K
ẹt xe trầm trọng khiến Julian và Kit mất cả tiếng để đi từ Malibu tới Pasadena. Tới khi tìm được chỗ đậu xe thì đầu Julian đã đau âm ỉ, cái việc Kit gần như chẳng nói tiếng nào suốt cả quãng đường chỉ càng khiến cậu nhức óc hơn.
Mặt trời đã lặn từ lâu, song bầu trời phía tây vẫn chỉ mới phảng phất vài nét cọ đen đỏ. Gió thổi đến từ hướng đông, có nghĩa dù đang ở ngay trung tâm thành phố, ta vẫn ngửi được mùi sa mạc: sỏi cát, xương rồng, chó sói, xô thơm cháy.
Julian vừa tắt máy là Kit nhảy xuống xe liền, như thể không thể ngồi gần cậu thêm giây nào nữa. Lúc lái xe ngang qua ngôi nhà cũ của Rook, Kit hỏi nó có thể ghé qua lấy vài bộ quần áo được không. Julian nói không, nơi đó không an toàn, nhất là về đêm. Kit bày ra vẻ mặt như thể Julian vừa đâm sau lưng nó một nhát.
Julian không còn lạ gì thái độ năn nỉ, hờn dỗi, hay chống đối của kẻ ghét mình. Cậu có những bốn đứa em. Nhưng cái quắc mắt của Kit vẫn mang nét độc đáo lạ. Nó thật sự có ý đó.
Và giờ, trong lúc Julian đang khóa cửa xe, Kit hục hặc lên tiếng. “Nhìn anh cứ như một Thợ Săn Bóng Tối.”
Julian nhìn lại mình. Quần bò, ủng, áo khoác cổ điển vốn là quà của Emma. Vì chữ rune che mờ không có mấy tác dụng ở Phiên Chợ, cậu đành phải xoay xở bằng cách kéo tay áo xuống che chữ rune Khai Nhãn và lật cổ áo lên để giấu mấy nét Ấn Ký ló qua cổ áo.
“Sao?” Cậu hỏi. “Đâu có nhìn thấy Ấn Ký nào.”
“Đâu cần,” Kit làm giọng ngán ngẩm. “Nhìn anh như một tên cớm. Mấy người ai cũng giống cớm.”
Cơn đau đầu nơi Julian tăng lên một bậc. “Và lời khuyên của em là…?”
“Để tôi đi một mình,” Kit nói. “Họ quen tôi, tin tôi. Họ sẽ trả lời câu hỏi của tôi và bán bất cứ thứ gì tôi cần.” Nó chìa tay ra. “Đương nhiên tôi cần ít tiền.”
Julian nhìn nó không tin được. “Đừng nói em nghĩ trò đó có tác dụng nhé?”
Kit so vai, rụt tay lại. “Ai biết được.”
Julian rảo bước về phía con hẻm dẫn vào Phiên Chợ Bóng Tối. Cậu chỉ mới đến đây một lần, cũng nhiều năm rồi, nhưng vẫn còn nhớ rõ. Phiên Chợ Bóng Tối hình thành sau Hiệp ước Hòa Bình Lạnh, một cách để Cư dân Thế Giới Ngầm tránh đi ánh đèn của điều Luật mới, đặng làm ăn. “Vậy để anh đoán nhé. Em tính xin tiền anh, giả vờ là mình đi vào Phiên Chợ Bóng Tối, rồi sau đó bắt xe buýt chuồn khỏi thành phố?”
“Thật ra kế hoạch của tôi là lấy tiền của anh, giả vờ đi vào Phiên Chợ Bóng Tối rồi bắt tàu điện,” Kit nói. “Ngày nay thành phố có tàu điện liên tỉnh rồi. Bước cải tiến lớn đấy. Anh nên cập nhật mấy thông tin đó đi.”
Julian thoáng nghĩ Jace sẽ làm gì nếu cậu bóp cổ Kit. Cậu vừa tính nói ra thắc mắc ấy thì đã đến cuối hẻm, nơi lớp không khí khẽ gợn ánh lung linh. Cậu nắm lấy tay Kit rồi cùng bước qua đó.
Họ bước vào ngay lòng chợ. Ánh sáng bùng lên xung quanh, xóa nhòa ánh sao. Đến cả vầng trăng cũng chỉ còn là một chiếc vỏ mờ nhạt.
Julian vẫn nắm chặt cánh tay Kit, nhưng Kit không tỏ ý bỏ chạy. Nó đưa mắt nhìn quanh, ánh mắt bâng khuâng khiến nó như một đứa trẻ. Đôi khi Julian quên mất Kit chỉ bằng tuổi Ty. Đôi mắt xanh lam trong veo như bầu trời, không có vết xanh lục đặc trưng của nhà Blackthorn quét khắp Phiên Chợ, thu vào mọi thứ.
Hàng dài các quầy hàng thắp sáng bằng những ngọn đuốc bập bùng sắc vàng, lam và lục. Những giàn hoa đậm mùi, nồng nàn hơn cả trúc đào hay lan dạ hương nở rộ bên hông các gian hàng. Những thần tiên xinh đẹp, nam có nữ có, nhảy múa theo tiếng sáo. Đâu đâu cũng vọng lên tiếng chào hàng quẹo lựa, quẹo lựa. Vũ khí bày la liệt, rồi cả nữ trang, những bình thủy dược, thuốc bột.
“Lối này,” Kit nói, giật tay lại.
Julian đi theo. Cậu cảm nhận được ánh mắt đặt lên mình, thầm hỏi phải chăng Kit đã nói đúng. Nhìn cậu như một tên cớm, phiên bản siêu nhiên. Cậu là Thợ Săn Bóng Tối, luôn luôn là Thợ Săn Bóng Tối. Ta không thể giũ bỏ bản chất của mình.
Họ ra đến rìa khu chợ, nơi ánh sáng không còn quá rực rỡ. Có thể nhìn thấy những đường sơn trắng trên lớp hắc ín, cho biết nơi đây là bãi giữ xe vào ban ngày.
Kit bước tới quầy hàng gần nhất, nơi một mụ tiên ngồi trước tấm bảng đề bói toán và tình dược. Bà ta ngẩng nhìn lên, nở nụ cười tỏa nắng với cậu nhóc.
“Kit!” Mụ tiên kêu lên. Bà ta mặc một chiếc váy trắng rách rưới, nổi bật làn da xanh biển, đôi tai nhọn ló qua mái tóc tím. Người đeo lủng lẳng dây vàng dây bạc. Bà ta trừng mắt với Julian. “Tên này làm gì ở đây?”
“Nephilim này không hại gì ai đâu Hyacinth,” Kit nói. “Tôi bảo đảm cho anh ta. Anh ta chỉ muốn mua vài thứ thôi.”
“Ai chẳng thế,” bà ta lầm bầm, rồi ném cho Julian cái nhìn lả lơi. “Em xinh đấy. Mắt em có màu gần giống mắt chị này.”
Julian bước tới gần cái quầy. Vào những lúc thế này cậu thật ước có khả năng tán tỉnh. Cậu dở tệ. Đời cậu chưa bao giờ có một tia ham muốn với bất kì cô gái nào ngoài Emma, vậy nên cậu chẳng bao giờ để tâm học hỏi.
