N
gồi trong căn phòng nhỏ trên tiệm vũ khí, Diana lật giở từng trang hồ sơ Jia đưa cho.
Đã không bước vào căn phòng này kể từ sau Cuộc Chiến Hắc Ám, nhưng nơi đây vẫn mang đến cho cô cảm giác thoải mái thân thuộc. Chiếc chăn bà may được gấp lại đặt ở cuối giường, cặp dao găm bằng gỗ bố tặng để cô luyện tập treo trên vách, chiếc khăn choàng của mẹ vắt ngang lưng ghế. Cô đang bận một bộ đồ ngủ bằng sa tanh đỏ vốn tìm thấy trong một cái rương cũ, liền thích thú mặc vào ngay.
Nhưng niềm vui chóng tàn khi cô ngồi đọc từng trang trong tập hồ sơ màu kem. Câu chuyện đầu tiên là Zara tường thuật lại việc giết Malcolm, với Samantha và Dane kí tên làm chứng. Nhưng cặp chị em Samantha có nói trời màu xanh thì cô cũng chẳng tin.
Zara khẳng định Quân Trưởng đã đánh đuổi được Malcolm trong đợt tấn công đầu tiên, rồi tới đêm hôm sau, cô ta đã can đảm tuần quanh vành đai Học Viện, phát hiện ra tên pháp sư thập thò trong bóng tối và cuối cùng đánh bại hắn trong một trận đấu kiếm. Cô ta báo lại rằng xác hắn sau đó đã biến mất.
Malcolm đâu phải kiểu người thập-thò-trong-bóng- tối, và theo những gì Diana thấy vào cái đêm hắn quay lại, hắn vẫn còn phép thuật. Việc gì hắn phải đấu kiếm với Zara trong khi có thể dùng lửa đánh tan xác con bé ấy.
Nhưng vậy vẫn chưa thể chứng minh con bé nói dối. Diana cau mày, lật sang mấy trang nữa, đoạn ngồi thẳng lên. Ở đây không chỉ có báo cáo về cái chết của Malcolm. Cả một sớ dài về Zara. Hàng chục báo cáo chiến công. Cả một xấp dày thế này thì đúng là một bảng thành tích đáng nể. Thế nhưng…
Diana đọc kĩ từng tờ, cẩn thận ghi chú lại, chẳng mấy chốc đã nhìn ra một cái khung sườn chung. Tất cả thành công của Zara, tất cả chiến thắng, đều diễn ra ở nơi chẳng có ai chứng kiến trừ cái hội nho nhỏ của nó: Samantha, Dane, hay Manuel. Những người khác khi đến nơi sẽ chỉ thấy một cái ổ quỷ trống không, hay dấu vết giao chiến, ngoài ra chẳng còn gì nữa.
Không báo cáo nào ghi rằng Zara bị thương trong lúc chiến đấu. Diana nghĩ đến những vết sẹo trong suốt cuộc đời Thợ Săn Bóng Tối của mình, đôi mày cau tít. Và lại càng cau dữ hơn khi đọc đến báo cáo năm ngoái của Marisol Garza Solcedo. Marisol khẳng định chính mình đã giải cứu một nhóm người phàm trước cuộc tấn công của quỷ Druj ở Bồ Đào Nha. Rồi cô bị đánh bất tỉnh. Khi tỉnh lại, cô nói rằng người ta đang chúc mừng Zara đánh bại được quỷ Druj.
Bản báo cáo này nộp cùng bản tường trình có kí tên Zara, Jessica, Samantha, Dane, và Manuel, quả quyết Marisol chỉ tưởng tượng. Họ nói Zara đã giết con quỷ Druj trong một trận ác chiến; một lần nữa, Zara chẳng dính vết thương nào.
