M
ãi tới gần đây Kit mới biết chùy dây có hình dạng thế nào, vậy mà ngay trên đầu cậu bây giờ là cả một hàng những cây chùy treo dọc vách, bóng loáng, sắc nhọn chết người.
Phòng vũ khí của Học Viện Los Angeles khác hẳn tất cả những nơi cậu từng thấy. Tường và sàn lát đá hoa cương trắng bạc, những chiếc bàn đá đặt rải rác khắp phòng, tạo nên cảm giác của một bảo tàng vũ khí. Côn, trượng, gậy chống thiết kế tinh xảo, dây chuyền, ủng, áo khoác dày giấu được các loại dao mỏng chuyên dùng để đâm hay phóng. Những cây chùy với phần đầu tạ lởm chởm gai, những cây nỏ với đủ chủng loại to nhỏ.
Mấy chiếc bàn đá hoa cương bày đầy các món vũ khí làm bằng đá adamas, thứ đá quý tựa thạch anh được các Thợ Săn Bóng Tối khai thác từ lòng đất, và cũng chỉ có họ mới biết cách biến chúng thành dao, kiếm và stele. Song Kit để ý nhất vẫn là cái kệ dao găm.
Chẳng phải là cậu có hứng thú đặc biệt gì với dao, bất quá cũng chỉ như mấy đứa con nít mới lớn lần đầu được cầm vũ khí nguy hiểm, mà cho dù có vậy đi nữa cậu cũng thích xài súng máy hay súng phun lửa hơn. Chẳng qua mấy con dao găm đây đều là những tác phẩm nghệ thuật. Chuôi dao khảm vàng, bạc cùng bảo thạch: lam ngọc, hồng ngọc, những đường vân gai khắc bằng bạch kim và kim cương đen.
Cậu tính được có ít nhất ba người ở Phiên Chợ Bóng Tối sẽ mua mấy con dao này với giá hời mà không hề thắc mắc.
Hoặc bốn.
Kit cởi chiếc áo khoác jean ra. Cũng chẳng biết cái áo này từng thuộc về thành viên nào trong nhà Blackthorn; buổi sáng sau ngày mới đến Học Viện, cậu đã thức dậy và thấy một chồng quần áo giặt là sạch sẽ xếp sẵn dưới chân giường mình. Cậu thay vào chiếc áo khoác độn bông, thoáng thấy bóng mình qua chiếc gương cuối phòng. Mớ tóc vàng bù xù, mấy vết bầm sắp tan trên làn da nhợt nhạt. Cậu kéo khóa ngăn túi trong ra, đoạn nhét mấy cây dao vào, chú ý lựa cây nào có chuôi cầu kì nhất.
Cửa phòng vũ khí bật mở. Kit thả cây dao đang cầm xuống kệ lại rồi quay phắt ra cửa. Cậu cứ nghĩ mình đã lẻn ra khỏi phòng mà không bị phát hiện, nhưng trong khoảng thời gian ngắn ngủi ở Học Viện, nếu cậu có học được gì thì đó chính là Julian Blackthorn để mắt tới tất cả mọi thứ, và rằng đám em anh ta cũng hóng chuyện nhanh chẳng kém.
Nhưng người đứng ở cửa không phải Julian. Là một chàng trai trẻ Kit chưa từng gặp qua, song phảng phất nét gì quen thuộc. Anh ta cao lớn, tóc vàng bù xù, đôi vai rộng đúng kiểu Thợ Săn Bóng Tối, cánh tay cơ bắp, những nét Ấn Ký đen hộ thân ló ra qua cổ áo và cổ tay áo.
Mắt anh ta mang sắc vàng sẫm lạ kì. Ngón tay đeo một chiếc nhẫn bạc bản lớn, giống như nhiều Thợ Săn Bóng Tối khác. Anh ta nhướng mày với Kit.
“Em thích vũ khí hử?” Anh ta hỏi.
“Thấy cũng được.” Kit khẽ lùi về một cái bàn, hy vọng mấy con dao giấu trong áo không va nhau thành tiếng.
Chàng trai bước đến cái kệ Kit vừa lục lọi, nhặt con dao cậu làm rơi. “Em chọn được một cây tốt đấy,” anh ta nói. “Thấy dòng chữ khắc trên chuôi không?”
Kit chẳng thấy.
“Nó được hậu duệ của Wayland Thợ Rèn làm ra. Ông ấy là người đã rèn nên thanh Durendal và Cortana.” Chàng trai xoay con dao qua ngón tay rồi đặt lại xuống kệ. “Không lợi hại bằng Cortana, nhưng mấy con dao này có khả năng bay ngược về tay ta sau khi phóng đi. Tiện đấy chứ.”
Kit hắng giọng. “Chắc là có giá lắm.”
“Anh không nghĩ nhà Blackthorn có ý định bán vũ khí,” chàng trai lãnh đạm nói. “Tiện thể, anh là Jace. Jace Herondale.”
Im lặng. Có lẽ anh ta đang chờ phản ứng nào đó, Kit quyết tâm làm mặt hững hờ. Ừ thì cậu biết cái họ Herondale. Hình như suốt hai tuần qua người ta chỉ nói đúng mỗi từ này với cậu. Nhưng thế không có nghĩa cậu sẽ bày ra thái độ chiều lòng cái gã Jace này.
Jace vẫn thản nhiên trước sự im lặng của Kit. “Còn em là Christopher Herondale.”