“Tôi đang tìm một liều thuốc chữa bệnh điên cho Thợ Săn Bóng Tối,” cậu nói. “Hoặc chí ít là tạm ngưng triệu chứng.”
“Điên kiểu gì?”
“Ông ấy bị Triều đình tra tấn,” Julian thẳng thừng đáp. “Tâm trí ông ấy trở nên cuồng loạn bởi ảo giác và những thứ độc dược họ bắt ông ấy uống.”
“Một Thợ Săn Bóng Tối mắc bệnh điên thần tiên? Ôi chao,” bà ta nói, giọng điệu nghi ngờ. Julian bắt đầu kể lại bệnh trạng của chú Arthur mà không nhắc đến tên ông. Việc những giây phút tỉnh táo đến rồi đi. Việc tâm trạng ông nhiều lúc trở nên ảm đạm hay tàn nhẫn. Rằng ông thảng hoặc mới nhận ra người nhà. Cậu miêu tả thứ thuốc Malcolm đã điều chế cho Arthur hồi họ còn tin tưởng hắn, cho rằng hắn là bạn.
Tất nhiên cậu chẳng nhắc đến tên Malcolm.
Đợi cậu kể xong, mụ tiên lắc đầu. “Chú em nên hỏi pháp sư ấy,” bà ta nói. “Họ làm việc với Thợ Săn Bóng Tối. Ta thì không. Ta không muốn vấp chân phải Triều đình hay Clave.”
“Người khác không cần phải biết đâu,” Julian nói. “Tôi sẽ trả bà nhiều tiền.”
“Bé con ơi.” Giọng bà ta lộ chút thương cảm. “Ngươi nghĩ mình có thể giữ được bí mật với tất cả Cư dân Thế Giới Ngầm sao? Ngươi nghĩ Phiên Chợ chưa xáo xào vì tin Vệ Thần bị lật đổ và Johnny Rook mất mạng sao? Rằng hiện tại chẳng còn Đại Pháp Sư nào nữa? Việc Anselm Nightshade mất tích, dù rằng lão là một gã tệ hại…” Bà ta lắc đầu. “Lẽ ra ngươi không nên đến đây. Ở đây không an toàn cho hai ngươi đâu.”
Kit ngỡ ngàng. “Ý bà là anh ta,” cậu hất đầu sang Julian. “Không an toàn cho anh ta.”
“Cả ngươi nữa nhóc con ạ,” giọng nói trầm đục vang lên sau lưng họ.
Cả hai cùng quay lại. Một người đàn ông thấp lùn đứng trước mặt họ. Làn da gã ta nhợt nhạt đến bệnh hoạn. Người mặc âu phục ba mảnh vải len, hẳn là nóng chết được trong khí trời ấm áp này. Râu tóc gã sẫm màu, cắt sát gọn gàng.
“Barnabas,” Kit chớp mắt. Julian để ý thấy Hyacinth khẽ thu người sau quầy hàng. Đám đông nhỏ dần tụ lại sau lưng Barnabas.
Người đàn ông thấp lùn bước tới. “Barnabas Hale,” gã chìa tay ra. Khoảnh khắc mấy ngón tay gã nắm lấy tay Julian, cậu liền thấy mọi thớ cơ trong mình căng cứng. Nếu không nhờ có Ty say mê thằn lằn và rắn, nếu không có việc Julian mấy bận đem mớ bò sát ra khỏi Học Viện để thả ngược vào bãi cỏ, cậu nhất định đã rụt tay lại rồi.
Không phải là da Barnabas nhợt nhạt. Nó là một lớp những tấm vảy trắng đục xếp chồng lên nhau. Mắt gã màu vàng, thoáng nét thích thú như đang chờ Julian giật tay lại. Lớp vảy chạm vào tay Julian tựa như những viên sỏi lạnh nhẵn nhụi. Không nhớp nháp, nhưng mang đến cảm giác đúng ra phải thế. Julian siết tay gã thêm vài giây nữa rồi buông ra.
“Ông là pháp sư,” cậu nói.
“Chưa bao giờ tự nhận là loài nào khác,” Barnabas nói. “Còn ngươi là Thợ Săn Bóng Tối.”
Julian thở dài, xắn tay áo về đúng chỗ. “Xem ra không cần phải che giấu nữa rồi.”
“Phải đấy,” Barnabas nói. “Đa số bọn ta chỉ cần nhìn một cái là nhận ra Nephilim ngay. Vả lại, cậu trẻ nhà Rook đây đang là chủ đề chính của chợ mà.” Gã xoáy đôi mắt xẻ dọc sang Kit. “Xin chia buồn về bố nhóc.”
Kit nhận lời chia buồn bằng cái gật đầu khẽ. “Barnabas sở hữu Phiên Chợ Bóng Tối này. Chính xác là sở hữu khu đất dựng chợ, ông ấy thu tiền thuê quầy.”
“Đúng vậy,” Barnabas nói. “Thế nên hai ngươi phải hiểu rằng ta hoàn toàn nghiêm túc khi bảo hai ngươi rời khỏi đây.”
“Bọn tôi không gây rắc rối gì đâu,” Julian nói. “Bọn tôi có công việc.”
“Nephilim không có ‘công việc’ ở Phiên Chợ Bóng Tối,” Barnabas nói.
“Tôi nghĩ là có đấy,” Julian nói. “Một người bạn của tôi đã mua vài mũi tên ở đây cách đây không lâu. Hóa ra chúng đã bị tẩm độc. Có nghe qua hay chưa?”
Barnabas chĩa ngón tay to bè vào cậu. “Ta nói có sai đâu. Các ngươi đâu thể tắt đài được cho dù có muốn. Cái tư tưởng rằng các ngươi có quyền cật vấn và làm luật ấy.”
“Họ đề ra luật thật mà,” Kit nói.
“Kit à,” Julian khẽ nói. “Đừng phá nữa.”
“Một người bạn của ta đã biến mất vài ngày trước,” Barnabas nói. “Malcolm Fade. Có nghe qua hay chưa?”
Tiếng xì xào lan khắp đám đông sau lưng gã. Tay Julian hết nắm rồi lại mở. Nếu đi một mình thì cậu chẳng phải lo. Cậu thừa sức thoát khỏi đám đông này và trở về xe. Nhưng phải bảo vệ thêm Kit thì mệt đây.
“Thấy chưa?” Barnabas căn vặn. “Với mỗi bí mật các ngươi tưởng là mình biết, bọn ta lại biết một bí mật khác. Ta biết chuyện gì đã xảy ra cho Malcolm.”
“Vậy ông có biết hắn đã làm gì không?” Julian hỏi, cẩn thận kiềm nén giọng mình. Malcolm là một tên sát nhân, một tên sát nhân hàng loạt. Hắn giết Cư dân Thế Giới Ngầm lẫn con người. Người ta đâu thể đổ lỗi cho nhà Blackthorn vì cái chết của hắn. “Ông có biết tại sao hắn lại chết không?”