Con nhỏ đó cướp công của người khác, Diana thầm nghĩ. Cửa sổ phòng kêu lạch cạch, chắc là gió. Mình phải đi ngủ thôi. Chiếc đồng hồ mới lắp ở Gard sau Cuộc Chiến Hắc Ám đã điểm hồi chuông báo bình minh cách đây không lâu. Nhưng cô vẫn cứ mải mê đọc tiếp. Zara luôn đứng ngoài chờ cuộc chiến ngã ngũ mới nhảy vào tuyên bố chiến thắng cho mình. Có cái nhóm kia phụ họa, Clave cứ thế mặc nhiên chấp nhận lời khai của con bé.
Nhưng nếu có thể chứng minh con bé đã không giết Malcolm mà không đả động đến bọn Julian… vậy thì có khả năng Kiêu Binh sẽ bị mất mặt. Rồi cái âm mưu thâu tóm Học Viện Los Angeles của bố con Dearborn sẽ phải thất bại…
Cửa sổ lại kêu lạch cạch. Cô nhìn lên, trông thấy Gwyn ở ngay bên ngoài.
Giật mình kêu oái, cô vội bật dậy, làm giấy tờ bay tứ tung. Bình tĩnh coi, cô tự nhủ. Làm gì có chuyện thủ lĩnh Hội Săn Hoang xuất hiện bên ngoài cửa sổ nhà cô chứ.
Cô chớp mắt, nhìn lại lần nữa. Ông ta vẫn ở ngoài kia, và khi đến gần cửa sổ, cô nhận ra ông ta đang cưỡi trên một con ngựa xám to tướng, bốn vó chờn vờn ngay trên bệ cửa. Ông ta mặc áo da nâu sẫm, chiếc nón giáp sừng nai chẳng thấy đâu. Vẻ mặt vừa trang nghiêm, lại vừa tò mò.
Ông ta ra hiệu cho cô mở cửa. Diana ngần ngừ, nhưng cũng đưa tay mở chốt rồi đẩy khung cửa lên. Không cần phải mời ông ta vào, cô tự nhủ. Họ có thể nói chuyện qua khung cửa.
Gió lạnh lùa vào phòng, mang theo hương thông rừng và buổi sớm mai. Đôi mắt hai màu đặt trọn lên người cô. “Thưa tiểu thư,” ông ta nói. “Ta mong tiểu thư có thể lên ngựa cùng ta.”
Diana vén lọn tóc ra sau vành tai. “Để làm gì?”
“Để được hưởng niềm vui có cô bầu bạn,” Gwyn nói, nhìn cô chăm chú. “Một bộ y phục lụa quý phái. Cô sắp có khách sao?”
Cô lắc đầu, không khỏi buồn cười. Chậc, bộ đồ ngủ đúng là đẹp thật.
“Cô thật xinh đẹp,” ông ta tiếp. “Ta thật may mắn biết bao.”
Cô không nghĩ ông ta nói dối. Ông ta đâu thể nói dối chứ.
“Ngài không thể sắp xếp cuộc gặp này trước được à?” Cô hỏi. “Gửi tin nhắn cho tôi chẳng hạn.”
Ông ta lộ vẻ bối rối. Hàng mi dài, chiếc cằm vuông, một gương mặt ưa nhìn. Một gương mặt điển trai. Diana không hay nghĩ đến mấy thứ đó, bởi chúng chỉ toàn đem lại rắc rối, nhưng giờ thì cô không thể không nghĩ. “Tôi chỉ vừa biết được cô ở Idris ngay sáng này” ông ta nói.
“Nhưng ngài đâu được phép đến đây!” Cô lo lắng nhìn xuống đường Flintlock vắng vẻ. Nhỡ ai đó mà thấy…
Ông ta cười thật tươi. “Chỉ cần ngựa của ta không chạm móng xuống mặt đất Alicante thì sẽ không có báo động nào đâu.”
Thế nhưng cái bong bóng căng thẳng vẫn phình lên trong lồng ngực cô. Ông ta đang rủ rê cô…, cô không thể vờ như không biết được. Và dù cô muốn đi thật đấy, nhưng nỗi sợ…, nỗi sợ xa xưa luôn đồng hành với hoài nghi và đau khổ, đã níu chân cô lại.
