehrenkrauss hồi sinh lại được, nhưng Trump hiểu được cảm xúc của các chủ nợ. Ông và Demm hứa rằng nếu Lehrenkrauss có khả năng phục hồi, họ sẽ bán việc kinh doanh dịch vụ tài sản thế chấp với khoản lợi nhuận ròng chỉ 1.000 đô la. Tất cả những gì hai người yêu cầu là nhóm các nhà đầu tư ủy thác vụ bỏ thầu cho những người tòa án chỉ định. Một thỏa thuận giữa hai bên đã được chốt, và tòa án nóng lòng muốn tránh mâu thuẫn với các nạn nhân của Lehrenkrauss, đã chấp nhận thầu của Trump/Demm.
Mặc dù họ có thể kiếm một chút tiền bằng việc xử lý các khoản tài sản thế chấp, nhưng giá trị thực sự của việc kinh doanh mà Trump và Demm thắng thầu nằm ở những thông tin họ thu thập được qua các hoạt động kinh doanh của Lehrenkrauss. Theo các báo cáo gần nhất của công ty, họ phát hiện được những chủ nhà nào chậm thanh toán và khi nào thì tới hạn tịch thu tài sản. Với những thông tin này, họ có thể đề nghị mua tài sản đất đai giảm giá trước cả khi chúng ra thị trường.
Khi Fred Trump mua tài sản đất đai, ông tập trung hết vào khu dân cư East Flatbush của Brooklyn, nơi mà chỉ ba mươi năm về trước, những người nông dân đã trồng trọt canh tác để cung cấp thực phẩm cho các chợ ở Manhattan. Việc chuyển mình từ khu nông thôn sang thành thị bắt đầu khi công ty bất động sản Wood, Harmon thuyết phục công ty Rapid Transit mở rộng dịch vụ xe điện vốn trước đây chỉ dừng ở công viên Prospect gần đó. Trong vòng một năm, Wood, Harmon xây được năm mươi ngôi nhà. Khu dân cư phát triển thậm chí còn nhanh hơn khi công ty Interborough Rapid Transit của August Belmont mang hệ thống tàu điện ngầm tới Đại lộ Nostrand. Vậy là bỗng nhiên những người đi làm bằng xe tàu điện có thể làm việc thuận tiện hầu như bất kỳ nơi đâu khắp Manhattan khi East Flatbush nở rộ những căn nhà cho một hộ gia đình, hai hộ gia đình và các tòa nhà nhiều căn hộ.
Cuối những năm 30, Fred Trump dồn các mảnh đất lại với nhau thành những vùng đất rộng hơn cho các dự án xây dựng lớn hơn, dao động từ vài chục cho tới vài trăm ngôi nhà. Dự án lớn nhất của ông được xây dựng trên mảnh đất đã bỏ hoang từ lâu, nơi rạp xiếc Barnum & Bailey từng biểu diễn dưới mái lều vải lớn. Khi gánh xiếc lần cuối cùng đến East Flatbush vào năm 1938, ngôi sao của buổi diễn là chú khỉ đột có nghệ danh Gargantua. Buddy, cái tên mà bạn bè của nó thường gọi, từng được một người phụ nữ lập dị ở Brooklyn nuôi. Bà ta thường mặc áo, quần và đặt nó ngồi ở ghế trong xe rồi lái quanh khu phố.
Với vị trí gần hai trạm dừng tàu điện ngầm, công trình xây dựng trên mảnh đất rạp xiếc của Trump được trợ cấp bởi chính Cơ quan Quản lý Nhà ở Liên bang (FHA) từng bị thượng nghị sĩ Capehart điều tra kỹ lưỡng vào năm 1954. Được sáng lập bởi Tổng thống Franklin Delano Roosevelt để giúp đỡ những người có ý định mua nhà, các chủ đầu tư, các nhà thầu và công nhân xây dựng, FHA là một phần trong chương trình Kinh tế mới lớn hơn của Tổng thống Roosevelt nhằm kích thích nền kinh tế đang trong thời kỳ Đại suy thoái với kiểu chi tiêu chính phủ mà nhà kinh tế học John Maynard Keynes gọi là bơm tiền.