“Ta chỉ thấy thêm một Cư dân Thế Giới Ngầm chết dưới tay Nephilim. Còn Anselm Nightshade nữa, cũng bị cầm tù vì chút xíu phép thuật. Tiếp theo là gì đây?” Gã phun toẹt xuống chân. “Từng có thời ta chấp nhận được Thợ Săn Bóng Tối lảng vảng trong chợ. Chấp nhận lấy tiền của chúng. Nhưng thời đó qua rồi.” Gã pháp sư đảo mắt sang Kit. “Đi đi,” gã nói. “Đem tên bạn Nephilim của ngươi theo.”
“Anh ta không phải bạn tôi,” Kit nói. “Tôi không giống họ, tôi giống các người…”
Barnabas lắc đầu. Hyacinth chăm chú theo dõi, đôi tay xanh chống dưới cằm, hai mắt mở to.
“Một thời đại đen tối đang đến với Thợ Săn Bóng Tối,” Barnabas nói. “Một thời đại khủng khiếp. Quyền năng của chúng sẽ bị nghiền nát, sức mạnh của chúng sẽ bị chôn vùi, và máu chúng sẽ chảy tràn như nước đổ qua những nhánh sông khắp toàn thế giới.”
“Đủ rồi,” Julian đanh giọng. “Đừng có dọa thằng bé.”
“Các ngươi sẽ phải trả giá vì Hiệp ước Hòa Bình Lạnh,” gã pháp sư nói. “Bóng tối đang đến, và lời khuyên chân thành cho ngươi đây Christopher Herondale, hãy tránh xa Học Viện và lũ Thợ Săn Bóng Tối. Lẩn trốn như bố ngươi, ông ngươi ấy. Chỉ như thế ngươi mới được an toàn.”
“Sao ông biết tôi là ai?” Kit hỏi lại. “Sao ông biết tên thật của tôi?”
Đó là lần đầu tiên Julian nghe cậu nhóc thừa nhận Herondale là tên thật của mình.
“Mọi người đều đã biết,” Barnabas nói. “Phiên Chợ mấy ngày nay chỉ bàn tán mỗi chuyện đó. Ngươi không thấy ánh mắt mọi người lúc mới đến sao?”
Vậy là họ không có nhìn Julian. Hay chí ít là không chỉ nhìn mỗi Julian. Nhưng cũng chẳng an ủi được gì khi thấy vẻ mặt Kit bây giờ.
“Tôi tưởng mình có thể quay về đây,” Kit nói. “Tiếp quản quầy của bố. Buôn bán trong Phiên Chợ.”
Cái lưỡi xẻ thè nhanh qua môi Barnabas. “Sinh ra là Thợ Săn Bóng Tối, cả đời là Thợ Săn Bóng Tối,” gã nói. “Ngươi không gột rửa được vết nhơ trong dòng máu mình đâu. Nói lần cuối đây nhóc, cút khỏi Phiên Chợ ngay. Đừng bao giờ trở lại.”
Kit lùi lại, dáo dác nhìn quanh, và lần đầu tiên thằng bé nhận ra được những gương mặt hướng về phía mình đều một dạng vô cảm xa cách, một số còn tỏ vẻ tò mò háo hức.
“Kit à…” Julian lên tiếng, vươn tay ra.
Nhưng Kit đã bỏ chạy.
Julian chỉ mất vài giây đã đuổi kịp. Kit không thật sự có ý bỏ chạy; cậu nhóc chỉ xô bừa đám đông lao lới, không phương hướng. Nó dừng lại trước một quầy hàng lớn đang bị dỡ bỏ giữa chừng.
Cái quầy chỉ còn lại phần khung sườn gỗ. Nhìn cứ như đã bị ai đó xé toạc bằng tay. Những mảnh gỗ vụn rải khắp đất đen. Một tấm bảng đong đưa sắp rớt trên đầu, trên ghi dòng chữ MỘT PHẦN CỦA THẾ GIỚI SIÊU NHIÊN? BẠN KHÔNG HỀ ĐƠN ĐỘC. HÃY THAM DỰ VÒNG XỔ SỐ MAY MẮN CÙNG MÔN ĐỒ CỦA VỆ THẦN! HÃY ĐỂ VẬN MAY ĐẾN VỚI BẠN!
“Vệ Thần,” Kit nói. “Có phải là Malcolm Fade không?”
Julian gật đầu.
“Hắn là kẻ lôi kéo bố tôi vào toàn bộ sự vụ với đám Môn Đồ và Rạp hát Đêm Huyền,” Kit nói bằng một giọng trầm ngâm. “Tại Malcolm mà bố tôi chết.”
Julian không nói gì. Johnny Rook tuy không phải là ông bố số một, nhưng vẫn là bố Kit. Ta chỉ có một người bố trên đời. Và Kit nói không sai.
Kit bước tới, thoi một đấm vào tấm bảng. Nó rơi ầm xuống đất. Trước khi Kit nhăn mặt rụt tay lại, Julian đã thoáng thấy con người Thợ Săn Bóng Tối trong cậu nhóc. Nếu tên pháp sư chưa chết, Julian hoàn toàn tin rằng đích thân Kit sẽ giết chết Malcolm.
Đám đông nho nhỏ theo chân từ quầy của Hyacinth trợn mắt nhìn vào. Julian đặt tay lên lưng Kit, Kit không gạt ra.
“Đi thôi,” Julian nói.
Emma tắm rửa thật kĩ. Hạn chế của việc làm Thợ Săn Bóng Tối mà để tóc dài là ta chẳng bao giờ biết được máu quỷ có dính lên đó trong lúc chiến đấu hay không. Có lần gáy cô bị chuyển màu xanh lá suốt cả tuần lễ.
Lúc trở ra phòng ngủ, mặc trên người quần thun và áo ba lỗ, tay vò tóc cho khô bằng một chiếc khăn xanh lá, cô phát hiện Mark đang nằm co người cuối giường, đọc quyển Alice Ở Xứ Sở Thần Tiên.
Anh mặc chiếc quần ngủ cotton Emma mua với giá ba đô la ở quầy hàng ven cao tốc Bờ Biển Thái Bình Dương. Anh thích cái quần ấy vì nó khá giống loại quần mỏng nhẹ anh mặc hồi còn ở Xứ Tiên. Nếu anh có phiền vì cái hình thêu cỏ ba lá và dòng chữ CHÚC MAY MẮN thì cũng không để lộ. Thấy Emma bước vào, anh ngồi dậy, gãi đầu mỉm cười với cô.
Mark có nụ cười khiến tim người tan chảy. Nó bừng sáng cả gương mặt anh, thắp lửa cho đôi mắt bên xanh bên vàng.
“Đích thị là một buổi tối kì lạ,” anh nói.
“Đừng có đích thị với em.” Cô thả phịch xuống nệm cạnh anh. Anh không ngủ trên giường, song vẫn thoải mái lấy nệm làm ghế sô pha. Anh đặt sách xuống, dựa lưng vào chân giường. “Anh biết luật trong phòng em rồi đó. Không được nói đích thị, hay ‘ấy mà,’ ‘thiên hỡi,’ ‘khốn thay.’”
“Thế còn ‘hảo’?”
“Hình phạt dành cho ‘hảo’ nặng lắm nhé,” cô nói. “Anh sẽ phải khỏa thân chạy ra biển trước mặt các Quân Trưởng.”
Mark lộ vẻ bối rối. “Rồi sao nữa?”