Ông ta chìa tay ra. “Đi với ta nào. Bầu trời đang đợi.”
Cô nhìn thẳng vào ông ta. Không trẻ, nhưng cũng không già. Một gương mặt không tuổi như đa phần các thần tiên, và dù bản thân toát lên cái nét kiên định trầm tư, ông ta vẫn mang bên mình lời hứa về trời cao và gió lộng. Bao giờ mày mới có cơ hội cưỡi ngựa tiên nữa chứ? Diana tự hỏi. Bao giờ mày mới được bay nữa chứ?
“Ngài sẽ gặp không ít rắc rối đâu nếu bị người ta phát hiện,” cô thì thầm.
Ông ta so vai, tay vẫn không thu lại. “Đã thế thì cô nên nhanh chân đi vậy.”
Cô bèn trèo ra cửa sổ.
Cả nhà ăn sáng muộn; Kit tranh thủ chợp mắt được vài tiếng, tắm rửa cho khỏe người rồi mới lần mò xuống phòng ăn, thấy rằng tất cả đã ngồi vào chỗ.
À, tất cả trừ cụ Evelyn. Bridget đang châm trà, mặt mày cau có như thường lệ. Alec và Magnus mỗi người ẵm một đứa con trên đùi, lần lượt giới thiệu với Kit: Max là bé con pháp sư da xanh đang phun nước xốt nâu lên chiếc áo thiết kế của Magnus, còn Rafe là cậu nhóc mắt nâu đang ngồi xé vụn ổ bánh mì.
Kieran chẳng thấy đâu, cũng không có gì lạ. Mark ngồi cạnh Cristina đang lẳng lặng nhấp cà phê. Nhìn chị ta vẫn tươm tất, tự chủ như thường lệ, mặc cho cái cổ tay đỏ ửng. Chị ta là một bí ẩn thú vị đấy chứ, Kit thầm nghĩ, cũng chẳng phải người nhà Blackthorn như cậu, nhưng vẫn gắn bó chặt chẽ với nhà Blackthorn.
Rồi kia là Livvy và Ty. Ty đeo tai nghe. Livvy nhìn mệt mỏi nhưng hoàn toàn khỏe mạnh. Chỉ nhờ cái quầng thâm nhàn nhạt dưới mắt Ty mà Kit biết mình không có nằm mơ ra toàn bộ chuyện xảy ra tối hôm qua.
“Bọn em tìm được ở Dinh Blackthorn một viên pha lê aletheia,” Ty nói lúc Kit ngồi xuống. “Trước đây Clave sử dụng loại pha lê này để lưu trữ bằng chứng. Bằng chứng kí ức.”
Một tràng xì xầm hiếu kì vang lên. Giọng Cristina át hẳn tất cả, một biệt tài ấn tượng của chị ta đấy, khiến ai cũng phải nghe dù không lớn tiếng. “Kí ức về cái gì?”
“Một phiên xét xử,” Livvy nói. “Ở Idris, có mặt Điều Tra Viên. Nhiều gia đình quen thuộc, Herondale, Blackthorn, và tất nhiên là Dearborn.”
“Có nhà Lightwood không?” Alec hỏi.
“Có một hai người nhìn tương đối giống.” Livvy cau mày. “Nhà Herondale trước giờ đã nổi tiếng xinh đẹp,” Bridget nói, “nhưng theo ý tôi, nhà Lightwood mới là những người gợi tình nhất hội.”
Alec phun trà. Magnus xem chừng phải tốn không ít sức để giữ bộ mặt nghiêm túc.
“Tôi sẽ kiểm tra lại chỗ kí ức,” Magnus nói. “Để xem có nhận ra ai ở thời kì đó không.”
“Nếu Annabel căm giận Thợ Săn Bóng Tối thì em thấy cô ấy có lí do chính đáng đấy,” Livvy nói.