Trước những năm 1930 và trước khi thành lập cơ quan FHA, chính phủ liên bang không hề có chính sách nhà ở thực sự nào cả, và sở hữu nhà đất không phải là thứ bảo vệ cho địa vị của tầng lớp trung lưu như sau này nó thực sự trở thành. Những người cho vay thế chấp yêu cầu khoản tiền trả trước là 50% hoặc hơn, và các khoản nợ thường trở thành khoản nợ phải trả đầy đủ - được gọi là các khoản nợ trả một lần - trong vòng năm đến mười năm. (Hầu hết các chủ nhà được tái cấp vốn trước ngày nợ đáo hạn.) Năm 1940, chỉ 43% người dân Mỹ sở hữu nhà của mình. Con số thậm chí còn ít hơn ở những bang đô thị hóa. Tại New York, con số chỉ là 30%. Bên cạnh hỗ trợ của FHA cho nhà ở mới, chương trình Kinh tế mới kích hoạt một sự tăng trưởng ổn định trong sở hữu nhà đất bằng cách trợ giúp tạo ra các khoản thế chấp 20 năm cho 80% giá trị một căn nhà, và bằng cách bảo hiểm cho người cho vay khỏi những rủi ro vỡ nợ.
Mặc dù hầu hết người Mỹ đều gặp khó khăn khi được yêu cầu giải thích sự khác biệt giữa FHA và Fannie Mae (Quỹ Thế chấp Nhà ở Quốc gia Liên bang - Federal National Mortgage Association), các doanh nhân và chính trị gia, những người theo dõi sự phát triển của những chương trình này lại coi đây là cơ hội. Những người làm bất động sản thấy cơ hội kinh doanh ở một quy mô lớn hơn nhiều, với nhiều khách hàng tiềm năng hơn và rủi ro giảm thiểu đáng kể hơn. Giới chính trị lại nhìn thấy những vụ quan liêu lớn mới đầy ắp những người bổ nhiệm thuộc Đảng Dân chủ, những người sẽ kiểm soát hàng triệu đô la và cuối cùng hàng tỷ đô la vốn tài chính có thể được trao cho những nhà thầu được ưu ái, nếu người đó có xu hướng thiên vị. Tại New York, vị trí đứng đầu của FHA thuộc về một huấn luyện viên bóng đá trường trung học sau này trở thành luật sư, tên Thomas “Tommy” G. Grace. Là một cựu chiến binh quân đội thời Thế chiến I, và là thành phần chính của những buổi tiệc tùng tụ tập tại câu lạc bộ ở khu dân cư Bay Ridge của Brooklyn, Grace được bổ nhiệm vị trí này vào năm 1935 khi chỉ mới ba chín tuổi. Anh trai ông là luật sư của Fred Trump. Vào tháng 8 năm 1936, Tommy trao Trump một tấm bảng kỷ niệm chương thể hiện cam kết của chính phủ liên bang trong việc hỗ trợ tài chính cho dự án xây dựng bốn trăm ngôi nhà.
Buổi lễ nho nhỏ ấy, được tờ The New York Times đưa tin, là một kiểu sự kiện mà các doanh nhân và chính trị gia thường sắp đặt và lên kịch bản cho mục đích duy nhất là thu hút truyền thông. Không giống những sự kiện báo chí khác vốn xảy ra một cách tự phát, những sự kiện dàn xếp kiểu này thường được chuẩn bị bằng cách gửi trước thông cáo báo chí tới các biên tập viên và phóng viên, và chúng xảy ra tại thời điểm nhất định với người tham gia thực hiện theo kịch bản đã được lên trước. New York, nơi các công ty quan hệ công chúng lớn đầu tiên phát triển mạnh mẽ vào những năm 1920, là thủ đô của ngành kinh doanh mới này. Thuật ngữ “Quan hệ công chúng” (public relations – PR) được sáng tạo bởi một người New York, Edward Bernays – cháu trai của Sigmund Freud – người dạy khóa học đầu tiên về loại hình kinh doanh này ở Đại học New York năm 1923.