“Sao anh biết?” Kit hỏi lại, giữ giọng đều đều dửng dưng. Cậu ghét cái họ Herondale. Cậu ghét cái từ đó.
“Ngoại hình,” Jace nói. “Chúng ta giống nhau. Nói đúng ra thì nhìn em khá giống mấy bức chân dung người nhà Herondale.” Anh ta dừng lại. “Hơn nữa Emma đã gửi ảnh của em cho anh.”
Emma. Emma Carstairs đã cứu mạng Kit. Nhưng kể từ đó họ không trò chuyện nhiều, bởi cái chết của Malcolm Fade, Đại Pháp Sư Los Angeles đã gây ra đủ loại hỗn loạn. Cậu chẳng là ưu tiên của bất kì ai, vả lại cậu có cảm giác chị ta xem cậu là con nít. “Được thôi. Tôi là Kit Herondale. Ai cũng bảo thế, nhưng nó chẳng có nghĩa gì với tôi cả.” Kit đanh hàm. “Tôi là người nhà Rook. Kit Rook.”
“Anh biết bố em đã nói gì với em. Nhưng em thật sự là người nhà Herondale. Có ý nghĩa cả đấy.”
“Nghĩa? Nghĩa gì?” Kit vặn lại.
Jace dựa lưng vào tường, ngay dưới chiếc giá đặt những thanh cự kiếm nặng trịch. Kit thầm mong một cây sẽ rơi xuống đầu anh ta. “Em biết về sự tồn tại của Thợ Săn Bóng Tối,” anh ta nói. “Khá nhiều người biết, nhất là Cư dân Thế Giới Ngầm và người phàm có Tâm Nhãn. Em nghĩ mình là một trong số đó, đúng không?”
“Tôi chưa bao giờ nghĩ mình là người phàm,” Kit nói. Thợ Săn Bóng Tối có biết cái từ đó ra khỏi miệng họ mang thái độ thế nào không vậy?
Nhưng Jace lờ cậu đi. “Lịch sử và xã hội của Thợ Săn Bóng Tối, đó lại là những thứ mà thường chỉ có Nephilim mới biết đến. Thế giới Thợ Săn Bóng Tối cấu thành từ các gia tộc, mỗi gia tộc mang cái họ mà họ tự hào. Mỗi gia tộc mang theo lịch sử truyền đời cho con cháu. Chúng ta gánh vác vinh quang lẫn gánh nặng của cái tên, gánh vác mọi điều tốt xấu các thế hệ trước từng làm, suốt cả cuộc đời. Chúng ta cố gắng sống cho thật xứng đáng với cái tên đó, để người đến sau được nhẹ gánh đi hơn.” Anh ta khoanh tay lại. Cổ tay anh ta vẽ đầy Ấn Ký; cái trên mu bàn tay trái nhìn như một con mắt mở. Kit để ý thấy hình như Thợ Săn Bóng Tối nào cũng có cái Ấn Ký đó. “Đối với Thợ Săn Bóng Tối, họ ta mang có ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Nhà Herondale là gia tộc đã định hình số phận cho Thợ Săn Bóng Tối suốt nhiều thế hệ. Giờ chúng ta không còn bao nhiêu người nữa. Thật ra ai cũng nghĩ anh là người cuối cùng. Chỉ có Jem và Tessa là tin rằng em tồn tại. Họ tìm kiếm em lâu lắm rồi.”
Jem và Tessa. Hai người đó đã cùng Emma cứu Kit thoát khỏi bầy quỷ giết chết bố cậu. Và họ đã kể cho cậu chuyện về nhà Herondale, về cái người đã phản bội bạn bè, bỏ trốn, bắt đầu một cuộc đời mới tách biệt với các Nephilim. Một cuộc đời mới, một dòng dõi mới.
“Tôi đã nghe chuyện của Tobias Herondale,” cậu nói. “Vậy ra tôi là con cháu của một tên hèn.”
“Con người ai chẳng có thiếu sót,” Jace nói. “Không phải ai trong dòng họ chúng ta cũng trở nên vĩ đại. Nhưng sau này gặp lại Tessa, chị ấy có thể kể cho em về Will Herondale. James Herondale. Và anh nữa, tất nhiên,” anh ta khiêm tốn bổ sung. “Trong giới Thợ Săn Bóng Tối, anh có thể xem là một đại nhân vật đấy. Không có ý làm em ngợp đâu.”
“Tôi chẳng thấy ngợp gì cả,” Kit bảo, tự hỏi gã này đang nói thật hay đùa. Đáy mắt Jace lấp lánh cái nét cho thấy anh ta chẳng mấy nghiêm túc với mọi điều mình nói, nhưng ai mà biết được. “Tôi chỉ muốn được ở một mình.”
“Anh biết có quá nhiều thứ để em tiêu hóa,” Jace nói. Anh ta vỗ lưng Kit. “Nhưng Clary và anh sẽ ở đây nếu em cần…”
Cái vỗ làm một con dao trong túi Kit rơi ra. Nó đánh keng xuống sàn, ánh lên trên sàn đá như một cái nhìn buộc tội.
“À,” Jack lên tiếng sau một hồi im lặng. “Ra là em đang trộm đồ.”
Biết rõ có chối cũng chẳng được gì, Kit ngậm miệng không đáp.