Cô thở dài. “Xin lỗi em quên. Với hầu hết mọi người khỏa thân chạy trước mặt người lạ là vấn đề rất lớn. Nhớ lời em đấy.”
“Vậy sao? Em chưa bao giờ tắm biển mà không mặc đồ à?”
“Đó là câu hỏi khác rồi, nhưng không, chưa từng.” Cô dựa người cạnh anh.
“Hãy thử một ngày nào đó,” anh nói. “Tất cả chúng ta.”
“Em không hình dung nổi Diego xé toạc quần áo rồi nhảy ùm xuống nước trước mặt chúng ta đâu. Họa chăng là trước mặt chị Cristina ấy. Có lẽ.”
Mark leo xuống giường, ngồi lên đống chăn nệm cô bày sẵn dưới sàn cho anh. “Nghi lắm đấy. Anh dám cá cậu ta sẽ để nguyên quần áo mà bơi. Nếu không thì cậu ta sẽ phải gỡ cái cài áo Quân Trưởng ra còn gì.”
Cô phá lên cười, anh cũng mỉm cười đáp lại, song lộ vẻ mệt mỏi. Cô đồng cảm với anh. Không phải những hoạt động thường ngày của Thợ Săn Bóng Tối làm cô kiệt sức. Là sự giả vờ. Có lẽ cũng đúng thôi khi cô và Mark chỉ có thể thả lỏng với nhau lúc về đêm, vì khi ấy chẳng còn ai để vờ vĩnh nữa.
Đây là phút giây duy nhất cô được thư giãn kể từ ngày Jem cho biết về lời nguyền parabatai, rằng những người parabatai yêu nhau sẽ hóa điên, hủy hoại bản thân lẫn những người họ yêu thương.
Cô đã biết ngay lập tức: cô không thể để việc đó xảy ra. Với Julian. Với gia đình cậu, những người cô vô cùng yêu quý. Cô không thể bảo mình thôi yêu Julian được. Việc đó là bất khả thi. Vậy nên cô phải làm Julian thôi yêu cô.
Chính Julian đã trao cho cô chiếc chìa khóa chỉ vài ngày trước đó. Những lời lẽ thì thầm bên da thịt cô trong một thoáng yếu lòng: cậu ghen với Mark. Ghen vì Mark có thể dễ dàng nói chuyện với cô, tán tỉnh cô, trong khi Julian luôn phải giấu nhẹm cảm xúc.
Mark dựa lưng vào chân giường cạnh cô, đôi mắt khép hờ. Dưới mí mắt, đôi đồng tử là hai mảnh trăng khuyết sắc màu, hàng mi vàng hơn mái tóc một sắc. Cô nhớ đã gọi anh đến phòng mình. Em cần anh giả bộ rằng chúng ta đang hẹn hò. Rằng chúng ta đang yêu nhau.
Anh đã chìa tay ra cho cô, và cô đã thấy bão giông trong đôi mắt ấy. Cái nét hoang dã nhắc cô nhớ rằng Xứ Tiên không chỉ có cỏ xanh và ca múa. Nó hằn đầy vết chai sần hoang dã, máu và nước mắt, ánh chớp xẻ đôi bầu trời như một lưỡi dao.
Sao phải nói dối? Anh đã hỏi.
Trong thoáng giây cô tưởng anh hỏi rằng Sao em lại đi nói dối? Nhưng không phải. Anh muốn hỏi, Sao phải nói dối khi ta có thể biến nó thành sự thật, việc giữa hai ta ấy?
Cô đứng trước mặt anh, nhức nhối đến tận đáy tâm hồn, nhức nhối ở tất cả những nơi cô đã dứt bỏ Julian như dứt đi một phần xương thịt.
Người ta nói rằng nhiều kẻ gia nhập Hội Săn Hoang là vì đã phải hứng chịu một nỗi mất mát quá lớn, họ muốn được thét gào tiếng lòng vào trời xanh hơn là phải vùi chôn trong câm lặng suốt quãng đời xám xịt. Cô vẫn nhớ lướt giữa thinh không cùng Mark, tay anh ôm lấy thắt lưng cô: cô đã thả vào gió tiếng hét phấn khích, sung sướng được chạm vào tự do của bầu trời, nơi không còn nỗi đau, không còn lo lắng, chỉ có lãng quên.
Và giờ Mark đứng đây, đẹp cái nét đẹp của bầu trời đêm, trao cho cô tự do với bàn tay rộng mở. Nếu mình có thể yêu Mark thì sao? Cô thầm nghĩ. Nếu mình có thể biến lời nói dối này thành sự thật thì sao?
Vậy thì sẽ không còn dối trá. Nếu có thể yêu Mark, mọi nguy hiểm sẽ chấm dứt. Julian sẽ được an toàn.
Cô đã gật đầu. Đặt tay lên tay Mark.
Cô hồi tưởng lại cái đêm trong phòng mình ấy, cái nhìn nơi anh khi hỏi Sao phải nói dối? Cô nhớ bàn tay ấm áp nắm lấy cổ tay mình. Họ gần như chới với khi vội vã sà vào lòng nhau, một cái va chạm lóng ngóng, tựa như điệu nhảy lỡ nhịp. Cô đã nắm lấy vai Mark, rồi rướn người hôn anh.
Cơ thể anh gầy guộc vì Hội Săn, không được săn chắc như Julian, xương đòn, xương vai hằn rõ dưới tay cô. Nhưng làn da nơi cổ áo cô luồn tay vào lại mịn màng khó tả. Cô ve vuốt gáy anh. Môi anh áp vào môi cô thật nóng ấm.
Anh có vị ngọt đắng, nóng rực như cơn sốt. Cô theo bản năng nhích đến gần hơn; cô run rẩy, nhưng chẳng nhận ra. Miệng anh hé mở, anh lấy môi mình khám phá môi cô, truyền khắp người cô từng đợt sóng hừng hực. Anh hôn lấy khóe môi cô, lướt đầu môi qua hàm, qua má.
Anh lùi lại. “Em,” anh ngỡ ngàng. “Em có vị muối.”
Cô rụt tay phải đang vòng qua cổ anh lại. Áp lên mặt. Ướt. Cô đang khóc.
Anh cau mày. “Anh không hiểu. Em muốn mọi người tin rằng chúng ta là một đôi, vậy mà em lại khóc như thể anh vừa tổn thương em. Anh đã tổn thương em sao? Julian sẽ không bao giờ tha thứ cho anh mất.”
Nghe đến tên Julian khiến cô cơ hồ buông xuôi tất cả. Cô gục người xuống chân giường, ôm lấy đầu gối. “Julian có quá nhiều thứ phải lo rồi,” cô nói. “Em không thể để cậu ấy bận tâm thêm về em nữa. Về mối quan hệ của em với Cameron.”
Lẳng lặng, cô xin lỗi Cameron Ashdown, người thật ra chẳng có lỗi gì ở đây.
“Mối quan hệ đó không êm đẹp gì,” cô nói. “Không lành mạnh. Nhưng mỗi lần chấm dứt, em lại cứ quay về lối cũ. Em phải phá bỏ quy luật đó. Julian phải thôi lo nghĩ về nó. Đã có quá nhiều chuyện… Clave sẽ điều tra hệ quả cái chết của Malcolm, việc chúng ta dính dáng đến Triều đình…”
“Nào,” anh nói, ngồi xuống cạnh cô. “Anh hiểu mà.”
