• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đức vua hắc ám (Tập 2)
  3. Trang 10

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 18
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 18
  • Sau

21Mắt trần

M

ark ngồi bên mép giường xem xét cổ tay mình. Vết thương hằn quanh càng lúc càng đen hơn, máu khô đọng bên mép, chỗ bầm thẫm từ đỏ sang tím.

“Để ta băng lại cho,” Kieran nói. Cậu ngồi trên tủ đầu giường, chân co bên dưới. Mái tóc rối bù, đôi chân để trần. Nhìn cậu như một sinh vật hoang dã tiếp xúc với thế giới văn minh: một con chim ưng đậu trên đầu tượng đá. “Chí ít hãy để ta băng lại giúp anh.”

“Băng bó cũng chẳng được gì,” Mark nói. “Magnus nói rồi đấy, vết thương chỉ lành chừng nào hóa giải được phép.”

“Vậy thì làm vì ta đi. Nhìn vào nó ta không chịu nổi.”

Mark ngạc nhiên nhìn lên Kieran. Trong Hội Săn Hoang họ thường xuyên bị thương đổ máu, Kieran trước giờ đâu có bận tâm.

“Băng ở trong đó.” Mark chỉ cái ngăn tủ. Anh nhìn Kieran nhảy xuống, lấy thứ mình cần rồi quay lại bên giường.

Kieran ngồi xuống, nâng cổ tay Mark lên. Bàn tay nhanh nhẹn, khéo léo, móng cùn, chai sần vì bao năm tháng chiến đấu và cầm cương. (Tay Cristina cũng chai, nhưng cổ tay và ngón tay thì lại mềm mại. Mark vẫn nhớ ngón tay ấy ve vuốt lên má mình trong rặng cây ở Xứ Tiên.)

“Anh xa cách quá Mark ạ,” Kieran nói. “Xa cách hơn cả khi ta ở Thế giới Thần Tiên còn anh ở thế giới con người.”

Mark dán mắt xuống cổ tay đã được băng bó. Kieran thuần thục cột gút đầu băng lại, sau đó để cái hộp sang một bên. “Kier không thể ở lại đây mãi,” Mark nói. “Và ngày cậu đi, chúng ta sẽ bị chia cách. Ta không thể không nghĩ tới ngày đó.”

Kieran hừ nhẹ một tiếng, đoạn nằm phịch ra giữa giường. Chiếc chăn sớm đã bị đẩy xuống đất. Mái tóc đen lẫn giữa tấm ga trắng, cơ thể phơi bày không chút khép nép của con người, chiếc áo kéo lên qua bụng, đôi chân dang rộng, nhìn Kieran lại càng giống một sinh vật hoang dã hơn nữa. “Vậy thì đi với ta đi,” cậu nói. “Ở với ta. Ta đã thấy vẻ mặt anh khi nhìn vào đàn ngựa của Hội Săn. Anh sẽ làm mọi thứ để được phóng ngựa lần nữa.”

Bỗng dưng điên tiết, Mark áp người xuống cậu. “Không phải mọi thứ,” anh nói. Giọng run lên với lửa giận âm trầm.

Kieran khẽ rít lên. Cậu tóm lấy áo Mark. “Đấy,” cậu nói. “Giận dữ với ta đi Mark Blackthorn. Quát mắng ta đi. Cảm giác đi.”

Mark chết sững, duy trì tư thế ngay trên Kieran. “Cậu nghĩ ta không có cảm giác gì sao?” Anh ngỡ ngàng hỏi.

Điều gì đó lóe lên trong mắt Kieran. “Đặt tay lên người ta,” cậu nói. Mark làm theo, bất lực trước bản thân mình. Kieran siết chặt lấy tấm ga khi Mark chạm tay xuống cậu, kéo căng chiếc áo, giật tung từng cái cúc. Anh vuốt tay dọc người Kieran như biết bao đêm khác, ngọn lửa dần dần nhóm lên trong lòng, kí ức về nỗi khát khao bỗng chốc hiện diện thành sự thật.

Nó cháy lên trong anh: luồng nhiệt nóng u hoài dịu nhẹ, tựa như ánh lửa báo hiệu trên ngọn đồi xa xa. Áo Kieran kéo lên qua đầu, đôi tay còn vướng lại, thế là cậu đưa chân kéo lấy Mark, đầu gối kẹp anh lại. Kieran rướn môi lên hôn Mark, hương vị ngọt ngào như lớp băng lạnh trải dài dưới bầu trời rực rỡ Bắc cực quang. Mark không dừng được tay mình: bờ vai Kieran như ngọn đồi trùng điệp, tóc mềm tối sẫm như một áng mây, đôi mắt là ánh sao và tấm thân cựa mình dưới Mark là dòng thác đổ mà chưa mắt trần nào nhìn thấy. Cậu là sao trời và khác lạ và tự do. Cậu là hàng trăm mũi tên bắn ra từ hàng trăm cây cung cùng một lúc.

Và Mark sa chân; anh rơi xuyên qua những tầng trời tăm tối, bụi sao như những hạt kim cương ánh bạc. Chân anh quấn lấy chân Kieran, tay anh lùa vào tóc Kieran, họ lao qua sương mù trên thảo nguyên xanh cỏ, họ phóng trên con ngựa móng lửa qua vùng sa mạc nơi đồi cát vươn cao thành những dãy mây vàng. Anh kêu lên, thế rồi Kieran trượt khỏi tay anh như bị kéo tuột khỏi giường… tất cả đều trôi tuột đi, Mark mở choàng mắt, thấy mình đang ở trong thư viện.

Anh đã ngủ gục, đầu gối lên tay, mặt dán xuống bàn gỗ. Anh nhổm người dậy, hít mạnh một hơi, nhận ra Kieran đang ngồi trên bệ cửa sổ, chằm chằm nhìn mình.

Thư viện trống trải, tạ Thiên Thần. Không ai trừ hai người bọn họ.

Tay Mark đau buốt. Chắc là anh đã đập trúng cạnh bàn; mấy đầu ngón tay đã bắt đầu sưng lên.

“Đáng tiếc,” Kieran nói, chăm chú nhìn xuống tay Mark. “Nếu không anh đã chẳng dậy rồi.”

“Mọi người đâu rồi?” Mark hỏi. Anh nuốt ực xuống, lấp đi cái cổ họng khô ran.

“Một nhóm đã đi tìm nguyên liệu điều chế thuốc giải,” Kieran nói. “Đám trẻ thì đâm ra buồn chân, Cristina dẫn chúng đi chơi với người tình của Magnus rồi.”

“Alec,” Mark nói. “Anh ta tên là Alec.”

Kieran so vai. “Còn về Magnus, anh ta ra cái chỗ nào đó gọi là tiệm cà phê Internet để in mấy tin nhắn của bọn Julian. Còn lại hai ta ở đây tra cứu, nhưng anh lại ngủ quên.”

Mark cắn môi. Cơ thể anh vẫn cảm giác được Kieran, dù rằng Kieran chẳng hề chạm vào. Anh biết, nhưng anh vẫn phải hỏi, dẫu lòng khiếp sợ trước câu trả lời. “Cậu cho ta mơ,” anh nói.

Không phải lần đầu Kieran làm vậy. Vài lần cậu đã giúp Mark có được giấc mơ đẹp trong những đêm trằn trọc ở Hội Săn. Một món quà thần tiên.

Nhưng lần này thì khác.

“Phải,” Kieran nói. Mái tóc sẫm màu lẫn vài lọn trắng, nhìn như dòng quặng lỏng chảy qua giếng mỏ.

“Tại sao?” Mark nói. Lửa giận chạy rần rần trong mạch máu. Tích tụ lại ngay lồng ngực. Họ từng cãi nhau mấy trận trong Hội Săn Hoang. Thét gào như thể thế giới sắp đến hồi tận diệt bởi đối phương là tất cả những gì mình có. Mark còn nhớ đẩy Kieran xuống một dòng sông băng, đoạn phóng người theo lập tức: bắt lấy cậu rồi kéo nhau vào bờ sông ngập tuyết, bấu víu lấy nhau bằng những đầu ngón tay ướt lạnh tê tái, trơn trượt trên da.

Vấn đề là mỗi lần cãi nhau với Kieran là họ lại kết thúc bằng những cái hôn, mà theo Mark thì chẳng giúp ích được gì. Và có lẽ là cũng không lành mạnh cho lắm.

“Vì anh không thành thật với ta. Anh khép chặt, che khuất trái tim mình. Ta không nhìn thấy được,” Kieran nói. “Ta nghĩ trong mơ, có lẽ…”

“Cậu nghĩ ta lừa dối cậu sao?” Tim Mark giật thót.

“Ta nghĩ anh đang lừa dối bản thân mình,” Kieran nói. “Anh không sinh ra để làm việc này, chính trị, âm mưu, lừa lọc. Em trai anh thì có. Đó là sở trường của Julian. Nhưng anh thì không muốn phải thực hiện những thỏa thuận kiểu này, bán rẻ linh hồn vì một mục đích cao cả. Anh nhân hậu hơn thế.”

Mark ngửa đầu ra lưng ghế. Phải chi anh có thể tự nhủ rằng Kieran đã sai, nhưng cậu nói đúng hết. Từng ngày qua Mark càng căm ghét mình hơn vì cứ phải dối gạt Kieran, cho dù lời nói dối là vì mục đích tốt.

Kieran nói, “Em trai anh sẽ thiêu rụi cả thế giới để cứu gia đình mình. Có những người như thế. Anh thì không.”

“Kieran, cậu không thể tin việc này quan trọng với ta đến mức nào, ta có thể hiểu,” Mark nói. “Nhưng nó vẫn là sự thật.”

“Hãy nhớ,” Kieran thì thầm. Cho đến lúc này, đứng giữa thế giới người phàm, dáng dấp và giọng điệu Kieran vẫn cứ mang cái nét kiêu hãnh và ngạo mạn. Mặc trên người chiếc quần bò Mark cho mượn, nhưng phong thái của cậu vẫn là một vị tướng quân khoác tay ra lệnh cho hàng vạn thần tiên. “Hãy nhớ không gì là thật.”