“Được rồi, nghe này, anh biết bố em là dân lừa đảo, nhưng giờ em đã là Thợ Săn Bóng Tối, và… khoan, còn gì trong túi áo nữa đấy?” Jace hỏi. Chân trái anh ta đưa ra, làm động tác gì đó khiến con dao bay ngược lên. Anh ta chụp gọn, chiếc chuôi khảm hồng ngọc hắt sáng long lanh. “Cởi ra.”
Kit lẳng lặng cởi áo khoác rồi ném lên bàn. Jace lật nó lại, mở ngăn túi trong ra. Cả hai cùng nhìn xuống những con dao đính bảo thạch óng ánh trong im lặng.
“Vậy là…,” Jace nói. “Em đang tính bỏ trốn, đúng không?”
“Có gì để tôi ở lại đâu chứ?” Kit phát hỏa. Cậu biết thế là không nên, nhưng không nhịn nổi nữa. Mọi việc thật quá sức cậu rồi: bố thì mất, Học Viện thì đáng ghét, đám Nephilim thì chảnh chọe, khăng khăng đòi cậu chấp nhận cái họ cậu vốn chẳng quan tâm và cũng chẳng muốn quan tâm. “Tôi không thuộc về nơi này. Cứ mặc sức rêu rao về tên họ tôi đi, nhưng với tôi nó chẳng có nghĩa gì sất. Tôi là con trai của Johnny Rook. Cả đời tôi được dạy để trở nên giống bố tôi, chứ không phải mấy người. Tôi không cần mấy người. Tôi không cần bất kì ai trong mấy người. Tôi chỉ cần một ít vốn liếng để mở quầy hàng ở Phiên Chợ Bóng Tối thôi.”
Đôi mắt vàng nheo lại, và lần đầu tiên Kit bắt gặp cái nét thông minh sắc sảo ánh lên dưới vẻ ngoài đùa cợt ngông nghênh kia. “Rồi bán cái gì? Bố em bán thông tin.
Ông ta phải tốn biết bao thời gian, biết bao ma thuật mới gầy dựng được những mối quan hệ đó. Em cũng muốn bán linh hồn mình như thế sao? Để có thể sống vật vờ bên lề Thế Giới Ngầm? Còn cái thứ đã giết bố em thì sao? Em đã thấy ông ta chết, đúng không?”
“Lũ quỷ…”
“Phải, nhưng ai đó đã phái chúng tới. Vệ Thần tuy đã chết, nhưng đừng tưởng không còn ai truy lùng em nữa. Em chỉ mới mười lăm. Em nghĩ mình muốn chết, nhưng tin anh đi, em không muốn đâu.”
Kit nuốt ực. Lần thứ n trong mấy ngày qua, cậu cố hình dung mình đứng sau quầy hàng ở Phiên Chợ Bóng Tối. Nhưng Đúng là nhờ có bố, cậu mới thấy an toàn ở Phiên Chợ. Vì mọi người sợ Johnny Rook. Không còn bố bảo vệ, cậu sẽ ra sao khi đến đó?
“Nhưng tôi không phải là Thợ Săn Bóng Tối,” Kit nói. Cậu đưa mắt quanh phòng, nhìn vào hàng đống vũ khí, đá adamas, trang phục đi săn, giáp, thắt lưng vũ khí. Thật nực cười. Cậu có phải là ninja đâu. “Tôi thậm chí còn không biết phải bắt đầu như thế nào.”
“Cho thêm một tuần nữa đi,” Jace nói. “Một tuần ở Học Viện nữa. Cho bản thân mình cơ hội. Emma đã kể lại cách em chiến đấu với lũ quỷ giết bố em. Chỉ có Thợ Săn Bóng Tối mới chiến đấu được như thế.”
Kit chỉ mơ hồ nhớ được cuộc chiến với lũ quỷ trong nhà bố, nhưng cậu biết rõ chính mình đã làm thế. Cơ thể cậu tự động lên tiếng, cậu đã chiến đấu, và trong sâu thẳm thâm tâm, cậu thậm chí đã ít nhiều phấn khích.
“Đây chính là con người thật của em,” Jace nói. “Em là Thợ Săn Bóng Tối. Em có một nửa là thiên thần. Em mang trong người dòng máu thiên thần. Em là người nhà Herondale. Mà tiện thể, vậy cũng có nghĩa em là thành viên của một dòng họ sản sinh toàn trai xinh gái đẹp, cũng như sở hữu rất nhiều tài sản giá trị, bao gồm một căn nhà phố ở London và một trang viên ở Idris. Chắc em cũng có phần thừa kế đấy. Nếu em có hứng thú.”
Kit nhìn vào chiếc nhẫn trên tay trái Jace. Bằng bạc, khá nặng và cổ. Có giá trị. “Tôi nghe đây.”
“Anh chỉ muốn nói hãy ở lại thêm một tuần nữa. Suy cho cùng…” Jace cười toe toét. “Người nhà Herondale vốn không thể cưỡng lại thách thức mà.”
“Quỷ Teuthida sao?” Julian nhíu mày nói vào di động. “Vậy là một con mực ống đúng không?”
Tiếng trả lời không rõ. Emma nghe ra giọng Ty, nhưng chẳng nghe được cụ thể từng lời.