Anh đưa tay kéo tấm chăn trên giường xuống. Emma ngạc nhiên nhìn anh quàng nó quanh vai cả hai.
Cô chợt nghĩ đến Hội Săn Hoang, anh nhất định đã ở cạnh Kieran, co người trong nơi trú ẩn, quấn áo choàng quanh người để tránh đi cái lạnh.
Anh vuốt dọc má cô, một cử chỉ bạn bè. Sự cuồng nhiệt trong cái hôn đã mất. Emma mừng thầm. Thật sai trái khi có cảm giác đó với bất kì ai khác ngoài Julian, dẫu cho chỉ là một thoáng mờ nhạt. “Những kẻ không phải thần tiên tìm thấy sự yên bình trong lời nói dối,” anh bảo. “Anh không có quyền phán xét. Anh sẽ diễn vở kịch này cùng Emma. Anh không bỏ rơi em đâu.”
Cô dựa đầu vào vai anh. Lâng lâng vì nhẹ nhõm.
“Nhưng em phải nói với Cristina,” anh nói thêm. “Cô ấy là bạn thân của em; em không thể giấu từng này chuyện với cô ấy.”
Emma gật đầu. Cô vốn đã định kể tất cả cho Cristina. Cristina là người duy nhất biết tình cảm cô dành cho Julian, chị sẽ không tin lấy một giây rằng Emma bỗng dưng lại chuyển hướng sang Mark. Emma kiểu gì cũng phải kể với chị nếu muốn chuyện này trót lọt, cô không khỏi mừng thầm.
“Em hoàn toàn tin chị ấy,” cô nói. “Còn giờ… kể cho em về Hội Săn Hoang đi.”
Và anh bắt đầu kể, vẽ nên câu chuyện về cuộc sống trên mây và những vùng đất lãng quên không dấu chân người. Những thành phố hoang nằm dưới chân núi bằng đồng. Tàn tích của Oradour-sur-Glane, nơi anh và Kieran đã ngủ trong một ụ rơm cháy sém. Cát và hương biển nơi đảo Cyprus, một làng du lịch bỏ hoang, cây cối mọc xuyên qua nền móng những khách sạn bề thế.
Emma dần dần chìm vào giấc ngủ, trong vòng tay Mark với câu chuyện thì thầm. Cô không khỏi ngạc nhiên khi anh trở lại đêm hôm sau. Như vậy người ta sẽ tin vào mối quan hệ của họ hơn, anh bảo, nhưng cô đọc được trong mắt anh rằng anh thích có bạn, cũng như cô.
Vậy là họ ngủ với nhau hằng đêm kể từ đó, nằm dài trên mớ chăn nệm trải dưới sàn, kể chuyện cho nhau nghe. Emma kể về Cuộc Chiến Hắc Ám, về việc cảm thấy lạc lõng khi giờ đây không còn phải truy tìm hung thủ giết bố mẹ, rồi Mark kể về chị và các em mình, về cái lần anh tranh cãi với Ty, anh sợ mình đã khiến đứa em nghĩ rằng anh không muốn bị người ta nhờ vả, như thể anh sẽ rời đi bất cứ lúc nào.
“Cứ nói với thằng bé là anh có thể ra đi, nhưng anh sẽ luôn quay về với nó,” Emma nói. “Nói với nó rằng anh xin lỗi nếu có lỡ làm nó hiểu sai.”
Anh chỉ gật đầu. Anh không cho cô biết đã làm theo lời khuyên ấy chưa, nhưng cô thì đã nghe lời anh và kể cho Cristina mọi chuyện. Thật là một sự giải phóng khủng khiếp, cô đã khóc trong tay Cristina cả mấy tiếng đồng hồ. Cô thậm chí còn được Julian cho phép kể với Cristina tình trạng sơ lược của Arthur, vừa đủ để chị hiểu Julian quan trọng với Học Viện, với gia đình cậu như thế nào. Cô đã phải hỏi ý Julian trước; một cuộc nói chuyện cực kì sượng sùng, nhưng cậu gần như nhẹ nhõm khi có thêm người hiểu chuyện.
Cô còn muốn hỏi cậu có tính kể với bọn trẻ chuyện Arthur không. Nhưng không thể. Bức tường đã dựng lên quanh Julian, kiên cố như hàng rào gai vây quanh lâu đài công chúa ngủ trong rừng. Cô tự hỏi Mark có phát hiện không, có ai trong nhà phát hiện không, hay rằng chỉ có mỗi cô là thấy được.
Cô nhìn lại Mark dưới sàn. Anh đã say ngủ, má gối lên tay. Cô trượt xuống giường, xếp lại chăn gối rồi co người nằm cạnh anh.
Mark ngủ ngon hơn khi ở cạnh cô, anh bảo thế, và cô tin lời. Anh cũng đã ăn uống nhiều hơn, cơ bắp dần săn chắc, vết sẹo nhạt màu, gương mặt trở nên tươi tắn. Cô thấy mừng. Tuy rằng thâm tâm cô đang chết dần từng ngày, nhưng đó là vấn đề của cô, cô chịu được. Không ai nợ cô sự giúp đỡ, và ở chừng mực nào đó, cô sẵn sàng đón nhận cơn đau này. Bởi thế có nghĩa Julian không phải chịu giày vò một mình, dẫu cho cậu có nghĩ vậy đi nữa.
Và nếu cô có thể giúp Mark, vậy đó cũng là thành tựu rồi chứ. Cô thương anh, thương anh như cái cách lẽ ra cô nên thương Julian. Chú Arthur sẽ gọi đó là hữu ái, tình cảm bạn bè. Và mặc dù không thể nào cho Julian biết được cô và Mark đang giúp đỡ lẫn nhau, đấy chí ít vẫn là điều cô có thể làm cho cậu: giúp anh trai cậu vui vẻ hơn.
Dẫu cho cậu không bao giờ biết được.
Tiếng gõ cửa kéo cô khỏi cơn mơ. Cô giật mình nhổm dậy; gian phòng tờ mờ, song cô vẫn nhìn ra mái tóc đỏ rực, Clary tò mò ghé mặt qua khe cửa. “Emma ơi? Em còn thức không? Em ở dưới sàn đó à?”
Emma nhìn xuống Mark. Anh vẫn say ngủ, cuộn sâu người trong chăn, khuất tầm mắt Clary. Cô giơ hai ngón tay lên với Clary, chị gật đầu, đóng cửa lại. Hai phút sau, Emma bước ra hành lang, kéo khóa áo khoác thun lên.
“Có chỗ nào cho chị em mình nói chuyện không?” Clary hỏi. Vóc người chị thật nhỏ bé, Emma nghĩ, thật khó để nghĩ chị đã qua tuổi hai mươi. Tóc chị tết thành bím phía sau, trông lại càng trẻ hơn nữa.
“Trên mái,” Emma quyết định. “Để em dẫn đường.”
Cô dẫn Clary qua mấy dãy cầu thang, leo lên chiếc thang dẫn tới cánh cửa sập, rồi bước ra khoảng không đêm tối trên mái nhà. Cô đã không lên đây kể từ đêm đi tìm Mark. Cứ như đã bao năm rồi, dù thực chất chỉ vài tuần trước.