Mark vẫn nhớ. Anh vẫn nhớ dòng chữ viết trên mảnh giấy da, nhét trong quả sồi. Bức thư đầu tiên Kieran gửi đến sau khi anh rời Hội Săn.

“Việc này thật với ta,” Mark nói. “Tất cả việc này đều thật với ta.” Anh nghiêng người tới. “Ta cần phải biết cậu đứng cùng phía với ta, Kieran ạ.”

“Thế nghĩa là sao?”

“Nghĩa là không giận dữ nữa,” Mark nói. “Không tạo ra những giấc mơ nữa. Một thời gian dài ta đã cần cậu Kieran ạ. Cần cậu quá nhiều, và vì ta quá cần cậu như thế mà cậu đã trở nên méo mó. Trở nên bất chấp. Cậu không còn lựa chọn nào khác.”

Kieran đờ người. “Anh muốn nói anh chưa từng chọn ta?”

“Ta muốn nói Hội Săn Hoang đã chọn hai ta. Ta muốn nói nếu ở ta có điều gì khác lạ hay xa cách, đó là vì ta cứ đang hỏi đi hỏi lại bản thân: ở một thế giới khác, một hoàn cảnh khác, liệu hai ta có còn chọn nhau?” Anh nhìn thẳng vào cậu. “Cậu là một hoàng tử thượng tiên. Ta là con lai Nephilim, tệ hơn cả rơm rạ, một dòng máu lai tạp tanh hôi.”

“Mark.”

“Ta muốn nói những lựa chọn đưa ra trong lúc bị cầm tù không phải lúc nào cũng giống với những lựa chọn lúc tự do. Thế nên chúng ta mới hoài nghi. Chúng ta không thể cứ lờ đi được.”

“Với ta thì khác,” Kieran nói. “Sau khi chuyện này kết thúc, ta phải quay lại Hội Săn. Anh mới là người có được tự do.”

“Ta sẽ không để họ bắt cậu về Hội Săn nếu cậu không muốn.”

Ánh mắt Kieran dịu lại. Trong giây phút ấy, Mark có cảm tưởng sẽ hứa hẹn mọi điều với cậu, bất kể có khinh suất cỡ nào.

“Ta muốn hai ta đều được tự do,” Mark nói. “Được cười nói, được vui vẻ cùng nhau, được yêu nhau một cách bình thường. Ở đây cậu được tự do với ta, và có lẽ chúng ta có thể thử trải nghiệm cơ hội đó, giây phút đó.”

Im lặng hồi lâu, rồi Kieran cũng nói. “Tốt lắm. Ta sẽ ở lại với anh. Và ta sẽ giúp anh giải quyết mớ sách chán ngắt này.” Cậu mỉm cười. “Ta đứng cùng phía với anh, Mark ạ, nếu đó là cách để chúng ta nghiệm ra mình là gì của nhau.”

“Cám ơn,” Mark nói. Như hầu hết thần tiên, Kieran không đáp bằng “không có chi”; thay vào đó, cậu trượt xuống bệ cửa, ra kệ sách tìm lấy một quyển. Mark đưa mắt nhìn theo. Mọi điều anh nói với Kieran đều thật hết, ấy vậy mà cõi lòng anh vẫn nặng trĩu như thể tất cả những lời ra khỏi miệng mình đều là dối trá.

Bầu trời London xanh ngắt không một gợn mây. Mặt nước sông Thames gợn quanh mạn thuyền cũng gần như xanh biếc. Kiểu như nước trà nhỏ mực xanh ấy, Kit thầm nghĩ.

Theo địa chỉ trên tay Ty thì nơi họ đến nằm trên đường Gill, thuộc quận Limehouse. “Từng là một khu tệ nạn,” Magnus cho biết. “Toàn mấy ổ thuốc phiện và bài bạc. Chúa ơi, hồi đó vui biết chừng nào.”

Mark lập tức hoảng hồn.

“Đừng có lo,” Magnus bổ sung. “Giờ nó chán lắm. Chỉ còn mấy tòa chung cư cao cấp và nhà hàng sang trọng thôi. Hết sức an toàn.”

Julian nhất định sẽ cấm cản chuyến đi này, Kit khá chắc. Nhưng Mark thì chẳng hề lưỡng lự. So với cậu em thì anh ta xem chừng đã coi Livvy và Ty là Thợ Săn Bóng Tối trưởng thành, vốn dĩ cũng phải làm việc như bao người khác.

Ty mới là người dùng dằng hồi lâu, lo lắng nhìn chị mình không rời mắt. Livvy xem ra đã hoàn toàn bình phục, họ đang đứng trên boong tàu thoáng đãng, cô thoải mái ngẩng mặt đón gió, để mái tóc dài phất phơ xung quanh.

Ty quan sát mọi thứ với một niềm say mê chuyên chú thường lệ, như thể đang ghi nhớ từng tòa nhà, từng con phố. Ngón tay cậu ta gõ nhịp xuống lan can sắt, nhưng Kit không nghĩ là vì lo lắng. Cậu nhận ra các hành động của Ty không phải lúc nào cũng gắn liền với tâm trạng xấu. Có những lúc là tâm trạng tốt: nếu tâm tình thoải mái, cậu ta sẽ nhìn ngón tay mình lười biếng đan thành hình này hình nọ giữa không trung, giống như một nhà khí tượng học theo dõi đường đi của các đám mây.

“Nếu tôi trở thành Thợ Săn Bóng Tối,” Kit lên tiếng, không cụ thể nhằm vào ai trong cặp sinh đôi, “thì tôi có phải làm bài tập không? Hay chỉ là… cứ thế mà làm thôi?”

Mắt Livvy lấp lánh. “Cậu đang làm việc của Thợ Săn Bóng Tối đấy.”

“Phải, nhưng đây là tình huống khẩn,” Ty nói. “Cậu ta nói đúng… có vài môn cậu ta cần phải học lại. Không phải là cậu cái gì cũng không biết như người phàm,” cậu ta nói thêm với Kit, “nhưng có vài điều cậu cần phải học, như các loại quỷ, ngôn ngữ, đại loại thế.”

Kit nhăn mặt. “Tôi cứ hy vọng được vừa học vừa hành.”

Livvy bật cười. “Cậu cứ việc ra trước Hội Đồng mà đệ trình ý kiến.”

“Hội Đồng?” Kit hỏi. “Cái đó khác với Clave sao?” Livvy cười lớn hơn.

“Tôi có thể thấy ý kiến của cậu không có khả năng được thông qua đâu,” Ty nói. “Nhưng bọn tôi có thể dạy cậu một chút.”

“Một chút?” Kit hỏi.

Ty nở nụ cười rạng rỡ hiếm hoi. “Một chút. Tôi còn nhiều việc quan trọng phải làm lắm.”

Kit nhớ đến Ty trên sân thượng đêm qua, dáng vẻ tuyệt vọng đến cùng cực. Giờ cậu ta đã trở lại là chính mình, như thể việc Livvy hồi phục cũng giúp cậu ta hồi phục. Cậu gác tay lên lan can, con tàu chạy ngang qua một tòa nhà sừng sững như pháo đài, vươn cao bên bờ sông.

Nhận ra ánh mắt Kit, Livvy bèn nói, “Tháp London.”

“Chuyện kể rằng sáu con quạ phải luôn canh gác tòa tháp,” Ty nói, “nếu không vương triều sẽ sụp đổ.”

“Mọi câu chuyện đều có thật,” Livvy nhẹ nhàng nói, cơn ớn lạnh bỗng chạy suốt lưng Kit.

Ty quay đầu qua. “Chẳng phải quạ đã mang thư cho Annabel và Malcolm sao?” Cậu ta nói. “Em nhớ tin nhắn của nhóm anh Julian ghi thế.”

“Thấy phiêu quá,” Kit nói. “Lỡ như con quạ đâm chán, phân tâm hay gặp phải một con chim ưng nóng bỏng dọc đường thì sao?”

“Hay là bị thần tiên phá bĩnh,” Livvy nói. “Không phải thần tiên nào cũng xấu,” Ty nói.

“Có thần tiên tốt, có thần tiên xấu, như con người thôi,” Kit nói. “Nhưng coi bộ vậy là quá phức tạp với Clave.”

“Quá phức tạp với hầu hết mọi người,” Ty nói.

Nếu là người khác thì Kit hẳn sẽ nghĩ kẻ đó có ý chỉ trích. Nhưng Ty thì chỉ thấy sao nói vậy. Thật khiến người ta thấy thú vị đến lạ lùng.

“Chị không thích mấy tin cô Diana báo về,” Livvy nói. “Việc Zara tự nhận đã giết Malcolm.”

“Bố tôi thường bảo lời nói dối lớn dễ tin hơn lời nói dối nhỏ,” Kit bảo.

“Chậc, hãy hy vọng ông ấy lầm đi,” Livvy hơi đanh giọng. “Tôi không chịu nổi cái ý nghĩ người ta xem Zara và những kẻ như cô ta là anh hùng. Cho dù họ có không biết cô ta nói dối đi nữa thì cái kế hoạch của Kiêu Binh vẫn quá kinh tởm.”

“Thật tệ khi các người chẳng thể nói với Clave những gì Julian thấy qua viễn kính,” Kit nói.

“Họ mà biết anh ấy tới Xứ Tiên là sẽ lưu đày anh ấy ngay,” Livvy nói, âm vực nhuốm màu sợ hãi. “Còn không thì tước Ấn Ký của anh ấy.”

“Tôi có thể đóng vai người đã nhìn thấy. Tôi bị tống khỏi cộng đồng Nephilim cũng chẳng ảnh hưởng gì,” Kit nói.