“Ừ, bọn anh đang ở bến tàu,” Julian tiếp. “Chưa thấy gì hết, bọn anh vừa mới tới. Ở đây không có chỗ đậu xe riêng cho Thợ Săn Bóng Tối, quá tệ…”
Tâm trí chỉ đặt một nửa vào lời Julian, Emma đảo mắt ra xung quanh. Mặt trời vừa mới lặn. Cô đã yêu thích cầu cảng Santa Monica kể từ hồi bé xíu được bố mẹ dẫn đi chơi khúc côn cầu trên bàn và cưỡi vòng xoay ngựa gỗ. Cô mê mệt các món ăn vặt: bánh mì kẹp, sữa lắc, sò chiên, kẹo mút khổng lồ… và mê cả công viên Thái Bình Dương, cái công viên giải trí nho nhỏ nằm ngay cuối cầu cảng, nhìn về Thái Bình Dương gợn sóng.
Mấy năm nay người phàm đã đổ cả triệu đô để cải tạo cầu cảng thành địa điểm du lịch. Công viên Thái Bình Dương giờ bày đầy những trò chơi mới toanh sáng bóng, những chiếc xe bán bánh churro cũ đã bị dẹp đi, thay bằng quầy kem ốc quế và hàng hải sản. Nhưng lớp ván gỗ dưới chân Emma vẫn là lớp ván cũ kĩ cong vênh qua bao năm tháng dầm mưa dãi nắng. Không khí vẫn mang mùi đường ngọt và rong biển. Vòng xoay ngựa gỗ vẫn vẳng đưa khúc nhạc vui tai. Vẫn còn những trò ném đồng xu để giành về những con gấu trúc nhồi bông. Và vẫn còn đó những góc khuất bên dưới cầu tàu, nơi tụ tập của người phàm vẩn vơ, hoặc đôi khi là những thứ đáng sợ.
Đời Thợ Săn Bóng Tối là thế đấy, Emma thầm nghĩ, nhìn về cái vòng đu quay Ferris khổng lồ treo đèn led lấp lánh. Dòng người hào hứng chờ đến lượt kéo dài ra đến tận cầu tàu; bên kia lan can, cô thoáng thấy mặt biển xanh đen điểm trắng nơi đầu con sóng. Thợ Săn Bóng Tối nhìn thấy vẻ đẹp trong những điều người phàm tạo nên, ánh đèn của vòng quay Ferris rọi bóng xuống mặt biển, sáng ngời như thể ai đó đang đốt pháo hoa dưới nước. Đỏ, lam, lục, tím, vàng. Nhưng họ cũng thấy cả bóng tối, nguy hiểm và mục ruỗng.
“Gì vậy?” Julian hỏi. Cậu đã nhét điện thoại vào túi áo đi săn lại. Gió nơi cầu tàu thổi mãi, cơn gió miệt mài lướt qua đại dương, mang theo hương vị của muối và những vùng đất xa xăm. Cơn gió ấy khẽ lay những lọn tóc nâu nơi cậu, phất phơ lên má và hai thái dương.
Những suy nghĩ đen tối, Emma muốn đáp. Nhưng không thể. Đã có lúc cô có thể nói với Julian mọi điều. Giờ thì cô không thể nói mọi điều với cậu được nữa.
Cô tránh đi ánh mắt cậu. “Anh Mark và chị Cristina đâu?” “Đằng kia.” Cậu chỉ tay. “Chỗ ném vòng.”
Emma trông theo ánh mắt cậu, nhìn về cái quầy hàng sơn màu tươi tắn nơi mọi người đang tranh tài ném vòng vào cổ chai. Cô gạt đi cảm giác tự đắc khi thấy người phàm phải chật vật trước thử thách này đến thế nào.
Người anh cùng cha khác mẹ của Julian, Mark, hiện đang cầm ba cái vòng nhựa trên tay. Cristina tóc búi gọn gàng đứng bên cạnh anh, vừa ăn bỏng ngô bọc đường vừa cười thích thú. Mark ném vòng ra, ba cái cùng lúc. Mỗi cái bay ra một hướng, rơi xuống đúng cổ chai.
Julian thở dài. “Kín đáo kiểu đó đấy.”
Một tràng tiếng hoan hô trầm trồ khó tin vọng đến từ đám người đứng ở quầy ném vòng. May là ở đó không có bao nhiêu người, vậy nên Mark có thể lấy món quà đựng trong bọc nhựa đi mà không gây ồn ào nhiều.
Anh cùng Cristina quay về chỗ hai người họ. Vành tai nhọn ló qua lọn tóc vàng, nhưng anh đã dùng phép ngụy trang nên người phàm không nhìn thấy được. Mark là nửa người nửa tiên, dòng máu Cư dân Thế Giới Ngầm thể hiện qua đường nét thanh tú trên gương mặt, vành tai nhọn cũng như góc cạnh nơi đôi mắt và gò má.
“Vậy nó là quỷ mực ống à?” Emma hỏi, chủ yếu để khỏa lấp khoảng không im lặng giữa cô và Julian. Những ngày này giữa cô và Julian có đầy những khoảng không im lặng. Chỉ mới hai tuần kể từ khi tất cả thay đổi, nhưng cô cảm nhận rõ rệt sự khác biệt, sâu tận xương tủy. Cô cảm nhận được sự xa cách nơi cậu, dù rằng thái độ duy nhất cậu tỏ ra từ ngày cô thông báo chuyện của mình và Mark là lịch sự và tử tế đến chân thành.