Nhiệt độ ban ngày khiến lớp ngói trở nên nóng ẩm. Nhưng trời đêm lại buông phủ cái lạnh se người. Đêm sa mạc là thế, nhiệt độ hạ nhanh vô cùng sau khi mặt trời lặn. Làn gió đến từ đại dương lùa qua mái tóc ẩm của Emma.
Với Clary theo sau, cô băng qua mái ngói đến vị trí yêu thích: nơi mở ra tầm nhìn bao quát xuống đại dương, con đường cao tốc uốn lượn vào ngọn đồi bên dưới Học Viện, những dãy núi trập trùng ẩn trong bóng tối.
Emma ngồi xuống rìa mái, co gối lên, để gió sa mạc vuốt ve làn da, mái tóc. Ánh trăng vẽ sắc bạc xuống những vết thẹo của cô, nhất là cái vết dài chạy dọc mặt trong cẳng tay phải. Cô bị vết thương này ở Idris, lúc thức giấc khóc gọi bố mẹ mình, và Julian, hiểu rõ cô cần gì, đã đặt Cortana vào tay cô.
Clary nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh Emma, đầu khẽ nghiêng như lắng nghe nhịp thở của đại dương, tiếng ầm ì khe khẽ. “Chậc, em đánh bại Học Viện New York ở khoản phong cảnh rồi. Mái nhà ở đó nhìn ra chỉ thấy được Brooklyn thôi.” Chị quay sang Emma. “Jem Carstairs và Tessa Gray gửi lời hỏi thăm em.”
“Là họ báo cho chị chuyện của Kit phải không?” Emma hỏi. Jem là một người họ hàng xa lắc xa xưa của Emma. Anh có vẻ ngoài như hai mươi lăm, nhưng quá nửa phải là một trăm hai mươi lăm mới đúng. Tessa là vợ anh, một pháp sư quyền năng. Họ đã khám phá ra sự tồn tại của Kit và bố cậu, ngay đúng lúc Johnny Rook bị một bầy quỷ phanh thây.
Clary gật đầu. “Họ lên đường đi làm nhiệm vụ rồi. Cũng chẳng cho chị biết là tìm cái gì.”
“Hai anh chị ấy đi tìm Tập Sách Đen chăng?”
“Có lẽ. Chị biết họ đã ghé qua Mê Cung Xoáy Ốc.” Clary chống hai tay ra sau. “Chị biết Jem ước mình có thể ở cạnh em. Có người để em tâm sự. Chị bảo là em luôn có thể nói chuyện với chị, nhưng em đã không gọi cho chị kể từ cái đêm Malcolm chết…”
“Hắn không chết. Em đã giết hắn,” Emma ngắt ngang. Cô phải liên tục tự nhắc rằng chính cô đã giết Malcolm, đâm xuyên Cortana qua bụng hắn, bởi cảm giác ấy dường như quá mơ hồ. Đau lắm chứ, đau như bấu tay vào dây kẽm gai: cơn đau trỗi lên không báo trước. Hắn đáng phải chết, nhưng đau thì vẫn cứ đau.
“Em không nên thấy day dứt đúng không?” Emma hỏi. “Hắn là một kẻ xấu xa. Em phải làm thế.”
“Đúng, và đúng,” Clary nói. “Nhưng việc đó cũng không sửa chữa được mọi thứ.” Chị đưa tay giữ lấy cằm Emma, xoay cô về phía chị. “Nghe này, nếu có ai hiểu được cảm giác ấy thì chính là chị. Chị đã giết Sebastian. Anh trai chị. Chị đã đâm dao vào ngực anh ta.” Trong thoáng giây Clary trở nên nhỏ bé hơn so với tuổi; trong thoáng giây chị cứ như trạc tuổi Emma. “Chị vẫn nghĩ về nó, mơ về nó. Vẫn tồn tại cái tốt trong anh ấy… không nhiều, chỉ một tí, nhưng nó ám ảnh chị. Cái tiềm năng nhỏ bé đã bị chị bóp chết.”
“Hắn là một con quái vật,” Emma kinh hãi nói. “Một tên sát nhân, khủng khiếp hơn cả Valentine, khủng khiếp hơn bất kì ai. Chị buộc phải giết hắn. Chị mà không giết hắn thì hắn chắc đã phá hủy thế giới đúng nghĩa rồi.”
“Chị biết.” Clary hạ tay xuống. “Ở Sebastian không tồn tại chút khả năng cứu rỗi nào cả. Nhưng ta không thể ngừng mơ, đúng không? Trong giấc mơ, chị đôi khi nhìn thấy người anh lẽ ra chị phải có, ở một thế giới khác. Người anh có đôi mắt xanh lục. Em có lẽ sẽ thấy người bạn em hằng mong ở Malcolm. Khi người ta chết, giấc mơ về những gì ta mong mỏi ở họ cũng chết theo. Dẫu rằng chính tay ta đã kết liễu nó.”
“Em cứ ngỡ mình sẽ được hạnh phúc,” Emma nói. “Suốt bao năm trời em chỉ muốn trả thù. Trả thù kẻ đã giết bố mẹ. Giờ em đã biết chuyện gì xảy ra với họ, và em đã giết được Malcolm. Nhưng em chỉ thấy… trống rỗng.”
“Chị cũng cảm thấy thế, sau Cuộc Chiến Hắc Ám,” Clary nói. “Chị chạy, chị chiến đấu, chị bí bách suốt một thời gian dài. Thế rồi mọi thứ trở nên bình thường. Chị không tin được. Cuộc sống của chúng ta, dù có khổ sở khó khăn thế nào, ta đều tập quen được. Thế rồi khi lối sống đó biến mất, ta sẽ còn lại những khoảng trống cần lấp đầy. Bản năng tự nhiên sẽ cố lấp bằng nỗi lo lắng và sợ hãi. Cần có thời gian để nó lấp bằng những điều tốt đẹp.”
Trong thoáng giây, Emma nhìn qua biểu cảm Clary để xuyên về quá khứ, nơi người con gái trẻ đuổi theo cô vào căn phòng nhỏ ở Gard, quyết không chịu cho cô ở một mình khóc than, cô gái ấy đã bảo cô, Đôi lúc người hùng không phải là người chiến thắng. Họ là người đôi lúc thất bại. Nhưng họ tiếp tục chiến đấu, tiếp tục quay lại. Họ không bỏ cuộc.
Chính điều đó biến họ thành người hùng.
Chính những lời đó đã đưa Emma qua giai đoạn khó khăn nhất trong đời.
“Chị Clary,” cô nói. “Em hỏi chị chuyện này được không?” “Ừ. Bất cứ thứ gì.”
“Nightshade,” Emma nói. “Lão ma cà rồng, chị biết…”
Clary lộ vẻ ngạc nhiên. “Thủ lĩnh ma cà rồng của L.A ư? Cái kẻ bị các em phát hiện là đã dùng phép thuật hắc ám?”
“Đó là sự thật đúng không? Lão ta thật sự sử dụng phép thuật cấm?”