Kit chỉ tính nói đùa để làm dịu đi bầu không khí, thế nhưng cặp sinh đôi lại lo lắng ra mặt. “Cậu không muốn ở lại sao?” Câu hỏi của Ty thẳng thắn và sắc như một lưỡi dao.

Kit không có câu trả lời. Tiếng người ồn ã vang lên, con tàu đứng khựng lại. Thuyền đã cập bến Limehouse, cả ba vội vã lên bờ. Họ không dùng phép che mờ, trong lúc chen qua đám đông để đến lối ra, Kit nghe thấy một kẻ làu bàu rằng trẻ con thời nay mới tí tuổi mà đã xăm mình.

Ty nhăn mặt bởi tiếng ồn, liền đeo tai nghe lên khi bước xuống phố. Không khí có mùi như nước sông, nhưng Magnus nói đúng, bến tàu rất nhanh đã biến mất, thay bằng những con đường quanh co đầy rẫy những nhà máy cũ được sửa sang thành nhà ở.

Ty cầm bản đồ, Livvy và Kit đi tuột phía sau vài bước. Livvy hờ hững đặt tay lên thắt lưng, trên giắt mấy món vũ khí giấu dưới áo khoác. “Nó ít đeo tai nghe hơn khi có cậu ở bên cạnh,” cô bảo, mắt nhìn em mình nhưng lại nói với Kit.

“Vậy là tốt chứ?” Kit bất ngờ.

Livvy so vai. “Không tốt cũng không xấu. Chỉ nhận xét thế thôi. Chẳng phải phép thuật hay gì gì.” Cô liếc mắt sang cậu. “Tôi nghĩ nó chỉ không muốn bỏ sót những gì cậu nói.”

Một thứ cảm xúc lạ lùng đâm thấu tâm can. Cậu không khỏi bất ngờ. Cậu đưa mắt sang Livvy. Kể từ ngày rời Los Angeles, cô chẳng hề tỏ thái độ muốn lặp lại nụ hôn duy nhất giữa họ. Kit nhận ra mình cũng chẳng muốn. Không phải là cậu không thích Livvy, hay thấy cô không đẹp. Nhưng cảm giác bây giờ có cái gì khác lạ… chừng như là sai trái.

Có lẽ vì cậu vẫn chưa xác định có muốn làm Thợ Săn Bóng Tối hay không.

“Tới rồi.” Ty đã cởi tai nghe xuống, cái vành trắng nổi bật giữa mớ tóc đen. Trong mấy anh chị em nhà Blackthorn, chỉ có cậu ta là mang màu tóc đó, nhưng qua mấy bức tranh vẽ tổ tiên treo trong Học Viện, Kit thấy rằng gia tộc cậu ta cũng có người tóc đen mắt xám bạc. “Chuyến này sẽ mở mang tầm mắt đây. Không như Phiên Chợ Bóng Tối, những cửa hiệu kiểu này bắt buộc phải tuân theo Hiệp định, nhưng vẫn do các bậc thầy quản lý.” Ty lộ rõ niềm vui sướng vô bờ trước từng ấy những kiến thức chuyên môn cao siêu kia.

Qua hết khu vực đường lớn Narrow, con phố họ vừa rẽ vào ước chừng chính là phố Gill. Chỉ có duy nhất một cửa hiệu phía bên kia đường là đang mở cửa. Những ô cửa sổ tù mù, tên người chủ tiệm khắc bằng chữ đồng trên cánh cửa. NGHIỆP CHỦ: F.SALLOWS. Chẳng có một dòng giới thiệu mặt hàng kinh doanh, nhưng Kit đoán những ai đến đây đều đã biết mình cần mua cái gì.

Ty băng qua đường, đưa tay mở cửa. Livvy vội chạy theo. Kit đi cuối, e dè không mấy hào hứng. Cậu đã lớn lên giữa những kẻ chuyên mua bán phép thuật, biết rõ phải dè chừng mấy loại người này.

Quang cảnh bên trong cửa hiệu cũng chẳng cải thiện quan điểm của cậu là mấy. Ô cửa đọng sương chỉ để chút ánh sáng le lói rọi vào. Nhưng chí ít thì ở đây cũng sạch sẽ, những hàng kệ dài bày các mặt hàng cậu đã từng thấy qua: răng rồng, nước thánh, đinh phù phép, phấn trang điểm ma thuật, bùa may… và một số món lạ mắt khác. Những cái đồng hồ chạy ngược, chẳng rõ tại sao. Những bộ xương thú xỏ dây cậu chưa thấy bao giờ. Răng cá mập, khổng lồ ở cái mức không thể thuộc về cá mập Trái Đất. Những hàng lọ nối dài, đựng cánh bướm vô cùng sặc sỡ, từ hồng cánh sen đến vàng dạ quang đến xanh đọt chuối. Những chiếc bình đựng thứ nước xanh biển, bề mặt dập dềnh như một đại dương thu nhỏ.

Quầy thu tiền đặt một cái chuông đồng bụi bặm. Livvy cầm lên lắc một cái, Ty trong lúc đó săm soi mấy tấm bản đồ trên tường. Tấm bản đồ cậu ta đang nhìn đánh dấu mấy địa danh vô cùng lạ mắt: Rặng Núi Gai, Trấn Hư Vô, Rừng Tan Vỡ.

“Xứ Tiên,” Ty nói bằng một giọng nhỏ nhẹ bất thường. “Rất khó để lập bản đồ vì địa hình thường xuyên thay đổi, nhưng tôi đã xem qua một vài tấm hồi anh Mark bị bắt.”

Tiếng gót giày cồm cộp cho biết chủ tiệm đã xuất hiện. Kit không khỏi bất ngờ trước gương mặt quen thuộc: da ngăm, tóc nâu đồng, trang phục hôm nay là một chiếc váy suôn đen giản dị. Hypatia Vex.

“Nephilim,” bà ta thở dài. “Ta ghét Nephilim.”

“Xem ra đây là cửa tiệm mà khách hàng không phải là thượng đế rồi,” Livvy nói.

“Bà không phải là Sallows,” Ty nói. “Bà là Hypatia Vex. Bọn tôi mới gặp bà hôm qua.”

“Sallows đã qua đời nhiều năm trước rồi,” Hypatia nói. “Bị Nephilim giết.”

Ngại chưa, Kit thầm nghĩ.

“Bọn tôi có một danh sách cần mua.” Livvy đẩy tờ giấy qua mặt quầy. “Cho Magnus Bane.”

Hypatia nhướng một bên mày. “À, Bane, thành trì vĩ đại của các ngươi. Đúng là đồ sâu bọ mà.” Bà ta cầm tờ giấy lên. “Vài món trong này mất ít nhất một ngày để chuẩn bị. Mai các ngươi quay lại được không?”

“Bọn này có lựa chọn nào khác không?” Livvy nở nụ cười thân thiện.

“Không,” Hypatia nói. “Và các ngươi phải trả bằng vàng. Ta không có hứng thú với tiền người phàm.”

“Cứ báo giá đi,” Ty nói, bà ta liền lấy giấy bút ra ghi lại. “Và… tôi có việc này cần hỏi bà.”

Cậu ta nhìn sang Kit và Livvy. Hiểu ý em mình, Livvy liền kéo Kit ra khỏi cửa hiệu, đứng chờ ngoài phố. Ánh mặt trời rọi xuống đến ấm áp; cậu tự hỏi người phàm thấy gì khi nhìn vào cửa hiệu. Có lẽ là một cửa hàng tiện lợi cũ kỹ, hay một tiệm bán bia mộ. Cái nơi ta không bao giờ muốn đặt chân vào.

“Cậu tính chơi với em tôi bao lâu nữa?” Livvy đột nhiên hỏi.

Kit giật thót người. “Tôi… hả?”

“Cậu nghe rồi đó,” cô nói. Mắt cô còn xanh hơn cả sông Thames. Mắt của Ty mới đúng là màu nước sông.

“Thường thì người ta không nghĩ về tình bạn kiểu đó đâu,” Kit nói. “Còn tùy thuộc xem ta quen người đó được bao lâu, hai bên ở cùng một chỗ được bao lâu.”

“Cậu được chọn,” cô nói, đôi mắt sa sầm. “Cậu có thể ở với bọn tôi bao lâu tùy thích.”

“Vậy sao? Thế còn Đại Học Viện? Học tập để trở thành Thợ Săn Bóng Tối? Làm sao để tôi theo kịp các người khi đã bị bỏ lại cả triệu năm phía sau?”

“Bọn tôi không có để tâm chuyện…” “Có lẽ tôi để tâm đấy.”

Livvy điềm đạm nói. “Hồi tụi tôi còn nhỏ, nhà Ashdown thường hay ghé qua chơi. Bố mẹ nghĩ bọn tôi nên chơi với những đứa trẻ khác nữa chứ đừng cứ ru rú với nhau. Paige Ashdown bằng tuổi tôi, vậy nên nhỏ bị đẩy vào cùng nhóm với tôi và Ty. Có một lần, thằng bé ngồi kể ra những thứ nó thích. Hồi đó là xe hơi, trước khi biết tới Sherlock. Rồi con nhỏ kia mỉa mai bảo nó hãy tới nhà nhỏ mà kể thêm vì nghe thú vị quá.”

“Rồi sao nữa?”

“Nó đã tới nhà con nhỏ để kể về những chiếc xe, nhưng nhỏ không có nhà. Rồi lúc về tới, nhỏ cười vào mặt, bảo nó về đi, rằng nhỏ không có ý đó, rằng nó có bị ngu không vậy?”

Lòng Kit âm thầm sục sôi nỗi căm hờn với một đứa con gái cậu chưa từng gặp mặt. “Tôi không bao giờ làm thế.”

“Nghe này,” Livvy nói. “Kể từ đó Ty dần học được rằng vì đâu người ta nghĩ một đằng nói một nẻo, vì đâu mặt thì bực nhưng giọng thì vui, đại loại thế. Nhưng nó tin cậu, nó mở lòng với cậu. Nhiều lúc nó quên không áp dụng những điều đó với cậu. Tôi chỉ muốn nói… đừng có lừa dối nó. Đừng làm nó hiểu nhầm.”