“Xem ra là vậy,” Julian nói. Mark và Cristina đã tới nơi. Cristina ăn nốt miếng bỏng ngô cuối cùng, buồn bã nhìn vào trong túi như mong nó sẽ hiện ra thêm. Emma sâu sắc đồng cảm. Mark trong lúc đó lại chằm chằm nhìn món quà của mình. “Nó leo lên bên hông cầu tàu để bắt người. Chủ yếu là trẻ con hay những ai nhoài người qua lan can để chụp ảnh đêm. Nhưng nó đang trở nên dạn hơn. Có người đã trông thấy nó trong khu vực trò chơi, gần bàn khúc côn cầu… nó là cá vàng hả?”
Mark giơ chiếc bọc nhựa lên. Một chú cá nhỏ màu cam đang bơi vòng vòng bên trong. “Đây là chuyến đi tuần xuất sắc nhất từ trước tới giờ,” anh nói. “Anh chưa bao giờ được tặng cá vàng trước đây.”
Emma âm thầm thở dài. Mark đã sống vài năm trong Hội Săn Hoang, nhóm thần tiên vô tri và cực kì hoang dã.
Họ phóng qua bầu trời trên đủ loại phương tiện thần, từ xe máy, ngựa, đến nai, chó khổng lồ, và lùng sục khắp chiến trường, đoạt lấy những vật giá trị trên người xác chết rồi đem cống nạp cho hai Triều đình Tiên.
Anh đã bắt được nhịp với cuộc sống trong gia đình Thợ Săn Bóng Tối, nhưng thế giới bình thường vẫn còn lắm điều khiến anh ngạc nhiên. Giờ anh để ý thấy mọi người đang nhướng mày nhìn mình. Giật mình, anh khoác hờ tay qua vai Emma, tay còn lại giơ chiếc bọc lên.
“Anh đem về cho người đẹp một chú cá nhỏ đây,” anh nói, hôn lên má cô.
Một nụ hôn ngọt ngào, dịu dàng, và Mark vẫn mang cái mùi quen thuộc: mùi của trời cao lạnh lẽo và mầm xanh nảy nở. Cũng đúng thôi khi Mark cho rằng mọi người làm mặt kinh ngạc vì họ đang chờ anh tặng quà cho cô. Suy cho cùng cô là bạn gái anh mà.
Cô và Cristina trao nhau ánh nhìn lo lắng. Đôi mắt sẫm màu nơi chị mở tròn xoe. Julian thì như sắp sửa hộc máu đến nơi. Biểu cảm ấy thoáng qua rất nhanh, rồi cậu vuốt nét mặt về vẻ thờ ơ thường lệ, nhưng Emma vẫn gỡ tay Mark xuống, mỉm cười xin lỗi anh.
“Em không nuôi cá được,” cô nói. “Em chỉ cần nhìn cây thôi cũng khiến cây chết rồi.”
“Anh nghĩ mình cũng có vấn đề tương tự,” Mark đưa mắt nhìn con cá. “Tiếc quá… anh tính đặt tên cho nó là Magnus, vì lớp vảy lóng lánh.”
Cristina nghe đến đó liền bật cười khúc khích. Magnus Bane là Đại Pháp Sư Brooklyn và có niềm đam mê mãnh liệt với những gì lấp lánh.
“Có lẽ anh nên thả nó đi vậy,” Mark nói. Những người khác chưa kịp lên tiếng, anh đã bước ra lan can cầu tàu, vốc ngược chiếc bọc xuống, đổ cá lẫn nước xuống biển.
“Có ai muốn nói với anh ấy rằng cá vàng là cá nước ngọt nên không thể sống ngoài biển không?” Julian hạ giọng hỏi.
“Không hẳn,” Cristina nói.
“Có phải anh ấy vừa mới giết Magnus không?” Emma hỏi, nhưng Julian chưa kịp trả lời, Mark đã quay phắt lại.
Mọi nét vui đùa trên mặt anh mất sạch. “Anh vừa thấy thứ gì đó bò lên cột chống dưới cầu tàu. Không giống con người.”
Emma khẽ rùng mình. Những loài quỷ cư ngụ dưới đại dương ít khi lên cạn. Có đôi khi cô gặp ác mộng, mơ thấy đại dương cuộn mình nôn xuống bờ biển mọi thứ trong gan ruột: những sinh vật đen đúa, nhầy nhụa, ngo ngoe xúc tu và lởm chởm gai, cơ thể oặt ẹo vì bị áp lực nước ép chặt.
Trong tích tắc, các Thợ Săn Bóng Tối đã rút vũ khí. Emma nắm chặt thanh Cortana, thanh kiếm vàng bố mẹ cô truyền lại. Julian cầm một con dao thiên thần, còn Cristina thủ con dao bướm.
“Nó đi đường nào?” Julian hỏi.
“Về cuối cầu tàu,” Mark nói; chỉ còn anh là chưa rút vũ khí, nhưng Emma biết anh nhanh cỡ nào. Biệt danh của anh trong Hội Săn Hoang là tinh linh xạ thủ, có được nhờ tài bắn cung chuẩn xác và phóng dao cực nhanh. “Hướng công viên.”
“Em sẽ đi hướng đó,” Emma nói. “Đuổi nó ra khỏi mép cầu tàu. Anh Mark, chị Cristina, hai người xuống dưới, canh bắt nó nếu nó bò về biển lại.”