Bernays tin rằng với sự kết hợp hợp lý các sự kiện được dàn dựng công phu, sự ủng hộ của những người nổi tiếng, và các đồng minh ở những vị trí cao, ông không chỉ kích thích doanh thu bán hàng cho khách hàng của ông, mà còn thực sự có thể tạo ra những xu hướng, thay đổi thời trang, hay sửa đổi chính sách công. Khi phong cách tóc ngắn ngang vai đã triệt tiêu nhu cầu mua lưới bao tóc của một khách hàng, Bernays thuyết phục những người phụ nữ xuất chúng tuyên bố họ yêu thích những mái tóc dài, đồng thời ông cũng thuyết phục những người đặt ra quy định rằng lưới bao tóc là cần thiết mỗi khi phụ nữ làm việc liên quan tới thực phẩm hoặc khi làm việc xung quanh máy móc. Có ít bằng chứng tồn tại cho thấy những quy định mới này là cần thiết, nhưng Bernays thuyết phục tới nỗi các chính sách và quan điểm thái độ của mọi người đều thay đổi và lượng bán lưới bao tóc lại tăng vọt. Ông cũng làm điều kỳ diệu tương tự cho các nhà sản xuất túi đựng hành lý, những người chịu thiệt hại vì những xu hướng mới giúp đàn ông và phụ nữ có thể du lịch nhẹ nhàng. Tới khi Bernays hoàn thành công việc của mình, những người quản lý sức khỏe công đã nói với mọi người rằng dùng chung một va ly là không vệ sinh và thế là lượng bán túi đựng hành lý lại tăng vọt.
Bernays được trợ giúp bởi thứ mà nhà phê bình Neal Gabler gọi là “xã hội hai-chiều”, một xã hội đến cùng với sự lan rộng của những tờ báo lá cải đầy hình ảnh minh họa và những bộ phim thời sự không khác gì phim điện ảnh chiếu rạp, khiến các nhân vật và sự kiện ghi được dấu ấn sâu đậm với hàng triệu người không có khả năng lại gần họ ở ngoài đời thực. Các phương pháp PR tiên phong thành công tới nỗi vào năm 1927, tờ The Nation nói rằng Bernays đang mở ra “Vương quốc thiên đường cho người bán hàng”. Ông nhanh chóng có cả một quân đoàn những người bắt chước, kể cả những nhà chức trách lẫn những doanh nhân bình thường, những người phát hiện ra rằng tự họ cũng có thể làm điều đó. Bằng cách cung cấp các thông báo và sự kiện đều đặn cho phóng viên, họ tiếp cận được những chuyên mục mới trên các tờ báo địa phương. Những dòng mực in miễn phí mà họ nhận được giá trị hơn nhiều so với những quảng cáo trả tiền bởi vì chúng được đưa đến với công chúng như là những tin tức hợp lệ, được những nhà báo nhà nghề xác nhận. Hầu hết những sự thao túng này là vô hại, nhưng trong một số trường hợp, những người thực hiện PR – đặc biệt là những người trong giới chính trị - đã tạo ra những kẻ thế tội và kẻ thù của công chúng qua các hình mẫu tiêu cực.
Triển khai những tin tức báo chí ở một tốc độ đều đặn, Fred Trump tìm kiếm mọi cách quảng bá miễn phí cho tất cả những việc mình làm, bao gồm cả việc chủ trì một bữa dã ngoại của công ty. Ông nhận được một đoạn đăng tin miễn phí đơn giản chỉ việc thông báo một dự án xây dựng ở Brooklyn đã tròn một năm - “Nhà thầu xây dựng Flatbush kỷ niệm” – và chỉ mười hai ngày sau đó, đoạn tin dài thêm chút nữa – “Bán nhà ở Flatbush” – bằng việc thông báo rằng mình vừa hoàn thành bốn mươi thương vụ bán nhà trong vòng ba tuần. Rằng một dự án xây dựng đã tròn một năm, hay người đàn ông bất động sản đang bán các căn nhà, là các tin tức thuộc dạng “chó-cắn-người”, không đáng được coi là tin tức. Nhưng bằng cách nào đó Trump vẫn khiến báo chí công bố, và hiệu quả tích lũy thì thực tốt cho việc kinh doanh. Tới năm 1940, ông được tung hô là một trong những nhà thầu xây dựng lớn nhất Brooklyn, đội ngũ nhân công của ông đang san ủi mặt bằng tại mảnh đất cuối cùng của khu rừng trong phố. Rừng Paerdegat là nơi người da đỏ Canarsee từng săn bắn, cũng là địa điểm diễn ra cuộc giao tranh nhỏ trong cuộc Cách mạng Mỹ giữa thực dân và lính đánh thuê Hessian trong trận chiến lớn Long Island.