“Nhiều người có lí do chính đáng để căm tức Nephilim,” Mark nói. “Malcolm cũng vậy. Nhưng những kẻ hãm hại cô ta đã chết hết, con cháu họ chẳng có tội gì. Vấn đề của báo thù là thế đấy, đến cuối cùng ta sẽ hại cả kẻ có tội lẫn người vô tội.”
“Nhưng cô ấy có biết vậy không?” Ty cau mày. “Chúng ta không hiểu cô ấy. Chúng ta không biết cô ấy nghĩ gì.”
Cậu ta lo lắng thấy rõ, quầng thâm dưới mắt càng hằn sâu thêm. Kit muốn băng qua bên kia bàn để ôm lấy Ty như đêm qua trên sân thượng. Cậu tha thiết muốn che chở cho cậu trai kia, tha thiết tới mức quái lạ và khó hiểu. Cậu cũng từng quan tâm nhiều người rồi chứ, chủ yếu là bố, nhưng cậu chưa bao giờ muốn bảo vệ họ.
Cậu muốn giết bất kì ai dám động tới Ty. Một thứ tình cảm hơi bị khác thường rồi đấy.
“Mọi người nên xem qua cảnh tượng thu lại trong viên pha lê,” Magnus tuyên bố. “Còn bây giờ, Alec và tôi có tin cần báo.”
“Hai anh sắp kết hôn,” Livvy cười rạng rỡ. “Em mê nhất là đám cưới.”
“Không, vẫn chưa kết hôn đâu,” Alec nói. Kit tự hỏi tại sao lại không; hai người họ rõ ràng là hết lòng hết dạ với nhau. Nhưng dù gì thì cũng không phải chuyện của cậu.
“Evelyn đi rồi,” Magnus nói. Bằng cách nào đó anh ta vẫn duy trì được phong thái đạo mạo với đứa bé trên đùi. “Theo lời Jia thì Học Viện sẽ do Alec tạm thời quản lý.”
“Mấy năm nay họ cứ cố đẩy một Học Viện vô tay anh,” Alec nói. “Jia chắc là mừng lắm.”
“Cụ Evelyn đi rồi ư?” Dru mở to hai mắt. “Ý anh là cụ ấy đã qua đời?”
Magnus bật cười. “Tầm bậy. Bà ấy đi thăm bà bác Marjorie của mấy đứa, ở tít dưới quê ấy.”
“Này có phải cái kiểu khi con chó trong nhà chết và mọi người đều nói nó đã được đem về quê nuôi không vậy5?” Kit tò mò hỏi.
5. Một lời nói dối đặc trưng bố mẹ thường dùng để lấp liếm với con nhỏ khi thú cưng trong nhà chết.
Giờ thì Alec lại bị sặc. Kit sâu sắc nghi ngờ anh ta đang cười mà cố giấu.
“Không hề,” Magnus nói. “Bà ấy chỉ quyết định bỏ qua màn kịch vui này thôi.”
“Bà ấy đang ở với bà bác Marjorie thật đấy,” Mark xác nhận. “Anh nhận được thư lửa sáng nay. Bà ấy để lại Bridget coi sóc công việc trong nhà.”
Kit nhớ lại cách Evelyn phản ứng khi thấy thần tiên trong Học Viện. Cộng thêm hai pháp sư nữa, cậu có thể hình dung bà ta cảm thấy thế nào. Quá nửa bà ta đã nghiến bánh xe xuống mặt đường trước khi phóng xe khỏi đây cũng nên.
“Vậy nghĩa là chúng ta không cần phải ăn cháo nữa phải không?” Ty hỏi, liếc xéo cái bát đựng thứ hỗn hợp xam xám.
Magnus cười toe. “Thật ra thì…”
Anh ta búng ngón tay, một chiếc túi của tiệm bánh Primrose liền hiện ra giữa bàn. Nó nghiêng sang bên, đổ ra nào bánh nướng xốp, bánh sừng trâu, bánh bọc đường.
Tiếng reo hò sung sướng dội lên, mọi người liền lao vào chỗ bánh ngọt. Một trận chiến giành bánh quy sôcôla nổ ra, Ty giành chiến thắng và đem chia với Livvy.