Không đợi những người kia gật đầu, Emma đã chạy vọt đi. Gió thốc qua mái tóc tết bím khi cô luồn lách giữa đám đông, hướng về khu công viên sáng đèn nơi cuối cầu cảng. Thanh Cortana ấm áp cầm chắc trong tay, cô phóng như bay trên lớp ván gỗ cũ. Tự do là đây, mọi lo toan lùi bước, tâm trí và cơ thể chỉ còn tập trung vào nhiệm vụ trước mặt.
Cô nghe thấy tiếng bước chân bên cạnh. Không cần nhìn cũng biết đó là Jules. Bước chân cậu đã đồng hành cùng cô qua bao năm tháng chiến đấu như một Thợ Săn Bóng Tối. Máu cô đổ là máu cậu cũng đổ. Cậu đã cứu mạng cô và cô đã cứu mạng cậu. Cậu là một phần của bản thể chiến binh trong cô.
“Kìa,” cô nghe cậu nói, nhưng đã sớm thấy rồi. Một cái khối to đen đang leo lên thanh trụ của vòng quay Ferris. Những cái cabin tiếp tục quay xung quanh, hành khách reo hò phấn khích, chẳng hay biết gì.
Emma chạy đến dòng người đang xếp hàng lên đu quay, xô đẩy chen qua. Cô và Julian đã vẽ chữ rune che mờ trước khi tới cầu cảng, họ vô hình trong mắt phàm nhân. Tuy vậy người ta vẫn có thể cảm nhận được sự hiện diện của họ. Người phàm đứng trong hàng chửi um lên khi bị cô đạp chân, giật chỏ để chen qua.
Một chiếc cabin vừa hạ xuống, cặp đôi nam nữ với cô gái cầm que kẹo bông gòn tím cùng chàng trai cao gầy mặc đồ đen đang chuẩn bị leo lên. Liếc nhìn lên, Emma thoáng thấy con quỷ Teuthida trườn qua đỉnh trụ đỡ. Văng tục, Emma xô cặp đôi ra, suýt làm hai kẻ đó ngã nhào, đoạn nhảy vào trong cabin. Cái khoang có hình bát giác, băng ghế lắp xung quanh, rộng rãi thừa chỗ đứng. Cô nghe thấy tiếng kêu bất ngờ trong lúc chiếc cabin nâng cao dần, rời xa khung cảnh hỗn loạn do chính cô gây ra bên dưới, cặp đôi vừa nãy quát tháo với tay soát vé, còn những người xếp hàng thì la ó ầm ĩ với nhau.
Chiếc cabin lắc lư khi Julian đáp xuống bên cạnh. Cậu ngẩng đầu lên. “Thấy nó không?”
Emma nheo mắt. Cô mới thấy con quỷ đây, nhưng giờ thì nó đã biến đâu mất. Từ góc độ này, vòng quay Ferris là một khối mờ ảo của ánh đèn rực rỡ, nan hoa xoay tròn và những chấn song sơn trắng. Hai cabin dưới cô trống không; dòng người hẳn đã tự bỏ qua chúng.
Tốt, Emma nghĩ. Càng ít người trên đu quay càng tốt.
“Khoan.” Cô cảm nhận được bàn tay Julian đặt lên tay mình, xoay cô lại. Cả người cô căng cứng. “Chữ rune,” cậu nói ngắn gọn, cô chợt nhận ra cậu đang cầm thanh stele.
Chiếc cabin chở họ vẫn từ từ lên cao. Emma nhìn thấy được bãi biển dưới kia, làn nước đen ì ạch vỗ bờ, những ngọn đồi bên công viên Palisades vươn cao trên cao tốc, phủ xanh trong màu cây cỏ.
Ánh sao mờ nhạt, song vẫn hiển hiện trên ánh đèn rực rỡ nơi cầu cảng. Julian nắm lấy tay cô, không mạnh cũng không nhẹ, chỉ có một sự xa cách như bác sĩ với bệnh nhân. Cậu lật nó lại, thanh stele vung nhanh qua cổ tay, vẽ lên chữ rune Bảo vệ, Tốc độ, Uyển chuyển và Tăng cường thính lực.
Trong hai tuần qua, đây là lần đầu tiên Emma đứng gần Jules thế này. Cô có phần choáng váng, một chút ngất ngây. Cậu cúi đầu xuống, đôi mắt tập trung vào nét vẽ, cô nhân cơ hội ngắm cậu thật kĩ vào.
Ngọn đèn trên đu quay chuyển màu hổ phách; phủ lên làn da rám nắng nơi cậu sắc hoàng kim. Những lọn tóc mượt mà rủ qua trán. Cô biết làn da bên khóe môi cậu rất mềm mại, đôi vai cậu đặt dưới tay cô rất săn chắc, mạnh mẽ, đầy khí lực. Hàng mi dài và dày, sẫm màu tới mức như vẽ bằng than chì; cô có cảm tưởng khi cậu chớp mắt, những hạt bụi đen sẽ rơi xuống má cậu.
Cậu thật đẹp. Cậu đã luôn đẹp như thế, nhưng cô lại nhận ra quá trễ. Giờ thì cô đứng đây, bàn tay buông thõng, cơ thể nhức nhối vì không thể chạm vào cậu. Cô không bao giờ được chạm vào cậu nữa.