“Tôi không có…” Kit mở miệng, nhưng tiếng leng keng đã vang lên, cánh cửa mở ra. Là Ty, lật mũ trùm lên che đi cơn gió nhẹ.

“Xong rồi,” cậu ta nói. “Về thôi.”

Nếu cậu ta có nhận ra bầu không khí căng thẳng đi nữa thì cũng không nói gì. Suốt quãng đường về nhà, cả ba chỉ chuyện trò toàn những chuyện vu vơ trên trời dưới đất.

Đám tiểu tiên dàn hàng ngồi trên mấy viên đá rải dọc mép sân, mặt mày một đống. Sau khi kéo chúng dưới hố lên, Emma và Jules đã lấy thức ăn ra mời, nhưng chỉ có cái con đang cắm mặt vào bát sữa là chịu nhận.

Cái con cao nhất bầy the thé hỏi. “Malcolm Fade? Malcolm Fade đâu rồi?”

“Không có ở đây,” Julian nói.

“Đi thăm bệnh bà con rồi,” Emma thích thú ngắm nghía đám tiểu tiên.

“Pháp sư làm gì có bà con,” con tiểu tiên nói. “Nói vậy mà cũng không hiểu,” Emma lầm bầm.

“Bọn này là bạn của Malcolm,” Julian nói sau một hồi im lặng. Emma mà không hiểu cậu thì nhất định đã tin sái cổ rồi. Mặt cậu mỗi khi nói dối nhìn ngây thơ tuyệt đối. “Anh ta nhờ bọn này trông nhà giùm trong lúc đi vắng.”

Đám tiểu tiên xì xầm với nhau bằng cái giọng the thé cao vút. Emma căng tai nghe nhưng chẳng hiểu tiếng nào. Không phải ngôn ngữ thượng tiên, một thứ tiếng đơn giản nhưng cổ xưa hơn. Nghe như tiếng róc rách của nước chảy qua đá và sắc cạnh tựa hương cỏ non.

“Hai người cũng là pháp sư à?” Con tiểu tiên cao nhất tách ra khỏi bầy, lên tiếng hỏi. Mắt nó màu xám bạc, nhìn như đá vùng Cornwall.

Julian lắc đầu, chìa cẳng tay ra, cho thấy chữ rune Thấu Thị nổi bật trên da. “Bọn này là Nephilim.”

Đám tiểu tiên lại chụm đầu rì rầm.

“Bọn này đang tìm Annabel Blackthorn,” Julian nói. “Bọn này muốn đưa cô ấy về nhà để bảo vệ cô ấy.”

Đám tiểu tiên làm mặt nghi ngờ.

“Cô ấy nói các bạn biết cô ấy ở đâu,” Julian tiếp. “Các bạn đã nói chuyện với cô ấy đúng không?”

“Bọn này quen cô ấy và Malcolm từ nhiều năm về trước,” con tiểu tiên nói. “Người phàm thường không sống thọ đến thế. Bọn này rất tò mò.”

“Nói cho bọn này biết đi,” Emma nói. “Rồi bọn này sẽ thả các bạn ra.”

“Còn nếu không?” Con tiểu tiên nhỏ nhất hỏi. “Thì các bạn không được đi đâu hết ” Julian nói.

“Cô ấy ở nhà thờ Porthallow,” con tiểu tiên nhỏ nhất thay mặt cả bầy nói. “Nó đã bị bỏ hoang nhiều năm nay. Cô ấy biết nơi đó và cảm thấy an toàn ở đó, bình thường đám người cao cũng ít khi lui tới.”

“Nhà thờ Porthallow có gần đây không?” Julian hỏi. “Có gần thị trấn không?”

“Gần lắm,” con tiểu tiên cao nhất nói. “Gần muốn chết luôn.” Nó chỉ bàn tay gầy guộc tái nhợt ra. “Nhưng hôm nay không đi được đâu. Hôm nay là chủ nhật, đám người cao tụ tập để nghiên cứu khu nghĩa trang kế bên nhà thờ.”

“Cám ơn,” Julian nói. “Các bạn đã giúp ích được rất nhiều.”

Dru đẩy cửa vào phòng mình. “Jaime ơi?” Cô thì thầm.

Không có tiếng trả lời. Cô lẳng lặng đi vào, khép cửa lại. Cô đang cầm đĩa bánh nướng Bridget mới làm. Lúc cô hỏi xin cả một đĩa đầy, Bridget đã cười khúc khích, hẳn là nhớ đến chuyện gì đó mỗi mình bà ta biết, đoạn dặn Dru đừng có ăn hết, nếu không sẽ béo thêm đấy.

Dru từ lâu đã học được rằng đừng nên ăn quá nhiều trước mặt người lạ, hay tỏ ra đói bụng, hay bỏ quá nhiều thức ăn vào đĩa. Mỗi lần như thế, người ta đều nhìn cô bằng cái ánh mắt đáng ghét cực kì, cứ như muốn nói, ồ, hèn gì con bé chẳng ốm nổi.

Nhưng vì Jaime thì cô sẵn lòng. Anh ta đã xem phòng cô như nhà mình, thả phịch người xuống giường như thể đã ngủ trên đó suốt mấy ngày nay, rồi bật dậy hỏi xem có dùng phòng tắm được không. Cô bèn hỏi anh ta có đói hay không, anh ta cụp mắt, mỉm cười với cô. “Anh biết thế này là đòi hỏi, nhưng mà…”

Cô vội vã chạy xuống nhà bếp, không muốn trở lại tay không. Một con bé mười ba tuổi sợ sệt có thể làm thế, nhưng một cô gái mười sáu thì không. Hoặc mười mấy cũng được, tùy anh ta nghĩ. Cô không có nói cụ thể.

“Jaime ơi?”

Anh ta bước từ phòng tắm ra trong chiếc quần bò, áo đang mặc dở. Cô thoáng thấy một hình xăm đen trên vùng bụng nhẵn trước khi cái áo phông che mất. Không phải Ấn Ký, là chữ La Mã. Cô đưa mắt nhìn chòng chọc, không nói tiếng nào trong khi anh ta bước đến cầm lấy một cái bánh. Anh ta nháy mắt. “Cám ơn.”

“Không có chi,” cô khẽ nói.

Anh ta ngồi xuống giường, vụn bánh rơi lả tả, mái tóc đen ẩm ướt xoăn lọn lại. Cô cẩn thận đặt mớ bánh xuống đầu tủ. Khi cô xoay lại, anh ta đã lăn ra ngủ, đầu gối lên tay.

Cô ngồi lên tủ đầu giường, tay khoanh lại ôm lấy mình. Cô có thể thấy bóng dáng Diego qua màu da và đường nét trên gương mặt Jaime. Cứ như ai đó đã đem Diego ra đẽo gọt lại, làm cho các góc cạnh trở nên sắc sảo hơn. Một cái hình xăm chi chít chữ chạy quanh cổ tay, lẩn vào dưới tay áo Jaime; cô thầm ước có thể nói tốt tiếng Tây Ban Nha để dịch dòng chữ đó.

Cô toan bước ra cửa, để anh ta được yên tĩnh nghỉ ngơi. “Đừng đi,” anh ta chợt nói. Cô quay lại, thấy anh ta hé mắt nhìn lên, hàng mi dài đổ bóng xuống đôi gò má góc cạnh. “Lâu lắm rồi anh không có người trò chuyện.”

Cô ngồi xuống mép giường. Jaime lật ngửa người lại, tay gác sau đầu. Tay chân anh ta dài ngoẵng, tóc đen mượt, hàng mi như những cái chân nhện. Mọi thứ ở anh ta đều có chút lệch pha, trong khi mọi thứ ở Diego lại sắc nét như một quyển truyện tranh. Dru cố không soi quá kĩ.

“Anh thấy mấy cái hình dán trên tủ đầu giường,” anh ta nói. Dru đã mua mớ hình đó trong một cửa hàng trên phố Fleet khi đi mua bánh mì kẹp với cô Diana. “Toàn bộ là phim kinh dị.”

“Em thích phim kinh dị.”

Anh ta cười toe. Lọn tóc đen rơi vào mắt. Anh ta lấy tay gạt đi. “Em thích bị dọa à?”

“Phim kinh dị không làm em sợ,” Dru nói.

“Mục đích của nó không phải là dọa người sao?” Giọng điệu anh ta chừng như thật tâm hứng thú. Dru chẳng nhớ nổi lần cuối ai đó thật lòng hứng thú với niềm đam mê phim kinh dị cổ điển của cô là hồi nào. Julian thi thoảng cũng thức cả đêm để xem phim Horror Hotel với cô, nhưng cô biết đó chỉ là tình cảm của một ông anh lớn.

“Em còn nhớ Cuộc Chiến Hắc Ám,” cô nói. “Em còn nhớ nhìn người ta chết trước mặt mình. Bố em là một chiến binh Hắc Hóa. Ông ấy trở lại, nhưng không… không còn là chính mình.” Cô nuốt khan. “Xem phim kinh dị, em biết dù cho có chuyện gì xảy ra, đến cuối cùng em vẫn được an toàn. Em biết nhân vật trong đó chỉ là diễn viên, và khi tất cả kết thúc, họ chỉ việc rời khỏi đó. Máu chỉ là giả, rửa một lần là trôi.”

Đôi mắt Jaime thẳm sâu không đáy. “Nó cho em cảm giác những việc kia không hề tồn tại,” anh ta nói. “Tưởng tượng rằng chúng không hề xảy ra.”

Cô nở nụ cười thoáng chút u buồn. “Chúng ta là Thợ Săn Bóng Tối. Chúng ta không có diễm phúc được tưởng tượng.”

“Người ta sẽ làm tất cả mọi thứ để thoát được việc nhà,” Julian nói.