Max bò lên bàn, với tay lấy cái bánh nướng. Magnus chống khuỷu tay, dõi cặp mắt mèo theo. “Và sau khi ăn sáng xong,” anh ta nói, “chúng ta có thể vào thư viện để thảo luận những gì đã biết về tình hình hiện tại.”
Mọi người gật đầu; chỉ có Mark là khẽ nheo mắt. Kit hiểu chứ, Magnus đã tống khứ Evelyn giúp bọn họ, anh ta đem bữa sáng tới, làm mọi người vui vẻ. Giờ thì anh ta muốn xem họ biết được gì. Một màn trao đổi sòng phẳng.
Nhìn vào những gương mặt tươi tắn quanh bàn, bất giác Kit đâm ghét bố mình, ghét ông vì đã đập nát cái niềm tin ở cậu rằng có người vẫn sẵn sàng cho đi điều gì đó mà không mong đền đáp.
Theo Kieran thì cái sự vụ ngồi ăn cùng bàn với cả nhóm người chỉ tổ đau đầu chứ chẳng hay ho gì. Mark mấy hôm nay đều mang thức ăn lên phòng cậu, toàn những món nhạt nhẽo đúng chất Bridget: thịt, cơm, bánh mì, trái cây và rau sống.
Nhưng Kieran cũng chỉ ăn chiếu lệ. Lúc ăn sáng xong và trở về phòng Kieran, Mark thấy chàng hoàng tử đang ngồi bên cửa sổ, nhìn xuống thành phố bằng ánh mắt căm ghét nặng nề. Mái tóc nhạt màu xanh trắng, xoăn lọn bên vành tai và thái dương như những ngọn sóng vỗ bờ.
“Nghe này,” Kieran nói. Trên đùi cậu đặt một quyển sách.
“Vùng đất thần tiên
Nơi ta chẳng già hay thành tiên hay về với đất
Nơi ta chẳng già hay láu cá hay khôn ngoan
Nơi ta chẳng già hay ngậm muôn đời trái đắng.”
Cậu nhìn lên Mark bằng đôi mắt sáng rực. “Đúng là nhảm nhí.”
“Yeats viết đấy,” Mark nói, chìa ra rổ mâm xôi. “Một nhà thơ người phàm vô cùng nổi tiếng.”
“Hắn chẳng biết gì về thần tiên hết. Chẳng ngậm muôn đời trái đắng? Hờ!” Kieran nuốt luôn mấy quả mâm xôi rồi trượt xuống bệ cửa. “Giờ chúng ta đi đâu đây?”
“Ta phải tới thư viện,” Mark nói. “Có một cuộc… ờ…
họp… để bàn xem phải làm gì tiếp theo.” “Vậy thì ta cũng muốn đi.”
Đầu Mark chạy hết tốc lực. Có lí do nào để không cho Kieran đi không? Trong mắt Magnus và Alec, anh nói quan hệ giữa mình và Kieran thế nào thì họ tin thế ấy. Vả lại cũng chẳng tốt lành gì cho Kieran, hay cho mối quan hệ căng thẳng giữa họ khi cứ để chàng hoàng tử tiên ở một mình trong phòng mà thù ghét mấy nhà thơ Ái Nhĩ Lan.
“Được thôi,” Mark nói. “Nếu cậu đã muốn.”
Lúc cả hai vào thư viện thì Magnus đang kiểm tra viên pha lê aletheia, trong khi những người kia thuật lại tình hình trước đó. Vị pháp sư nằm dài trên bàn, cẩn thận giơ viên pha lê lên trước mặt.
Cristina, Ty, Livvy, và Dru ngồi quanh chiếc bàn dài. Alec ngồi dưới sàn cùng ba đứa nhóc: hai đứa con của mình và Tavvy, thằng bé có người chơi cùng thì vui khỏi nói. Thằng bé bảy tuổi đang bày cho Max và Rafe làm sao để dựng nhà bằng sách, rồi chỉ cách úp mặt sách xuống để làm thành đường hầm cho xe lửa chạy qua.