Cậu hoàn thành mấy chữ rune, xoay cán thanh stele về phía cô. Cô lẳng lặng cầm lấy trong lúc cậu kéo cổ áo thun mặc dưới áo khoác xuống. Làn da nơi đó trắng hơn khuôn mặt và bàn tay rám nắng, chất chồng lớp lớp những dấu Ấn Ký trắng mờ đã qua sử dụng.
Cô phải bước lên một bước để vẽ Ấn Ký cho cậu. Chữ rune nở rộ dưới đầu mũi stele: Uyển chuyển, Dạ nhãn. Đầu cô cao tới ngang cằm cậu. Cô đang nhìn thẳng vào cổ họng cậu, cậu vừa nuốt nước bọt.
“Nói với mình đi,” cậu lên tiếng. “Nói với mình là anh ấy làm cậu hạnh phúc đi. Rằng anh Mark làm cậu hạnh phúc.”
Cô ngẩng phắt lên. Chữ rune đã vẽ xong; cậu lấy lại thanh stele từ bàn tay bất động nơi cô. Lần đầu tiên sau chuỗi ngày tưởng chừng vô tận, cậu nhìn thẳng vào cô, đôi mắt sẫm sắc xanh đen như màu trời đêm biển rộng trải khắp xung quanh chiếc cabin đang tới gần đỉnh vòng quay.
“Mình hạnh phúc, Jules ạ,” cô đáp. Một lời nói dối giữa hàng trăm lời nói dối thì có đáng là gì? Cô vốn không giỏi lừa người, nhưng cô đang dần học được cách. Khi mà sự an toàn của những người cô yêu thương phụ thuộc vào đấy, cô nhận ra mình có thể nói dối. “Thế này… thế này là khôn ngoan hơn, an toàn hơn cho cả hai chúng ta.”
Đôi môi dịu dàng nơi cậu đanh lại. “Nó không…”
Cô kêu thốt lên. Một cái khối đen ngoe nguẩy hiện lên phía sau cậu. Nó đen như dầu hắc, những cái xúc tu tỏa ra bám lấy cái nan hoa. Miệng nó há to, để lộ hàm răng tròn đều.
“Jules!” cô hét lên, nhảy vọt ra khỏi cabin, bám lấy thanh xà mỏng lắp giữa hai nan hoa. Đu đưa người, cô chém thanh Cortana vào con Teuthida ngay khi nó giật lùi lại. Con quỷ rú vang, máu bắn tung tóe; Emma kêu oái khi bị máu quỷ bắn trúng cổ, bỏng rát cả da.
Một con dao cắm phập xuống cái thân tròn trịa của con quỷ. Leo lên cái nan hoa, Emma nhìn xuống, trông thấy Julian đứng chênh vênh bên mép cabin, một con dao khác cầm sẵn trong tay. Cậu vung tay xuống, con dao bay vọt đi…
Và đập canh vào một chiếc cabin trống. Con Teuthida với tốc độ cực nhanh đã lẩn khỏi tầm mắt. Emma nghe thấy tiếng nó bò xuống dưới, trườn dọc theo những thanh kim loại đan cài trong vòng đu quay.
Emma tra thanh Cortana vào vỏ, bắt đầu leo dọc nan hoa xuống dưới. Ánh đèn led nổ bùng quanh cô trong sắc tím và vàng.
Máu quỷ dính trên tay cô đến trơn trượt. Lạ lùng làm sao khi quang cảnh nhìn từ vòng đu quay lại xinh đẹp vô cùng, biển, cát mở ra về mọi phía, chẳng khác chi cô đang đong đưa bên rìa thế giới.
Cô nếm được vị máu và muối trong miệng mình. Dưới kia, cô thấy Julian trèo ra ngoài cabin, bò dọc theo một cái nan dưới thấp. Cậu nhìn lên cô rồi chỉ tay; cô đưa mắt theo, trông thấy con Teuthida ngay gần trung tâm vòng quay.
Mấy cái xúc tu bung lên, đập mạnh vào tâm đu quay. Emma cảm nhận được sự rung động truyền qua xương cốt. Cô nghển cổ ra để xem nó đang làm gì, thế rồi lạnh hết cả người. Ngay trung tâm vòng quay là một con ốc khổng lồ cố định bánh xe vào thanh trụ. Con Teuthida đang cố giật con ốc ấy ra. Con quỷ mà giật được, cả cái đu quay sẽ rơi khỏi thanh trụ, lăn đi như một cái bánh xe ra tận ngoài cầu cảng.
Emma chẳng dám nuôi mộng những ai trên đu quay hay ở gần đó sẽ sống sót. Cái bánh xe sẽ đổ ập xuống, đè chết tất cả những ai bên dưới. Quỷ sống bằng sự tàn phá, bằng năng lượng của cái chết. Nó sẽ có một bữa tiệc ra trò.
Cái vòng quay rung lên. Con Teuthida quấn xúc tu vào con ốc sắt ngay tâm đu quay, vặn mạnh từng vòng. Emma tăng tốc leo nhanh, nhưng tâm vòng quay vẫn còn xa quá. Julian ở gần hơn, nhưng cô biết số vũ khí cậu mang theo: hai con dao đã ném hết và mấy con dao thiên thần, vốn không đủ dài để đâm tới con quỷ.
Cậu nhìn lên cô, đoạn nhoài người dọc theo thanh sắt, tay trái ôm chặt lấy nó, tay phải duỗi ra, lòng bàn tay ngửa lên.