Rất nhiều dự án xây dựng của Trump được xây dựng trên những mảnh đất ông mua từ chính phủ hoặc từ những người bán công khai theo quy định, bao gồm cả thành phố New York và, trong trường hợp rừng Paerdegat là công ty Brooklyn Water. Trump không bị thiệt hại gì trong những thương vụ này, vì ông rất có tiếng trong giới các nhà lãnh đạo Đảng Dân chủ của thành phố. Vào bất cứ thời điểm hay thời gian nào, một chủ đầu tư bất động sản luôn được khuyên nên giữ mối quan hệ hòa hảo với các chính trị gia tại địa phương. Vào những năm 40 ở New York, biết chọn đúng phe để theo là một ý tưởng khôn ngoan.
Khi bị cướp mất công việc kinh doanh rượu ở giai đoạn cuối thời kỳ Cấm rượu, các băng đảng người Mỹ gốc Ý bắt đầu tham gia nhiều hơn vào ngành xây dựng và các nghiệp đoàn. Những kẻ này sử dụng bạo lực và đe dọa sử dụng bạo lực để kiểm soát nguồn cung nguyên liệu và lao động; và quyết định công ty nào trong nghiệp đoàn hay “hội” của chúng nhận được hợp đồng cho các dự án xây dựng lớn. Mối nguy hiểm mà những kẻ này đem đến là có thật. Vụ giết hại hai mạng người được tiến hành bởi một nhóm cướp ở Brooklyn khi đối đầu với một nhóm khác đã đưa các nghiệp đoàn đại diện cho những người trợ giúp các thợ sơn và sửa ống nước về dưới sự kiểm soát của Louis Capone và các cộng sự của hắn. Những vụ xử lý này cũng báo động tính nghiêm trọng của sự dính dáng các hành động phạm tội có tổ chức trong hoạt động thương mại. Những tên trùm cướp đáng sợ tới nỗi chỉ bằng một lời, chúng có thể cho dừng ngay dự án và khiến bên xây dựng phải gánh thêm chi phí, hoặc chúng có thể gởi những nhân công giá rẻ và không thuộc công đoàn tới một công trường và vì thế để phá giá nhân công. Đôi khi những kẻ này đòi tiền để giữ an ổn, đôi khi chúng ép các chủ đầu tư trả tiền công cho những công nhân không bao giờ đi làm. Những trường hợp khác, chi phí đơn giản được thêm vào hợp đồng. Bất kể bằng phương pháp nào, sự nhúng tay của Mafia khiến việc xây dựng ở New York trở nên đắt đỏ hơn và nguy hiểm hơn bất cứ nơi nào trên đất Mỹ.
Sau Thế chiến II, khi FHA quay sang hỗ trợ nhà ở cho cựu chiến binh, Trump bắt tay với một nhà thầu có quen biết với bọn cướp để xây dựng dự án lớn Beach Haven. Trước khi tham gia cùng Trump, William “Willie” Tomasello đã hợp tác với một số nhân vật trong gia đình tội phạm Genovese và Gambino trong một số dự án xây dựng bất động sản ở New York và Florida. Sự có mặt của Tomasello tại Beach Haven đồng nghĩa với việc Trump không có gì phải lo bị gián đoạn nguồn cung gạch, xi măng, gỗ hay sắt. Đồng thời cũng đảm bảo ông có thể tiếp cận nguồn lao động đáng tin cậy, bao gồm cả những người không phải thành viên công đoàn với khoản tiền lương phải trả thấp hơn. Trump không bao giờ hợp tác với Tomasello nữa. Năm 1990, cộng sự của Tomasello là Louis DiBono, người làm việc với hắn trong bốn dự án sau đó, bị phát hiện đã chết trong một chiếc xe Cadillac đậu trong một ga-ra dưới tầng hầm ở Trung tâm Thương mại Thế giới ở Lower Manhattan.