Magnus ra hiệu cho Mark tới nhìn vào viên pha lê aletheia đang tỏa ra luồng sáng kì dị. Tất cả thanh âm xung quanh nhạt nhòa đi khi Mark cuốn vào phiên xử, nhìn Annabel cầu xin, phản kháng, nhìn nhà Blackthorn dồn cô vào chỗ chết.
Dứt mắt ra, cả người anh lạnh buốt. Phải mất một lúc anh mới định thần lại được. Mark ngạc nhiên phát hiện Kieran đang giơ Max lên cao, thích thú thấy rõ trước nước da xanh và cặp sừng mới nhú của thằng bé.
Max lùa tay vào mái tóc gợn sóng của Kieran, giật giật. Kieran phá lên cười. “Phải đó, nó đổi màu đấy, bé pháp sư giống thủy yêu kia ạ,” cậu nói. “Nhìn này.” Và tóc cậu chuyển từ xanh đậm sang xanh nhạt ngay lập tức. Max cười khanh khách.
“Ta không biết cậu có thể cố tình đổi màu được đấy,” Mark nói. Anh vốn tưởng màu tóc Kieran thể hiện cho tâm trạng cậu ta, như sóng triều không thể kiểm soát.
“Còn nhiều điều về ta mà anh không biết lắm, Mark Blackthorn ạ,” Kieran nói, đặt Max xuống.
Alec và Magnus đưa mắt nhìn nhau, cái ánh mắt cho Mark cảm giác hai người họ đã âm thầm nhất trí mối quan hệ giữa anh và Kieran là cái kiểu gì.
“Vậy là,” Magnus nhìn sang Kieran, ý cười trong đáy mắt. “Cậu là con trai Đức Vua Unseelie nhỉ?”
Kieran liền đeo lên bộ mặt thượng triều, tức lạnh lùng, cao ngạo đúng kiểu một hoàng tử. “Còn anh là pháp sư Magnus Bane.”
“Đúng vậy,” Magnus nói. “Cũng dễ đoán thôi mà, đằng nào thì tôi chỉ có một, còn cậu có tới năm mươi.”
Ty ngơ ngác.
“Năm mươi người con của Đức Vua Unseelie,” Livvy giải thích. “Em cứ tưởng đó chỉ là lời đùa.”
“Không phải câu đùa hay nhất của tôi,” Magnus nói với Kieran. “Xin thứ lỗi, nhưng tôi không hâm mộ cha cậu cho lắm.”
“Phụ vương ta không có người hâm mộ,” Kieran dựa vào cạnh bàn. “Ông ta chỉ có thuộc hạ. Và kẻ thù.”
“Con trai nữa.”
“Con cũng là kẻ thù.” Kieran vẫn đều giọng.
Ánh mắt Magnus chừng như tăng phần thích thú. “Được rồi,” anh ta ngồi dậy. “Diana đã giải thích một số phần cho bọn tôi, nhưng chuyện này phức tạp hơn tôi tưởng. Malcolm vốn chỉ hơi hơi chết và giờ đã chết hẳn, Annabel, được hắn hồi sinh, đã lấy Tập Sách Đen. Còn Nữ Hoàng Seelie lại muốn có quyển sách?”
“Phải,” Mark nói. “Bà ta đã tỏ ý rất rõ ràng.”
“Và bà ta thỏa thuận với các người,” Alec ngồi dưới sàn nói. “Bà ta lúc nào cũng đưa ra thỏa thuận.”