Cô liền hiểu ngay mà không cần hỏi cậu đang nghĩ gì. Hít một hơi sâu, cô buông tay khỏi cái nan hoa.
Cô rơi xuống chỗ Julian, tay vươn về phía cậu. Hai bàn tay bắt lấy nhau, nắm chặt, cô nghe thấy cậu hít mạnh một tiếng, gánh lấy sức nặng của cả hai. Cô đu người xuống, tay trái nắm chặt lấy tay phải cậu, tay còn lại vung thanh Cortana ra. Đà rơi đẩy cô tới, hướng thẳng về tâm vòng quay.
Con quỷ Teuthida ngẩng đầu lên ngay lúc cô lao tới, và lần đầu tiên cô nhìn thấy được mắt nó: hình bầu dục, ánh lên lớp màng bảo vệ như gương soi. Chúng cơ hồ trợn to lên như mắt người trước lưỡi Cortana xả xuống, chém gọn một đường từ đỉnh đầu tới tận óc.
Mấy cái xúc tu quăng quật. Một cú co giật sau cùng, cơ thể nó dứt khỏi lưỡi kiếm, trượt dọc theo mấy cái nan hoa xeo xéo xuống dưới vòng quay. Đến cuối vòng, nó lăn mất dạng.
Xa xa dưới kia, Emma chừng như nghe được tiếng ùm. Cơ chẳng có thời gian để suy đoán. Tay Julian siết chặt lấy tay cô, cậu đang kéo cô lên. Cô tra thanh Cortana vào vỏ trong lúc cậu dần dần kéo cô lên cái nan đang nằm, cô lóng ngóng đổ gục xuống người cậu.
Cậu vẫn nắm chặt tay cô, thở dốc từng hồi. Ánh mắt cả hai giao nhau trong thoáng giây. Quanh họ, vòng quay vẫn quay, hạ thấp dần xuống đất. Emma có thể thấy đám đông người phàm trên bãi cát, làn nước lấp lánh dọc bờ biển, thậm chí cả mái đầu một đen một vàng của Mark và Cristina…
“Phối hợp tốt lắm,” Julian rồi cũng nói.
“Mình biết,” Emma đáp, đó là sự thật. Và đó cũng là điều tồi tệ nhất: rằng cậu nói đúng, rằng họ vẫn phối hợp cực kì ăn ý như parabatai. Như cộng sự. Như một cặp đôi chiến binh không bao giờ có thể chia lìa.
Mark và Cristina chờ họ dưới cầu tàu. Mark đã đá giày ra và đứng ngâm chân trong nước biển. Cristina gấp con dao bướm lại. Dưới chân chị là một vệt cát khô nhầy nhụa.
“Hai người có thấy con quỷ mực rơi trên vòng quay Ferris xuống không?” Emma lên tiếng hỏi khi cùng Julian tới gần.
Cristina gật đầu. “Nó rơi xuống vũng cạn. Chưa chết hẳn, vậy nên Mark lôi nó lên bờ, sau đó bọn này thanh toán nốt.” Chị đá chỗ cát trước mặt. “Kinh tởm vô cùng, Mark bị bắn chất nhầy lên người.”
“Em dính máu quỷ đây này,” Emma nhìn xuống bộ đồ đi săn lấm bẩn. “Thật là một con quỷ gớm ghiếc.”
“Em vẫn xinh đẹp vô cùng,” Mark nói với nụ cười lịch thiệp.
Emma mỉm cười đáp lại, hết sức có thể. Cô vô cùng biết ơn Mark đã đóng trọn vai trò mà không một lời ca thán, dù rằng anh hẳn phải thắc mắc vô cùng. Theo ý Cristina thì Mark cũng đạt được điều gì đó qua trò đóng giả này, nhưng là gì thì Emma chịu. Mark vốn đâu có thích nói dối. Anh đã sống quá lâu cùng thần tiên, những kẻ không có khả năng nói lời dối trá, tới mức nói dối khiến anh ngượng miệng.
Julian lùi lại nghe điện thoại, giọng rầm rì trầm thấp. Mark đá tung nước lên, đoạn xỏ thẳng đôi chân ướt vào ủng. Cả anh lẫn Cristina đều không ngụy trang hoàn toàn, Emma bắt được ánh mắt của một số người phàm đi ngang qua trong lúc anh quay về chỗ cô. Vì anh cao ráo, đẹp trai, vì anh có đôi mắt sáng ngời hơn cả ánh đèn trên vòng quay Ferris. Vì anh có một bên mắt xanh, một bên mắt vàng.
Và vì có gì đó ở anh, cái nét gì đó lạ lùng khó định nghĩa, cái nét hoang dã của Xứ Tiên luôn khiến Emma liên tưởng đến những khoảng không bao la không giới hạn, đến tự do không luật lệ. Tôi là một kẻ lạc lõng, đôi mắt anh như muốn nói. Tìm tôi đi.
Đến trước Emma, anh đưa tay vén lại tóc cho cô. Một cơn sóng xúc cảm trỗi khắp người cô, buồn vui lẫn lộn, khao khát điều gì đó không thể gọi tên.
“Là cô Diana,” Julian nói. Dù không nhìn lại, Emma vẫn hình dung được sắc mặt cậu lúc này. Nặng nề, trầm tư, xét đoán tình huống. “Jace và Clary mang thông báo của Quan Chấp Chính đến. Họ đang họp ở Học Viện và muốn chúng ta về ngay.”