“Trừ cậu,” Emma bảo. Cô nằm dài trên ghế sô pha, chân vắt lên tay vịn.

Vì hôm nay không thể tới nhà thờ để tìm Annabel, cả hai bèn quyết định dùng buổi chiều để đọc hết mớ nhật kí của Malcolm và nghiên cứu mấy bức vẽ của Annabel. Đến khi mặt trời ngả bóng, họ đã ghi chép được một lượng kha khá thông tin, xếp thành mấy chồng khắp gian phòng. Chủ yếu là các mốc thời gian: khi Malcolm đến ở với nhà Annabel; làm sao mà gia đình cô, vốn điều hành Học Viện Cornwall lại thu nhận hắn. Tình yêu tha thiết Annabel dành cho trang viên Blackthorn, ngôi nhà tổ của dòng họ Blackthorn nằm trên rặng đồi xanh ở Idris, những ngày họ cùng nhau chơi đùa trong rừng Brocelind. Rồi khi Malcolm bắt đầu hoạch định cho tương lai của họ, xây nên ngôi nhà nhỏ ở Polperro, hắn và Annabel đã che giấu mối quan hệ ra sao, trao đổi thư từ thông qua chú quạ của Annabel thế nào. Rồi khi bố Annabel phát giác, tống cổ cô con gái ra khỏi nhà Blackthorn, và Malcolm đến sáng hôm sau mới phát hiện cô ngồi khóc một mình trên bờ biển.

Đó là lúc Malcolm quyết tâm tìm cách bảo vệ họ khỏi Clave. Hắn biết Học Viện Cornwall có một bộ sưu tập sách phép. Hắn tự nhủ phải tìm một người bảo trợ quyền năng. Một kẻ hắn có thể giao ra Tập Sách Đen để đổi lấy sự an toàn.

Emma đọc lớn nhật kí trong khi Julian ghi chép lại. Thỉnh thoảng họ tạm ngừng để chụp ảnh mấy dòng ghi chú và thắc mắc rồi gửi cho nhóm Học Viện. Đôi khi họ nhận lại vài câu hỏi, bèn lần mò tìm cách trả lời; đôi khi chẳng có gì hết. Có một lần Ty gửi ảnh sang, thằng bé cười tươi hớn hở, khoe đã tìm được cả một hàng sách Sherlock Holmes ấn bản đầu tiên trong thư viện. Có lần họ nhận được bức ảnh chụp chân Mark. Không ai biết phải phản ứng sao.

Julian vươn vai, ra nhà bếp làm bánh mì nướng kẹp phô mai cho cả hai. Cái bếp Aga, loại bếp lò sắt khổng lồ tỏa hơi ấm cho cả gian phòng.

Chết thật, cậu thầm nghĩ, nhìn xuống lát bánh đang bày ra đĩa, nhớ rằng Emma thích cắt bỏ phần viền bánh. Cậu thường hay lấy việc đó để trêu cô. Cậu với tay lấy con dao, một hành động máy móc quen thuộc.

Cậu hình dung mình ngày ngày làm việc này. Sống trong một căn nhà do chính mình thiết kế, một căn như thế này, tầm nhìn hướng ra biển. Một phòng tranh khổng lồ cho cậu. Một phòng tập cho Emma. Cậu hình dung thức dậy mỗi sáng và thấy cô nằm bên cạnh, hay ngồi trong bếp thưởng thức bát bánh ngũ cốc, ngẩng đầu lên mỉm cười khi cậu bước vào.

Làn sóng khao khát quét khắp cả người, làm cậu suýt nghẹn. Không chỉ khao khát thân xác cô mà còn cả ước mơ về một cuộc đời như thế. Một giấc mơ nguy hiểm, cậu tự nhắc nhở. Nguy hiểm như nàng công chúa ngủ trong rừng, rơi vào giấc mộng triền miên trăm năm mới dứt.

Cậu trở ra lò sưởi, ngồi lại cạnh Emma. Mắt sáng ngời, cô mỉm cười cầm lấy cái đĩa trên tay cậu. “Cậu biết mình đang lo cái gì không?”

Tim cậu thắt lại trong lồng ngực. “Cái gì?”

“Church,” cô nói. “Nó chỉ có một mình ở Học Viện L.A.” “Không đâu. Ở đó có cả đống Quân Trưởng.”

“Nhỡ như bọn họ bắt nó thì sao?”

“Vậy thì họ sẽ bị trừng trị đích đáng,” Julian nói, nhích lại gần ngọn lửa.

“Hình phạt đích đáng cho tội bắt trộm mèo là gì?” Emma vừa nhai vừa hỏi.

“Trong trường hợp của Church là phải nuôi nó luôn,” Julian nói.

Emma nhăn mặt. “Cái bánh này mà dính tí viền nào là mình ném vào mặt cậu đó.”

“Sao cậu không ném nguyên cái bánh?”

Cô làm mặt hãi hùng. “Và bỏ luôn cả chỗ phô mai ngon lành? Mình không đời nào lại từ bỏ phô mai ngon lành.”

“Phải ha.” Julian ném một khúc củi nữa vào lò. Quả bóng hạnh phúc căng đầy trong lồng ngực, ngọt ngào và lạ lẫm.

“Phô mai ngon thế này không phải ngày nào cũng có đâu,” cô cho biết. “Cậu biết làm sao để ngon hơn nữa không?”

“Sao?” Cậu ngả người ra sau.

“Một cái bánh nữa.” Cô chìa cái đĩa không ra, cười lớn. Cậu cầm lấy, một khoảnh khắc hoàn toàn bình dị, song cũng là tất cả những gì cậu hằng mong muốn mà chẳng dám mơ tưởng. Một căn nhà, với Emma; cùng vui đùa bên ánh lửa.

Sẽ càng tuyệt vời hơn nữa nếu các anh chị em của cậu cũng sống ở quanh đây, nơi ngày ngày cậu có thể gặp mặt, nơi cậu có thể tập đấu kiếm với Livvy, xem phim với Dru, dạy Tavvy bắn nỏ. Nơi cậu có thể săn tìm động vật với Ty, những con ốc mượn hồn dọc theo mép nước, rúc mình trong lớp vỏ. Nơi cậu có thể nấu những bữa ăn linh đình với Mark, Helen và Aline, và cả nhà sẽ dùng bữa cùng nhau dưới bầu trời sao lộng gió trời hoang vắng.

Nơi cậu có thể nghe thấy tiếng sóng biển như bây giờ. Nơi cậu có thể nhìn thấy Emma, luôn luôn là Emma, một nửa tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn của cuộc đời cậu, người xoa dịu tính tàn bạo trong cậu, người buộc cậu nhìn ra ánh sáng trong khi cậu chỉ thấy toàn bóng tối.

Nhưng tất cả bọn họ phải ở cùng nhau mới được. Từ lâu rồi tâm hồn cậu đã vỡ thành nhiều mảnh, mỗi mảnh sống trong người chị, người anh, người em của mình. Trừ cái mảnh sống trong Emma, đã hòa lẫn vào tận đáy lòng cô bằng ngọn lửa của nghi lễ parabatai, bằng sức ép từ chính trái tim cậu.

Một ý tưởng viển vông. Một giấc mơ không bao giờ thành hiện thực. Cho dù phép màu có xảy ra và gia đình cậu có bình yên vượt qua được sóng gió này, cho dù Helen và Aline có được trở về với họ… thì một ngày nào đó, Emma, Emma của cậu, vẫn sẽ lập gia đình và sống cuộc đời riêng biệt của cô.

Cậu tự hỏi liệu mình có làm phù rể, liệu có dẫn tay cô dọc theo lễ đường. Một hành động thường thấy ở parabatai.

Nghĩ đến đó, ruột gan cậu như bị xẻo thành từng mảnh.

“Cậu có nhớ,” cô nhẹ nhàng đùa cợt, “cái lần cậu nói có thể đem Church vào trong lớp mà không để cô Diana phát hiện, thế rồi bị nó cắn một phát ngay giữa bài giảng về Jonathan Thợ Săn Bóng Tối không?”

“Không nhớ.” Cậu ngồi lại xuống sàn, tay cầm một quyển nhật kí. Hơi ấm trong phòng, mùi trà thơm và bánh mì nướng, ánh lửa chập chờn trên tóc Emma, tất cả hợp lại làm chùng mi mắt cậu. Cậu vừa hạnh phúc cực độ mà vừa đau khổ vô bờ, cái cảm giác bị kéo căng về hai phía trái ngược làm cậu hoàn toàn kiệt sức.

“Cậu ré lên,” cô tiếp. “Rồi nói với cô Diana là bài giảng làm cậu phấn khích quá.”

“Vì cái gì mà cậu nhớ không sót mấy chuyện xấu hổ của mình thế hả?” Cậu thắc mắc thành tiếng.

“Phải có ai nhớ chứ,” cô nói. Gương mặt cô ửng hồng trong ánh lửa. Chiếc vòng thủy tinh trên cổ tay ánh lên, áp vào má lạnh ngắt khi cậu gác đầu xuống.

Cậu cứ sợ không có Cristina, họ sẽ lại cãi vã. Họ sẽ hậm hực gay gắt với nhau. Thế nhưng mọi thứ thật hoàn hảo. Và ở phương diện nào đó, như thế này còn tệ hại hơn rất nhiều.

Cơn đau làm Mark thức giấc lúc nửa đêm, cảm giác như cổ tay bị đóng cả vòng đinh.

Cả nhóm đã làm việc trong thư viện đến tối mịt, Magnus mày mò công thức phép giải trừ, trong khi những người còn lại vùi đầu vào mớ sách cũ viết về Tập Sách Đen. Kết hợp với chỗ kí ức trong viên pha lê aletheia và thông tin bọn Julian gửi cho, họ dần dần tạo được một bức tranh hoàn chỉnh về Annabel và Malcolm, nhưng Mark không thể không tự hỏi thế này thì giúp được gì. Cái họ cần là Tập Sách Đen, và cho dù câu chuyện về nó dệt nên từ quá khứ, nhưng vậy thì có ích gì để tìm nó ở hiện tại đây?