“Nếu bọn tôi đưa Tập Sách Đen cho bà ta, bà ta sẽ dùng nó chống lại Đức Vua Unseelie,” Mark nói, đoạn ngập ngừng. ANH CỨ TIN MAGNUS VÀ ALEC, Julian lúc sáng đã nhắn tin. KỂ VỚI HỌ TẤT CẢ. “Bà ta đã thề sẽ không dùng nó để gây hại cho chúng ta. Thật ra bà ta còn hứa sẽ giúp đỡ chúng ta. Bà ta cử Kieran làm sứ giả. Cậu ta sẽ làm chứng trước Hội Đồng việc Đức Vua Unseelie đang tiến hành chiến tranh với Alicante. Một khi có được Tập Sách Đen, Nữ Hoàng sẽ ra lệnh cho quân đội Seelie hợp lực với Thợ Săn Bóng Tối tấn công Đức Vua, nhưng muốn được vậy thì Clave phải hủy bỏ tất cả đạo luật ngăn cấm hợp tác với thần tiên.”
“Họ sẽ làm vậy,” Magnus nói. “Đấu với Xứ Tiên sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu có thần tiên đứng về phe mình.”
Mark gật đầu. “Bọn tôi hy vọng sẽ không chỉ đánh bại được Đức Vua mà còn đập tan được hội Kiêu Binh và chấm dứt Hiệp ước Hòa Bình Lạnh.”
“À, Kiêu Binh,” Magnus nhìn sang Alec. “Còn lạ gì mấy kẻ đó. Horace Dearborn và con gái ông ta, Zara.”
“Horace ư?” Mark giật mình.
“Tên lão đấy, buồn chưa,” Magnus nói. “Cả cái sự nghiệp tàn ác của lão nữa.”
“Nhà Dearborn không phải là thành viên duy nhất,” Alec nói. “Rất nhiều kẻ cực đoan trong Clave rất hồ hởi tề tựu dưới ngọn cờ trục xuất Cư dân Thế Giới Ngầm và khôi phục vinh quang ngày trước cho Clave.”
“Vinh quang?” Kieran nhướng một bên mày. “Ý chúng là cái thời đại có thể tùy ý giết chóc Cư dân Thế Giới Ngầm? Khi máu bọn ta chảy ngập đường còn nhà bọn chúng thì chất đầy chiến lợi phẩm lấy từ cuộc chiến do chúng khơi mào?”
“Phải,” Magnus nói, “nhưng họ không diễn đạt theo kiểu đó đâu.”
“Trong quá trình Liên Minh hoạt động, bọn này đã nghe được không ít điều về Kiêu Binh,” Alec nói. “Họ thúc đẩy việc hạn chế pháp sư sử dụng phép thuật, tập trung nguồn máu cung cấp cho ma cà rồng để Clave có thể quản lý… những việc đó không giấu được ai.”
“Tuyệt đối không được để họ chạm tay vào Học Viện,” Magnus nói. “Nó sẽ là thảm họa treo ngang đầu đấy.” Anh ta thở dài, thả chân xuống mép bàn. “Tôi hiểu chúng ta phải giao Tập Sách Đen cho Nữ Hoàng. Nhưng vẫn không thích chút nào, nhất là khi quyển sách đã thể hiện tầm quan trọng những hai lần.”
“Ý anh là Annabel và Malcolm đã trộm nó ở Học Viện Cornwall,” Ty nói. “Rồi về sau Malcolm lại vào Học Viện Los Angeles lấy trộm lần nữa.”
“Lần đầu là để trao đổi với một người mà họ nghĩ là có thể bảo vệ được họ trước Clave,” Livvy nói. “Còn lần hai là nhờ được Đức Vua Unseelie giúp đỡ. Theo lời chị Emma và anh Jules là thế.”
“Sao hai người đó biết?” Magnus hỏi.
“Nó viết trong một quyển sổ hai em ấy tìm được,” Cristina nói. “Một quyển nhật kí. Giải thích được việc chúng ta tìm thấy cái găng tay của Triều đình Unseelie ở nhà Malcolm. Hắn nhất định đã gặp gỡ Đức Vua hoặc một hoàng tử nào đó.”
“Kể cũng lạ khi viết vào nhật kí những thứ như vậy,” Magnus lẩm bẩm. ‘“Hôm nay hẹn gặp Đức Vua Unseelie để bàn kế hoạch phản bội, ố ồ.’”