Clary gật đầu. “Đúng vậy. Mọi thứ ở nhà hàng của lão đều bị kiểm tra. Lão chắc chắn có tội. Nếu không có tội thì việc gì lão phải ngồi tù!” Chị nhẹ nhàng đặt tay mình lên tay Emma. “Chị biết Clave nhiều lúc chẳng ra gì. Nhưng vẫn có nhiều người trong đó cố gắng xử sự công bằng. Anselm thật sự là người xấu.”
Emma gật đầu, không gì để nói. Anselm vốn chẳng phải là người cô nghi ngờ.
Mà là Julian.
Khóe môi Clary cong lên thành nụ cười. “Thôi, nói mấy chuyện chán phèo đó đủ rồi,” chị nói. “Kể cho chị thứ gì vui đi nào. Lâu lắm rồi em không kể chuyện tình cảm của mình cho chị. Em còn cặp kè anh chàng Cameron Ashdown kia chứ?”
Emma lắc đầu. “Em đang… đang hẹn hò với anh Mark.”
“Mark?” Nhìn Clary cứ như vừa bị Emma dúi cho con thằn lằn hai đầu. “Mark Blackthorn á?”
“Không, Mark khác cơ. Vâng, Mark Blackthorn đấy.” Một thoáng e dè lẫn vào giọng Emma. “Sao lại không?”
“Chị chỉ… chị chưa từng hình dung hai người đến với nhau.” Clary ngỡ ngàng thấy rõ.
“Hà, vậy thì chị hình dung em với ai? Cameron à?”
“Không, không phải cậu ta.” Clary co chân lên ngực, gác cằm xuống đầu gối. “Chẳng qua là… cái người chị bắt cặp trong đầu với em ấy, nó vô lí lắm cơ.” Bắt gặp ánh mắt khó hiểu của Emma, chị cụp mắt xuống. “Cũng chẳng có gì đâu. Nếu em hạnh phúc với Mark thì chị mừng cho em.”
“Chị Clary, có điều gì chị không nói với em vậy?”
Im lặng kéo dài. Clary nhìn ra mặt nước đen. Cuối cùng chị lên tiếng. “Jace cầu hôn chị.”
“Ô!” Emma đã dang tay tính ôm chị, nhưng rồi bắt gặp nét mặt Clary. Cô sững người. “Sao vậy?”
“Chị từ chối.”
“Chị từ chối?” Emma buông thõng hai tay. “Nhưng hai người ở đây… cùng nhau… có phải hai người vẫn là…?”
Clary đứng dậy. Chị đứng bên rìa mái, phóng tầm mắt ra đại dương. “Bọn chị vẫn là người yêu,” chị nói. “Chị nói với Jace chị cần thêm thời gian suy nghĩ. Dám cá anh ấy nghĩ chị điên rồi, hoặc… thôi, chị chẳng biết anh ấy nghĩ gì.”
“Thật không?” Emma hỏi. “Có thật chị cần thêm thời gian không?”
“Để quyết định có muốn lấy Jace hay không ư? Không.” Giọng Clary đanh lại với thứ cảm xúc Emma không thể gọi tên. “Không. Chị biết câu trả lời. Đương nhiên là chị muốn. Làm gì còn ai khác để chị nghĩ ngợi. Đó là chuyện hiển nhiên rồi.”
Giọng điệu thẳng thừng của chị mang nét gì đó khiến Emma khẽ rùng mình. Làm gì còn ai khác để chị nghĩ ngợi. Trong cái rùng mình ấy cô nhận ra một mối đồng cảm quen thuộc, và có lẽ là một chút sợ hãi nữa. “Vậy sao chị lại từ chối?”
“Chị từng nằm mộng,” Clary nói. Chị dõi mắt ra con đường ánh trăng cắt ngang mặt nước thẫm, tựa như một vệt màu trắng chia đôi bức tranh đen. “Hồi bằng tuổi em. Nằm mộng về những điều sắp xảy ra, về thiên thần, lời tiên tri. Sau Cuộc Chiến Hắc Ám, những giấc mộng cũng chấm dứt. Chị cứ nghĩ chúng đã kết thúc hẳn, thế rồi sáu tháng trước, chúng trở lại.”
Emma có chút ngơ ngác. “Những giấc mộng sao?”
“Chúng không còn rõ ràng như trước đây nữa. Nhưng nó mang đến dự cảm… một điều kinh khủng sắp sửa xảy ra. Tựa như một bức tường máu và bóng tối. Bóng đêm bao trùm thế giới, che phủ tất cả.” Chị nuốt khan. “Còn nữa. Không hẳn là một viễn cảnh rõ ràng, mà là một lời báo.”
Emma đứng dậy. Cô muốn nắm lấy vai Clary, nhưng thâm tâm lại bị thứ gì ngăn lại. Đây không phải là Clary đã an ủi cô lúc mất bố mẹ. Đây là Clary đã dấn thân vào lãnh địa Edom và giết chết Sebastian Morgenstern. Clary người đã đối mặt Raziel. “Lời báo gì?”
“Rằng chị sắp chết,” Clary nói. “Không lâu nữa. Sớm thôi.”
“Có liên quan tới nhiệm vụ của chị không? Có phải chị nghĩ mình sắp gặp phải điều gì đó?”
“Không… không, không phải thế,” Clary nói. “Khó giải thích lắm. Lời báo cho biết việc đó sẽ đến, nhưng không chính xác khi nào hay ra sao.”
“Con người ai chẳng sợ chết,” Emma nói.
“Không đâu em,” Clary nói, “chị cũng không sợ, nhưng chị sợ phải bỏ lại Jace. Chị sợ những gì anh ấy phải đối mặt sau đó. Chị nghĩ hôn nhân sẽ càng làm mọi thứ tệ hơn. Nó thay đổi cuộc sống ta, hôn nhân ấy. Nó là lời hứa ở bên một người. Nhưng chị không thể hứa sẽ ở lại lâu được…” Chị nhìn xuống. “Chị biết việc này nghe rất buồn cười. Nhưng chị hiểu cái mà mình thấy.”
Một khoảng lặng dài. Tiếng sóng vỗ bờ chờn vờn giữa họ, lẫn cả tiếng gió đêm lướt qua sa mạc. “Chị nói với anh ấy chưa?” Emma hỏi.
“Chị chưa nói với bất cứ ai, trừ em.” Clary quay lại, nhìn Emma trong lo lắng. “Chị muốn xin em giúp một việc.
Một việc rất lớn.” Chị hít một hơi sâu. “Nếu chị chết thật, chị muốn em kể với họ… Jace và những người kia… rằng chị đã biết trước. Chị biết trước mình sẽ chết và chị không hề sợ. Nói với Jace đó là lí do chị từ chối anh ấy.”
“Em… sao lại là em?”
“Chị mà kể việc này với những người quen còn lại, tất cả sẽ phát hoảng lên, còn không thì nghĩ chị bị suy nhược tâm lí và cần đi khám bác sĩ… chậc, đó là những gì Simon sẽ nói.” Mắt Clary sáng ngời đến lạ khi nhắc đến tên người parabatai của mình. “Và chị tin Emma.”