Ở mặt tích cực, anh đã thuyết phục được Kieran ăn hết phần ăn Alec mua ở quán cà phê trên đường Fleet, dù rằng cậu cứ càm ràm mãi rằng nước trái cây không phải là nước trái cây nguyên chất, còn xốt rau thơm là cái thứ không có tồn tại. “Không thể nào đâu,” cậu vừa trừng mắt nhìn cái bánh mì kẹp vừa nói.

Giờ cậu đang say ngủ, rúc người trong chăn dưới cửa sổ phòng Mark, đầu gối lên chồng sách thơ lấy ở thư viện.

Bìa trong mấy cuốn đó đa phần đều có chữ viết tay của một người tên James Herondale, nắn nót chép lại những dòng thơ yêu thích.

Cổ tay Mark nhói lên lần nữa, đi cùng cơn đau là cảm giác chộn rộn không yên. Cristina. Cả ngày nay họ gần như tránh mặt, không nói chuyện với nhau. Phần là vì Kieran, song phần lớn là vì cái phép trói buộc, cái thực tại phũ phàng nằm chen giữa họ.

Mark bước xuống giường, mặc quần bò và áo phông. Anh không ngủ được trong tình trạng này, mãi lo lắng cho cô. Với đôi chân trần, anh bước ra hành lang, tìm về phòng cô.

Nhưng trong đó không có người. Chăn ga trải thẳng, ánh trăng sáng ngời rọi lên.

Không khỏi bối rối, anh bèn đi dọc hành lang, để phép trói buộc dẫn dắt. Cảm giác như đi theo tiếng nhạc vẳng đưa từ dã yến. Anh gần như nghe được cô: cô đang ở đâu đó trong Học Viện.

Đi ngang phòng Kit, anh nghe thấy tiếng người bên trong. Ai đó đang cười... là Ty. Anh nhớ đến cái cách Ty cần mình lúc mới trở về, và giờ nhu cầu ấy đã mất. Kit đã tạo nên một dạng phép màu, bóp nặn cặp sinh đôi thành một bộ ba cân bằng. Ty không còn nhìn Mark như trước nữa, cái ánh nhìn tìm kiếm một người thấu hiểu được mình.

Cũng tốt thôi, Mark nghĩ, bước xuống cầu thang, một lần hai bậc. Vì anh chẳng có lòng dạ đâu mà đi hiểu người khác. Đến bản thân mình anh còn không hiểu nữa là.

Dãy hành lang dài dẫn anh đến cánh cửa đôi sơn trắng, một cánh rộng mở. Bên trong là căn phòng lớn phủ bụi sáng lên trong luồng sáng tờ mờ.

Rõ ràng nó đã không được sử dụng trong nhiều năm, nhưng cũng không quá bụi bặm. Vải trắng phủ trùm lên hầu hết đồ đạc. Ô cửa sổ vòm hướng ra sân trong và bầu trời lấp lánh sao đêm.

Cristina đang đứng giữa phòng, ngẩng đầu nhìn lên một ngọn đèn chùm. Có ba cái tổng cộng, xếp thành hàng ngang, không thắp đèn, song những khối pha lê vẫn lấp lánh.

Anh để cánh cửa đóng lại sau lưng, cô xoay người. Cô không lộ vẻ ngạc nhiên khi thấy anh. Cô mặc chiếc váy đen dường như được cắt may cho một người thấp hơn, mái tóc cột gọn ra sau.

“Mark,” cô nói. “Anh không ngủ được à?”

“Không ngon lắm.” Anh rầu rĩ nhìn xuống cổ tay, song ở cạnh Cristina đã làm cơn đau biến mất. “Cô cũng cảm thấy phải không?”

Cô gật đầu. Đôi mắt sáng ngời. “Mẹ tôi nói phòng khiêu vũ ở Học Viện London là căn phòng đẹp nhất mà bà từng thấy.” Cô nhìn quanh, những tấm giấy dán tường kẻ sọc thời Edward, những tấm rèm nhung dày hai bên cửa sổ. “Nhưng khung cảnh bà thấy nhất định là hồi nơi này còn sống động đầy ắp con người. Giờ thì nó như lâu đài của công chúa ngủ trong rừng. Như thể Cuộc Chiến Hắc Ám đã bủa vây nó bằng gai góc, và từ đó nó chìm vào giấc ngủ say.”

Mark đưa tay ra, vết thương cắt một đường quanh cổ tay, nhìn như cái vòng thủy tinh biển của Julian. “Hãy cùng đánh thức nó nào,” anh nói. “Nhảy với tôi.”

“Nhưng không có nhạc,” cô nói. Song vẫn khẽ lắc lư về phía anh.

“Tôi đã nhiều lần khiêu vũ ở dã yến,” anh nói, “một nơi không có kèn cũng không có trống, chỉ có âm nhạc của gió và sao. Tôi có thể chỉ cho cô.”

Cô tiến về phía anh, mặt dây chuyền vàng ánh lên trên cổ. “Thần kì làm sao,” cô nói, đôi mắt to đen long lanh tinh nghịch. “Hoặc tôi có thể làm thế này.”

Cô rút điện thoại trong túi ra, bấm vài nút. Tiếng nhạc phát ra qua cái loa nhỏ: không lớn lắm, nhưng Mark cảm nhận được. Không phải một giai điệu quen thuộc, nhưng dồn dập sôi động, rần rần đánh nhịp suốt mạch máu anh.

Anh đưa hai tay ra. Đặt điện thoại xuống bệ cửa sổ, cô nắm lấy tay anh, cười vang khi được anh kéo vào lòng. Hai cơ thể khẽ chạm, rồi cô xoay ra, kéo cả anh theo. Nếu có suy nghĩ mình là người dẫn dắt thì e là anh đã lầm mất rồi.

Anh sải từng bước theo, cô đong đưa như lửa, luôn luôn đi trước anh một nhịp, cả người cô xoay tít, mái tóc dần tuột ra xõa tung quanh mặt. Ngọn đèn chùm lấp lánh như những giọt mưa, Mark siết chặt lấy tay Cristina. Anh xoay cô một vòng; cô quay lại, tấm thân lướt hờ qua. Anh giữ lấy hông, kéo cô về phía mình.

Và giờ cô ở trong vòng tay anh, khe khẽ đong đưa, chạm vào anh đến đâu là như đánh lửa lên đến đấy. Mọi thứ trong đầu anh trôi tuột đi hết, chỉ còn có Cristina. Ánh đèn hắt lên làn da nâu, đôi má ửng hồng, tà váy tung bay khi cô xoay người, để lộ một thoáng cặp đùi mịn màng mà anh đã hàng trăm lần mơ tưởng.

Anh đỡ lấy thắt lưng cho cô ngả hẳn ra sau, thân người uyển chuyển, tóc chạm đến sàn. Rồi khi cô đứng thẳng lên lại, đôi mắt khép hờ, anh chẳng thể nào kiềm chế nổi nữa. Kéo cô vào lòng, anh hôn lên môi cô.

Cô vùi tay vào tóc anh, những ngón tay giật mạnh kéo sát anh lại gần hơn nữa. Cô có vị như làn nước trong lành mát mẻ, anh mút lấy môi cô như một kẻ sắp chết khát. Cả người anh là một nỗi nhức nhối tận cùng, và khi cô rời ra, anh đã khẽ rên. Nhưng cô lại cười, mắt không rời anh, nhún nhảy lùi lại với đôi tay mời gọi. Da thịt anh căng cứng; anh thèm được hôn cô lần nữa, thèm được để tay mình lần vào nơi mắt đã đặt lên: vuốt dọc đôi chân dài qua lớp váy, lên đến thắt lưng, lên đến tấm lưng với những thớ cơ nhẵn mịn chạy dọc theo xương sống.

Anh muốn cô, một ham muốn rất đỗi con người; không phải ánh sao hay những điều lạ lẫm, mà là ngay đây và ngay lúc này. Anh sải bước tới, vươn tay toan nắm lấy tay cô. “Cristina…”

Cô sững người, trong thoáng giây hãi hùng anh cứ nghĩ là tại mình. Nhưng cô đang nhìn qua người anh. Anh quay lại, thấy Kieran đứng tựa bên khung cửa, ánh mắt âm trầm đặt lên cả hai người.

Mark chết điếng. Cái tâm trí mãi cũng chịu tỉnh ra liền phát hiện mình đã quá ngu ngốc, ngu ngốc không tưởng khi làm cái điều đang làm. Nhưng Cristina không có lỗi. Nếu Kieran nổi cơn tam bành với cô…

Nhưng khi lên tiếng, giọng Kieran lại hết sức nhẹ nhàng. “Mark à,” cậu nói. “Anh đúng là chẳng biết gì đúng không? Anh phải chỉ cho cô ấy đàng hoàng đi chứ.”

Cậu bước về phía họ, một hoàng tử thần tiên đích thực với tất cả phong thái tao nhã. Cậu mặc áo sơmi trắng, quần ôm, mái tóc đen lòa xòa bên vai. Đến giữa phòng, cậu đưa tay ra trước Cristina. “Thưa tiểu thư,” cậu cúi người. “Mạn phép cho ta mời người một điệu chứ?”

Cristina lưỡng lự trong thoáng giây rồi gật đầu.

“Cô không cần phải làm vậy đâu,” Mark thì thầm. Cô chỉ nhìn anh hồi lâu, đoạn theo Kieran bước ra giữa sàn.

“Mời,” Kieran nói, bắt đầu đưa chân.

Mark không nghĩ đã từng khiêu vũ với Kieran, ở dã yến thì chưa; họ đã luôn cố che giấu mối quan hệ trước mặt cư dân Thế giới Thần Tiên. Và Kieran, nếu đã không thể nhảy với bạn tình thì sẽ chẳng nhảy với ai khác hết.