Mỗi năm qua đi, Fred Trump lại làm ăn phát đạt hơn, ông quảng cáo các bất động sản của mình trên các tấm quảng cáo và phiếu giảm giá những căn hộ. Ông bắt đầu đưa ra các bình luận của mình với báo chí về những vấn đề trong ngày – bao gồm cả các chính sách của Tổng thống Truman – và nói về việc tranh cử chức quận trưởng quận Queens. Gần như độc nhất trong thành phố New York, văn phòng quận trưởng được xây dựng cuối thế kỷ XIX, khi thành phố được thống nhất. Các quận trưởng hình thành một hội đồng được gọi là Hội đồng Đánh giá và kiểm soát việc sử dụng đất địa phương, việc xây dựng thành phố, các cửa hàng kinh doanh nhượng quyền, và các việc kinh doanh khác. Theo thông luật, họ có quyền phủ quyết một số quyết định và bổ nhiệm nhất định của thị trưởng. Văn phòng này phù hợp với một người hoạt động nội bộ như Fred Trump. Nhưng khát vọng của ông đã bị cản trở khi đụng phải một thế lực không chịu khuất phục trước ảnh hưởng của các hội Dân chủ Brooklyn hay bạn bè của ông ở tòa án.
Tới năm 1954, rất nhiều các điều tra viên bắt đầu tiết lộ các vụ tham nhũng quy mô lớn của chính quyền và một số ngành cụ thể - xây dựng, vận tải, dịch vụ bến tàu - ở nhiều thành phố lớn của Mỹ. Ủy ban Điều tra tội phạm Đặc biệt của thượng nghị sĩ Estes thuộc Ủy ban Thương mại Liên tiểu bang đã tiết lộ mối liên hệ giữa Mafia và Tammany Hall, vạch trần những đặc điểm chính của tình hình tham nhũng trong ngành kinh doanh xây dựng. Một ủy ban điều tra tội phạm New York đưa ra các tài liệu về các vụ hối lộ các quan chức công quyền, và một vị thượng nghị sĩ bang đến từ Manhattan kêu gọi thành lập một đại bồi thẩm đoàn thường trực để thường xuyên kiểm tra các hoạt động kinh doanh của thành phố.
Thực tế được tiết lộ bởi Kefauver khiến việc hối lộ của Plunkitt trông có vẻ kỳ quặc. Khi hội đồng xuất hiện, các băng đảng sử dụng các cách tống tiền, bạo lực, đút lót và hối lộ để kiểm soát cả các quan chức công quyền lẫn các doanh nghiệp tư nhân. Chi tiết vụ việc gây tức giận cho Tổng thống Dwight D. Eisenhower và giới tăng lữ phản đối mạnh mẽ lòng tham, sự chiếm đoạt, hưởng lợi từ thành quả của người khác. Giáo sĩ Rabbi William Rosenbaum của Giáo đường Do Thái tại Manhattan nói rằng, “Chúng ta đang trở thành một thành phố hầm ngầm”. Tuy nhiên, mạng lưới các mối quan hệ quản chế thế giới ngầm này rộng lớn và phức tạp tới nỗi chỉ có một chuyên gia thực sự, và rất ít người như thế, biết hết tên của tất cả những người liên quan. Khi Fred Trump trình diện trước Ủy ban Ngân hàng Thượng viện, không ai đả động gì tới cộng sự Willie Tomasello người từng làm ăn với các nhân vật tội phạm có tổ chức. Khi các thành viên ủy ban ngân hàng và các trợ lý tổng hợp hơn ba ngàn trang lời khai, họ tỏ ra không quan tâm đến những băng đảng lởn vởn quanh ngành công nghiệp xây dựng. Họ chỉ quan tâm tới khoản lợi nhuận khủng bất thường của những nhà thầu xây dựng và những tên quan liêu đã tiếp tay các nhà thầu mà thôi.