“Em hứa,” Emma nói. “Đương nhiên chị có thể tin em, em sẽ không kể với bất kì ai, nhưng…”
“Chị vốn không định gửi gắm bí mật này cho em,” Clary nói. “Nhưng chị vẫn làm. Chị đã mơ thấy em với Cortana trong tay.” Chị nhón chân lên, hôn trán Emma. Tựa như một người mẹ hôn con. “Chị tin rằng em sẽ không ngừng chiến đấu, Emma ạ. Chị tin rằng em sẽ không bao giờ bỏ cuộc.”
Mãi đến khi trở về xe Kit mới nhận ra tay mình chảy máu. Lúc đấm tấm bảng cậu chẳng thấy gì, nhưng giờ cơn đau đã đến.
Julian chuẩn bị khởi động xe, ngần ngừ nói. “Anh có thể chữa cho em. Bằng chữ iratze.”
“Chữ gì á?”
“Chữ rune Trị thương,” Julian nói. “Một trong những chữ rune nhẹ nhàng nhất. Em sử dụng chữ đó đầu tiên cũng hợp lý thôi.”
Cả ngàn lời móc mỉa chạy quanh đầu Kit, nhưng cậu chẳng còn hơi sức đâu nữa. “Đừng có lấy mấy cây gậy phép kì cục của các người đâm chọt tôi,” cậu nói. “Tôi chỉ muốn về…” suýt nữa cậu đã nói nhà, nhưng ngăn lại kịp, “… thôi.”
Kit giữ im lặng trên quãng đường quay về, phóng mắt qua cửa sổ. Con đường rộng gần như vắng vẻ, trải dài tít tắp trong màu xám nhạt nhẽo. Những tấm biển chỉ đường vào khu Crenshaw và Fairfax lướt qua. Đây không phải là Los Angeles xinh đẹp với núi rừng biển cả, biệt thự trải cỏ xanh. Đây là L.A của những vỉa hè nứt nẻ, vài nhánh cây còi cọc và bầu trời nhuộm trong khói thải.
Đây vốn là nhà của Kit, nhưng giờ nhìn lại cậu chỉ thấy một sự xa cách. Cứ như thể Thợ Săn Bóng Tối đang dần kéo cậu ra khỏi những gì thân thuộc rồi cuốn vào quỹ đạo kì quặc của họ. “Giờ tôi ra sao?” Cậu chợt lên tiếng, phá tan bầu không khí im lặng.
“Sao cơ?” Julian cau mày nhìn làn xe qua kính chiếu hậu. Kit nhìn rõ được mắt anh ta, màu lục pha lam. Một cái màu phải nói là kì lạ, và cả nhà Blackthorn hình như ai cũng có, ừ thì Mark chỉ có một bên, còn Ty thì không.
“Thì Jace là người nhà của tôi,” Kit nói. “Nhưng tôi không thể tới sống cùng anh ta vì anh ta và cô bạn gái nóng bỏng phải đi thi hành nhiệm vụ bí mật gì đó.”
“Nhà Herondale mấy người hình như có gu chung,” Julian lẩm bẩm.
“Hả?”
“Chị ấy là Clary. Nhưng nói chung là phải. Anh ấy không thể chăm sóc em lúc này được, vậy nên bọn anh sẽ làm. Không có vấn đề gì đâu. Thợ Săn Bóng Tối chăm lo cho Thợ Săn Bóng Tối. Chuyện thường thôi.”
“Anh thật nghĩ đây là ý hay à?” Kit hỏi. “Nhà anh đã loạn lắm rồi, chú anh thì mắc chứng sợ không gian lớn, còn cái ông kia thì quái dị.”
Tay Julian siết chặt lấy vô lăng, nhưng anh ta chỉ nói, “Ty không có quái dị.”
“Tôi nói Mark mà,” Kit nói. Một khoảng dừng ngượng ngập. “Ty không có dị,” Kit thêm vào. “Cậu ấy chỉ bị tự kỉ thôi.”
Khoảng lặng kéo dài thêm. Kit tự hỏi mình có vừa xúc phạm Julian chỗ nào không. “Cũng không có gì to tát đâu,” cậu rồi cũng nói. “Hồi còn học ở trường người phàm, tôi có quen vài đứa nhóc cũng bị tự kỉ. Ty có vài điểm chung với mấy đứa ấy.”
“Tự kỉ là gì?” Julian hỏi.
Kit ngạc nhiên nhìn anh ta. “Nãy giờ anh không hiểu tôi nói gì à?”
Julian lắc đầu. “Chắc em chưa để ý, nhưng chúng ta không tiếp xúc nhiều với văn hóa người phàm.”
“Đó đâu phải văn hóa người phàm. Nó là…” Sinh học thần kinh. Khoa học. Thuốc. “Các người không có tia X à? Hay thuốc kháng sinh?”
“Không,” Julian đáp. “Với những chứng bệnh nhỏ như đau đầu thì chỉ cần dùng chữ rune trị thương. Còn nếu nặng hơn thì mời bác sĩ là các Tu Huynh Câm. Thuốc của người phàm bị cấm ngặt. Nhưng nếu em nghĩ có điều gì anh cần biết về Ty…”
Kit nhiều lúc muốn ghét Julian lắm. Nghiêm túc đấy. Julian cứ như bị cuồng luật lệ; anh ta cứng nhắc, bình thản đến bực mình, vô cảm y hệt lời người ta miêu tả về Thợ Săn Bóng Tối. Có điều anh ta thật sự không hẳn thế. Khi nhắc đến tên đứa em, giọng điệu anh ta thể hiện rõ tình yêu thương không gì phủ nhận được.
Kit bỗng thấy lồng ngực mình thít chặt. Cuộc nói chuyện với Jace lúc chiều đã giải tỏa phần nào nỗi lo lắng trong cậu kể từ ngày bố mất. Jace khiến cho mọi việc xem chừng chẳng quá khó khăn. Rằng họ vẫn đang sống trong một thế giới mà ta có thể cho mọi thứ cơ hội rồi chờ xem kết quả.
Còn giờ, nhìn vào con đường xám trước mặt, cậu tự hỏi mình đã nghĩ cái gì mà lại cho rằng có thể sống nổi trong một thế giới nơi mọi điều cậu biết đều bị xem là sai trái, nơi mà tất cả giá trị sống của cậu, vốn đúc kết từ việc lớn lên cùng người bố có biệt danh Rook Bịp Bợm, đều bị đảo ngược toàn bộ.
Nơi mà kết giao với những người có chung nguồn cội với cậu sẽ đồng nghĩa với bị những người cậu lớn lên cùng căm ghét.
“Bỏ đi,” cậu nói. “Tôi chẳng có ý gì khi nói về Ty đâu. Chỉ là mấy thứ vặt vãnh của người phàm ấy mà.”
“Anh rất tiếc Kit ạ,” Julian nói. Họ đã ra đến xa lộ bờ biển. Mặt nước trải dài xa xa, vầng trăng tròn trên cao vẽ nên con đường trắng toát xuyên giữa mặt biển. “Về việc ở Phiên Chợ.”
“Họ ghét tôi rồi,” Kit nói. “Tất cả những người tôi từng quen biết.”
“Không đâu,” Julian nói. “Họ sợ em. Có khác biệt đấy.”
Chắc vậy, Kit nghĩ. Nhưng hiện tại với cậu có khác hay không thì cũng thế mà thôi.