Nhưng giờ thì cậu đang nhảy. Nếu Cristina đưa mình như lửa thì Kieran lại chuyển động như chớp. Sau thoáng giây ngập ngừng, Cristina rồi cũng hòa nhịp theo. Cậu vòng tay đỡ lấy cô, nhấc bổng lên bằng sức mạnh thần tiên, lả lướt thành vòng. Cô kêu thốt lên, gương mặt sáng bừng trong niềm vui nhạc vũ.

Mark đứng đờ ra đấy, nửa ngượng ngùng nửa bối rối. Kieran đang làm cái gì đấy? Cậu đang nghĩ cái gì vậy? Một dạng chỉ trích đấy ư? Nhưng nhìn không giống. Kieran đã thấy những gì? Nụ hôn, hay chỉ mỗi màn nhảy múa?

Cristina cười vang. Anh mở to hai mắt. Thật không tin được. Cô và Kieran là hai vì sao quấn lấy nhau, chỉ vừa chạm vào nhưng đánh bùng lên vô vàn tia lửa. Và Kieran đang mỉm cười, mỉm cười thật sự. Một nụ cười thay đổi cả gương mặt, làm cậu trẻ trung đúng với độ tuổi mình.

Bản nhạc kết thúc. Cristina ngừng nhảy, bỗng chốc trở nên thẹn thùng. Kieran đưa tay vén mái tóc dài của cô ra sau vai, đoạn nghiêng người đến hôn lên má cô. Đôi mắt cô ngỡ ngàng mở to.

Và chỉ khi ấy cậu mới lùi lại, mới nhìn đến Mark. “Đấy,” cậu nói. “Là cách dòng máu thần tiên nhảy múa.”

“Dậy.”

Kit rên rỉ trở người. Cậu mãi mới dỗ mình ngủ được và đang mơ giấc mơ đẹp với bố trên bãi biển. Đành rằng bố chưa từng dẫn cậu xuống biển, nhưng bởi vậy mấy giấc mơ mới có công ăn việc làm chứ, đúng không?

Trong giấc mơ, bố đã đặt tay lên vai cậu và nói, Bố biết con sẽ trở thành một Thợ Săn Bóng Tối tài giỏi.

Trên thực tế thì Johnny Rook chẳng thà thấy cậu làm kẻ sát nhân hàng loạt còn hơn, nhưng để tâm làm gì. Chật vật kéo mình khỏi giấc ngủ, Kit vẫn mang theo hình ảnh nụ cười thấu suốt của bố vào lần cuối cậu nhìn thấy, cái buổi sáng Johnny Rook bị lũ quỷ của Malcolm Fade xé xác.

“Cậu có nghe không vậy?” Tiếng người gọi Kit càng lúc càng giục giã hơn. “Dậy đi!”

Kit mở mắt. Căn phòng chìm trong ánh đèn phù thủy nhàn nhạt, một cái bóng đen chờn vờn ngay bên giường cậu. Kí ức về lũ quỷ Bọ Ngựa chưa tan trong tiềm thức, cậu vội vàng bật dậy.

Cái bóng nhanh nhẹn lùi lại, tránh bị Kit đập trúng. Ngọn đèn giơ lên cao, soi rõ người Ty, mái tóc đen mềm bù xù như tổ quạ, chẳng khác chi vừa bò khỏi giường đã chạy sang phòng Kit mà chẳng thèm chải qua. Cậu ta mặc chiếc áo hoodie xám Julian cho trước khi đi Cornwall, có lẽ phần vì tiện tay, phần để an ủi. Sợi dây tai nghe kéo dài từ túi áo lên tới cổ.

“Watson,” cậu ta nói. “Tôi muốn gặp cậu.” Kit rên rỉ, dụi dụi mắt. “Gì? Mấy giờ rồi?”

Ty xoay viên đá phù thủy trong tay. “Cậu có biết cái câu đầu tiên được nói qua điện thoại chính là ‘Watson, đến đây, tôi muốn gặp cậu’ không?”

“Một Watson khác hoàn toàn à,” Kit chỉ ra.

“Tôi biết,” Ty nói. “Chỉ thấy vui vui thôi.” Cậu ta giật nhẹ sợi dây tai nghe. “Tôi muốn gặp cậu thật. Hay đúng hơn là tôi có việc cần làm và muốn cậu đi cùng. Hồi sáng cậu đã nói vài điều làm tôi phải suy nghĩ và nghiên cứu lại.”

Kit đá cái chăn ra. Cậu không thay quần áo khi ngủ, cái thói quen hình thành từ hồi bố giao dịch bất thành mấy bận, và suốt mấy ngày liền họ phải đi ngủ trong tinh thần sẽ thức dậy bất kì lúc nào và cuốn gói chạy ngay. “Nghiên cứu?” Cậu hỏi.

“Nó ở trong thư viện,” Ty nói. “Tôi có thể chỉ cho cậu xem trước khi đi. Nếu cậu muốn.”

“Tôi muốn xem.”

Kit leo xuống giường, xỏ giày vào rồi cầm lấy áo khoác, theo Ty bước ra hành lang. Cậu biết mình đúng lí phải mệt lắm, nhưng cái năng lượng tỏa ra từ Ty, cái nguồn sáng và sự tập trung nơi cậu ta tác động lên cậu như một ly cà phê đậm. Nó đánh thức trong cậu một cảm giác hứa hẹn tràn đầy, như thể mọi khoảnh khắc trước mắt bỗng dưng chứa đựng vô vàn triển vọng.

Thư viện, Ty bước tới chiếc bàn bày đầy mớ ghi chép và tranh vẽ của Annabel nhóm Julian gửi từ Cornwall. Kit vẫn chỉ thấy một đống lộn xộn rối nùi, song Ty lại lướt ngọn đèn phù thủy qua mấy trang giấy với một vẻ tự tin đoan chắc.

“Còn nhớ lúc chúng ta nói về việc Malcolm và Annabel dùng quạ để đưa thư cho nhau chứ? Trên tàu ấy? Và cậu nói nghe phiêu quá?”

“Nhớ,” Kit đáp.

“Nó làm tôi nảy ra một ý,” Ty nói. “Cậu giỏi cho tôi gợi ý lắm đấy. Chẳng biết tại sao.” Cậu ta so vai. “Mà thôi. Chúng ta sẽ đi Cornwall.”

“Chi? Cậu tính đào mộ con chim lên để tra hỏi nó à?” “Đương nhiên là không.”

“Chỉ đùa thôi Ty…” Kit khựng lại khi cuối cùng cũng nghiệm ra điều Ty vừa nói. “Cái gì? Đi đâu cơ?”

“Tôi biết cậu nói đùa,” Ty cầm một tờ giấy in bức vẽ lên. “Livvy bảo tôi rằng khi nghe một câu đùa không vui, lịch sự nhất là cứ lờ đi. Thế là không đúng à?”

Cậu ta lộ vẻ lo lắng, Kit nhìn mà muốn ôm cậu ta, ôm như cái đêm trên sân thượng. “Không, đúng chứ,” cậu nói, vội vàng theo chân Ty ra khỏi thư viện. “Chẳng qua hài hước vốn mang tính chủ quan. Cùng một thứ nhưng người này thì thấy buồn cười, người khác lại không.”

Ty nhìn cậu bằng ánh mắt thân thiện chân thành. “Tôi chắc rằng có nhiều người thấy cậu hài hước lắm.”

“Chứ còn gì nữa.” Cả hai rảo bước xuống một dãy cầu thang, tiến vào bóng tối. Kit băn khoăn không biết đang đi đâu, nhưng cũng chẳng bận tâm mấy. Niềm hào hứng râm ran nơi đầu ngón tay cậu, hứa hẹn một cuộc phiêu lưu. “Nhưng Cornwall thật sao? Bằng cách nào? Livvy thì sao?”

Ty không quay lại. “Đêm nay tôi không muốn dẫn chị ấy theo.”

Họ đã xuống tới chân cầu thang. Ở đó có một cánh cửa dẫn vào một căn phòng đá rộng rãi. Hầm mộ nhà thờ. Sàn và bốn vách tường lát những phiến đá sẫm màu, trơn nhẵn, những cái đế cắm bằng đồng gắn vào hàng cột đá, có lẽ dùng để treo đèn. Ánh sáng hiện tại chỉ đến từ viên đá rune nắm trong tay Ty.

“Chính xác thì chúng ta đang làm gì vậy?” Kit hỏi.

“Còn nhớ lúc tôi ở lại nói chuyện với Hypatia Vex trong cửa hiệu chứ?” Ty nói. “Bà ta cho tôi biết dưới này có một Cổng Dịch Chuyển cố định. Cũ lắm rồi, có lẽ là một trong những cái đầu tiên, tạo ra vào khoảng năm 1903. Nó chỉ dẫn tới Học Viện Cornwall. Clave không biết và cũng không quản lý nó.”

“Một cái Cổng không được quản lý?” Kit nói. Ty bước dọc quanh phòng, soi đèn vào mấy vết nứt và góc khuất trên tường. “Vậy không phải sẽ nguy hiểm sao?”

Ty không nói gì. Treo dọc tường là những tấm thảm thêu, mỗi tấm cách nhau một khoảng. Cậu ta lật từng tấm lên, rọi đèn vào bức tường phía sau. Phiến đá hắt sáng lấp lánh như những con đom đóm.

“Hèn gì cậu không muốn Livvy đi theo,” Kit nói. “Việc này thật sự nguy hiểm.”

Ty thẳng lưng lên. Tóc là một cái tổ quạ. “Chị ấy đã bị thương rồi,” cậu ta nói. “Tại tôi.”

“Ty…”

“Tôi cần phải tìm cái Cổng.” Ty dựa vào tường, nhịp nhịp tay. “Tôi đã kiểm tra đằng sau toàn bộ mấy tấm thảm thêu.”

“Hay là kiểm tra chính tấm thảm xem?” Kit đề nghị.