Hai trong những mục tiêu chính của Ủy ban là Tommy Grace và Clyde L. Powell, hai viên chức của FHA, những người đóng vai trò chính trong việc tạo điều kiện cho các chủ thầu xây dựng ở New York, và Trump thì dính dáng tới cả hai người họ. Với sự có mặt thường xuyên tại nơi tụ tập của Đảng Dân chủ và là một người hiểu chính trị Brooklyn, Trump đã được Grace trao cho hợp đồng FHA đầu tiên và một kỷ niệm chương đã được ghi lại trên tờ The Times. Theo các điều tra viên ủy ban, Grace đã nhận khoản tiền 48.000 đô la từ hãng luật mà anh trai mình George đại diện cho nhiều ứng viên của FHA, bao gồm cả Fred Trump. George sau cùng đã phải thú nhận rằng đã nộp một chút “dầu bôi trơn” để “được xong việc”, nhưng trong lời giải trình chính thức trước chất vấn của chính quyền, ông nói rằng không ai tin anh em nhà Grace đã làm điều gì đó bất hợp pháp.
Mối liên hệ giữa Trump và Clyde L. Powell đã được ghi lại bởi thành viên ủy ban, họ phát hiện ra rằng Powell đã hành động vì lợi ích của Trump. Ví dụ như khi người kiểm tra của cơ quan phát hiện có vấn đề trong một số giấy tờ của Trump, Powell chỉ đơn giản miễn cho Trump khỏi việc tuân thủ theo quy định. Powell cũng làm tương tự với các chủ đầu tư xây dựng khác và bằng cách nào đó, trong khi mức lương chính thức chính quyền trả cho ông không bao giờ vượt quá 10.000 đô la một năm, ông đã có tổng 100.000 đô la trong tài khoản ngân hàng. Các điều tra viên cho rằng đó là tiền tích lũy từ các vụ hối lộ của những nhà thầu muốn có những khoản vay mà Powell kiểm soát. Trước khi đảm nhiệm công việc trong chính quyền này, Powell đã từng bị bắt vài lần vì bị buộc tội tham ô và kiểm tra gian lận. Powell cũng có vấn đề về cờ bạc nghiêm trọng tới nỗi có lần, ông ta đã mất 5.000 đô la – một nửa lương cả năm – chỉ trong một đêm.
Một điều đáng ngạc nhiên rằng, cả Powell lẫn Grace đều không hề được nhắc đến khi Trump đứng trước Ủy ban Nghị viện, và cũng không hề được hỏi một cách trực tiếp rằng mình có tặng cho họ bất cứ khoản tiền hay quà tặng nào không. Tuy nhiên, Fred Trump cũng đã phải trả giá cho sự dính líu của mình trong vụ bê bối, đó là không có khả năng tiếp cận tới chương trình FHA nữa. Nhưng với tinh thần tự bào chữa, ông đã tạo ấn tượng tốt hơn nhiều so với các nhà thầu khác, những người đã viện đến câu “Xin không trả lời bất cứ câu hỏi nào”. Bất chấp mấy câu trả lời vòng vo, Fred Trump vẫn thể hiện thái độ hợp tác. Vào cuối buổi chiều hôm đó, Chủ tịch ủy ban Capehart đã có thiện cảm với Trump tới mức cảm ơn sự có mặt của Trump và quả quyết với ông rằng hội đồng đã “rất hài lòng” khi nghe các câu trả lời của ông.
Kết thúc buổi lấy lời khai trước chiều muộn, Fred Trump bắt chuyến bay về New York để có thể kết thúc một ngày bên gia đình tại ngôi nhà ở khu dân cư sang trọng Jamaica Estates của Queens. Trong những khoảnh khắc “trái đất tròn” như vậy khó có khả năng xảy ra khi có gần ba trăm chuyến bay khởi hành mỗi ngày từ Sân bay Quốc gia, ông tình cờ chạm mặt vị thượng nghị sĩ, người cũng đang chuẩn bị lên máy bay về New York. Capehart đã nói vui vẻ với Trump rằng người Mỹ vẫn cần rất nhiều nhà ở, nên “hãy tiếp tục phát huy công việc tốt anh đang làm”.