Ty nhìn cậu hồi lâu, ánh mắt trầm ngâm với thoáng nào kinh ngạc. Đôi mắt xám ấy ánh lên khi cậu ta quay đi kiểm tra mấy tấm thảm lần nữa. Mỗi tấm thêu một bức tranh thời kì trung cổ: lâu đài, thành quách, tháp, đường, ngựa, chiến trường. Ty dừng lại trước cái tấm thêu hình một hàng giậu cao, chính giữa có một cánh cổng vòm. Qua cánh cổng có thể thấy đại dương rộng mở.

Cậu ta đặt tay lên tấm thảm, một hành động thăm dò ngập ngừng. Ánh sáng lóe lên. Kit vội chạy tới, tấm thảm tỏa ánh lung linh, lấp lánh đủ màu như một vệt dầu loang.

Ty nhìn lại cái bức tranh trên tay mình, đoạn quay đầu, chìa tay kia ra cho Kit. “Nhanh chân lên.”

Kit vươn tay nắm lấy. Tay cậu đan vào tay Ty, ấm áp và mạnh mẽ. Ty bước vào Cổng Dịch Chuyển, sắc màu tách ra rồi cuộn lên quanh người, cậu ta hóa vô hình hết nửa, bàn tay nắm chặt Kit kéo mạnh theo.

Kit bám chặt lấy. Nhưng rồi trong cơn lốc điên cuồng của Cổng Dịch Chuyển, cậu đã bị tuột tay. Cơn hoảng loạn bùng lên, cậu gào to cái gì đấy…, cậu cũng chẳng rõ. Thế rồi cơn gió trong Cổng Dịch Chuyển cuốn lấy cậu qua một lối vào âm u, ném mạnh xuống lớp cỏ ẩm ướt giữa một bầu không gian lạnh buốt.

“Sao?” Ty đứng nhìn xuống cậu, đèn phù thủy trên tay. Phía sau cậu ta là mảng trời vời vợi lấp lánh triệu ánh sao đêm.

Kit nhăn mặt đứng lên. Cậu đã dần quen với trò dịch chuyển qua Cổng, nhưng vẫn không thích tí nào.

“Gì vậy?” Ty không nhìn thẳng vào mắt Kit, song vẫn ngó nghiêng người cậu như để tìm kiếm thương tích. “Cậu gọi tên tôi.”

“Có hả?” Kit nhìn quanh. Thảm cỏ xanh thoai thoải đổ dốc về ba phía, phía thứ tư thì vươn cao đến khi gặp một ngôi nhà thờ lớn màu xám. “Chắc là tôi sợ cậu bị lạc mất trong Cổng Dịch Chuyển.”

“Chuyện đó chỉ xảy ra vài lần thôi. Trên số liệu là cực kì thấp.” Ty giơ ngọn đèn phù thủy lên. “Đây là Học Viện Cornwall.”

Xa xa kia, Kit có thể thấy bóng trăng soi trên mặt nước đen ngòm. Biển. Ngôi nhà thờ phía trước họ là một khối kiến trúc cao to bằng đá xám, những ô cửa sổ vỡ toang, cửa chính đã bị gãy mất. Phần mái chóp nhọn đâm thẳng lên mây, hắt sáng trong trăng. Cậu khẽ huýt sáo. “Cái nơi này bị bỏ hoang bao lâu rồi vậy?”

“Vài năm thôi. Không đủ Thợ Săn Bóng Tối để duy trì nhân lực cho tất cả Học Viện. Từ sau Cuộc Chiến Hắc Ám.” Ty nhìn xuống bức tranh trên tay mình, rồi đến khung cảnh xung quanh. Kit có thể nhìn ra tàn tích của khu vườn hoang phế: cỏ dại mọc lẫn giữa bụi hồng khô héo, thảm cỏ um tùm không người cắt tỉa, rong rêu bao phủ mấy chục bức tượng rải rác khắp vườn như những nạn nhân của Medusa. Một con ngựa tung vó cạnh cậu bé đang để chú chim đậu lên cổ tay. Người phụ nữ cầm chiếc ô xinh xắn. Những con thỏ đá be bé ló mình qua cỏ rậm.

“Có tính vào trong không?” Kit ngờ vực hỏi. Cậu không thích mấy cái ô cửa tối om kia. “Đến đây vào buổi sáng không phải hay hơn à?”

“Không cần vào trong.” Ty giơ lên bức tranh đem theo. Trong ánh đèn phù thủy, Kit có thể thấy nó là một bức phác họa tòa Học Viện cùng khu vườn, song là vẽ vào ban ngày. Nơi này không thay đổi mấy qua hai trăm năm. Vẫn bụi hồng đó, vẫn bức tượng kia. Nhưng dường như bức tranh này vẽ vào mùa đông, bởi mấy rặng cây đều trơ trụi lá. “Cái chúng ta cần ở ngoài này.”

“Chúng ta cần gì?” Kit hỏi. “Nói tôi nghe đi mà. Chuyện này thì liên quan gì tới cái lời bình vô thưởng vô phạt về đám quạ không đáng tin của tôi?”

“Mấy con quạ đúng là không đáng tin. Vấn đề là Malcolm không có nói nó là một con quạ sống, hay một con chim thật sự. Là chúng ta nghĩ vậy thôi.”

“Nhưng mà…” Kit nín bặt. Cậu tính nói rằng quạ chết thì đưa thư kiểu gì được, nhưng vẻ mặt Ty có nét gì đó làm cậu phải im miệng.

“Thật ra sẽ hợp lý hơn nhiều nếu họ giấu thư vào một nơi bí mật,” Ty nói. “Một nơi cả hai có thể dễ dàng lấy được.” Cậu ta băng qua thảm cỏ, đến trước bức tượng cậu bé có con chim đậu trên tay.

Kit bỗng chột dạ. Cậu không rành về chim chóc, song cái con này tạc bằng đá đen bóng. Và nhìn rất giống mấy bức tranh vẽ quạ cậu từng thấy qua.

Ty vuốt ngón tay lên con chim đá. Cạch một cái, rồi bản lề ken két mở ra. Kit vội chạy đến, nhìn Ty nạy cái hốc nhỏ trên lưng con chim ra. “Có gì bên trong không?”

Ty lắc đầu. “Trống không.” Cậu ta đút tay vào túi áo, lấy ra một mảnh giấy gấp rồi thả vào trong cái hốc, sau đó đóng lại như cũ.

Kit khựng người. “Cậu để lại một thông điệp.”

Ty gật đầu. Cậu ta gấp bức vẽ nhét vào trong túi. Bàn tay nắm viên đá hờ hững buông thõng: ngọn đèn phù thủy mờ nhạt, ánh trăng vằng vặc đã đủ để họ thấy đường.

“Cho Annabel à?” Kit hỏi.

Ty ngập ngừng. “Đừng nói ai nhé,” cậu ta rồi cũng đáp. “Chỉ là một ý tưởng vậy thôi.”

“Thông minh mà,” Kit nói. “Rất thông minh… tôi không nghĩ có ai lại đoán ra vụ bức tượng. Tôi không nghĩ có người đoán nổi đâu.”

“Nhưng nhỡ chẳng ích gì,” Ty nói. “Vậy thì coi như tôi thất bại. Và tôi không muốn người khác biết được.” Cậu ta khẽ lầm bầm gì đó như thi thoảng vẫn làm.

“Tôi hiểu.”

Ty tạm ngưng tràng lẩm bẩm để trả lời. “Nếu là cậu thì tôi không phiền.”

Kit muốn hỏi tại sao không, cực kì muốn, nhưng dường như đến Ty cũng không biết đáp án là gì. Và cậu ta vẫn đang lẩm bẩm, một chuỗi những tiếng rì rầm trầm bổng như tụng kinh. “Cậu nói gì vậy?” Kit rồi cũng hỏi, chẳng biết là có nên hay không song chẳng nén nổi tính tò mò.

Ty nhìn lên vầng trăng qua hàng mi. Thật dày và đen, tựa như một đứa trẻ. Nó mang đến cho gương mặt cậu ta cái nét ngây thơ non trẻ, đối lập lạ lùng với cái tư duy sắc sảo gần như đáng sợ. “Chỉ là những từ tôi thích thôi,” cậu ta nói. “Tự nói với bản thân như thế, nó làm tâm trí tôi… tĩnh lặng đi. Cậu có phiền không?”

“Không hề!” Kit đáp ngay. “Tôi chỉ tò mò không biết cậu thích từ gì.”

Ty cắn môi. Trong thoáng giây Kit cứ ngỡ cậu ta sẽ không đáp. “Nghĩa không quan trọng, chẳng qua là cái âm,” cậu ta nói. “Tấm kính, song sinh, quả táo, thì thầm, ngôi sao, pha lê, bóng tối, du dương.” Cậu ta đảo mắt đi, một bóng hình run rẩy trong chiếc áo hoodie quá khổ, mái tóc đen hút sạch ánh trăng và không trả lại tí gì.

“Để tôi thì thầm với nào,” Kit nói. Cậu bước lên một bước, nhẹ nhàng đặt tay lên vai Ty. “Đám mây, bí mật, cao tốc, bão lốc, gương soi, lâu đài, bụi gai.”

“Blackthorn,” Ty nói, mỉm cười rạng rỡ, và ngay chính lúc ấy, Kit biết rằng bao nhiêu kế hoạch trốn chạy cậu toan tính mấy ngày qua đều là tự lừa mình hết. Có lẽ tại những lời nói dối ấy mà Livvy mới phản ứng, mới quát lên với cậu ở trước cửa hiệu phép thuật. Cái mảnh tim cốt lõi cứ tự nhủ rằng cậu rồi sẽ ra đi.

Nhưng giờ cậu biết mình có thể trấn an cô. Cậu sẽ không rời bỏ thế giới Thợ Săn Bóng Tối. Cậu sẽ không đi đâu hết. Bởi vì từ bây giờ, gia đình Blackthorn ở đâu thì ở đó chính là nhà cậu.