“Kì lạ hơn chính là Malcolm đã biến mất khỏi Thành phố Câm Lặng sau lần trộm thứ nhất,” Mark nói, “bỏ Annabel lại gánh hết tội lỗi.”
“Có gì lạ đâu?” Livvy hỏi. “Hắn xấu xa vậy mà.”
“Nhưng hắn yêu Annabel,” Cristina nói. “Mọi điều hắn làm, tất cả tội ác, giết người, tất cả lựa chọn của hắn đều là vì yêu. Lúc biết được cô ấy không trở thành Nữ Tu Sắt mà đã bị gia đình sát hại, hắn đã tới gặp Đức Vua Xứ Tiên để xin ông ta giúp hồi sinh cô ấy đấy thôi. Mọi người quên rồi à?”
Mark chưa quên, câu chuyện kể trong quyển truyện cổ tích của Tavvy hóa ra là có thật. “Vậy nên năm năm trước Malcolm mới đột nhập vào Học Viện Los Angeles để lấy quyển sách,” anh nói. “Để hồi sinh Annabel. Nhưng tại sao Malcolm lại cần nó hai trăm năm trước? Hắn muốn giao nó cho ai? Đa phần chiêu hồn sư không thể thi triển phép bảo vệ cho hắn. Còn nếu là pháp sư thì phải là một kẻ còn mạnh hơn cả Malcolm.”
‘“Tên đồng minh có thế lực của Fade,’” Ty trích lại lời trong viên pha lê.
“Có khi nào là Đức Vua Unseelie không?” Livvy nói. “Cả hai lần?”
“Hồi năm 1812 Đức Vua Unseelie chưa ghét Thợ Săn Bóng Tối đâu,” Magnus nói. “Chí ít chưa ghét như bây giờ.”
“Malcolm cũng đã nói với Emma rằng sau khi hay tin về Annabel và tới gặp Đức Vua Unseelie, hắn còn nghĩ Đức Vua sẽ giết hắn vì ông ta không thích pháp sư,” Cristina nói. “Ông ta sẽ không việc gì đi ghét pháp sư nếu trước đó từng hợp tác với Malcolm, đúng không?”
Magnus đứng dậy. “Thôi, phỏng đoán thế là đủ,” anh ta nói. “Hôm nay chúng ta có hai việc cần làm. Thứ nhất là giải quyết cái phép trói buộc Mark và Cristina. Nó không chỉ phiền phức mà còn gây nguy hiểm cho hai người bọn họ.”
Mark bất giác liếc mắt sang Cristina. Cô chỉ nhìn xuống bàn. Anh vẫn nhớ đêm rồi, hơi ấm của cô vương trên giường, hơi thở cô phả vào tai.
Anh giật mình quay về thực tại, nhận ra mọi người đang bàn chuyện mua nguyên liệu để điều chế phép giải trừ. “Sau chuyện ở Phiên Chợ Bóng Tối ngày hôm qua,” Magnus tiếp, “chúng ta sẽ chẳng được chào đón ở đó nữa đâu. Nhưng ở London có một cửa hàng bán tất cả những thứ tôi cần. Tôi sẽ đưa địa chỉ, Kit, Ty và Livvy đi được chứ?”
Livvy và Ty lập tức dạ ran, hào hứng thấy rõ vì được giao nhiệm vụ. Kit yên lặng hơn, song khóe môi cũng đã nhếch cười. Vì lẽ nào đó, cậu nhóc con nhà Herondale này đã trở nên rất thân thiết với cặp sinh đôi, đến cả Magnus cũng nghĩ ba đứa là một đội.
“Anh thật sự nghĩ để tụi nó đi là ý hay à?” Mark ngắt ngang. “Sau chuyện ngày hôm qua, ba đứa lẻn vào Phiên Chợ Bóng Tối, suýt nữa làm Livvy mất mạng?”
“Nhưng mà anh Mark…” Ty cãi lại.
“Chậc,” Magnus nói, “cậu và Cristina nên ở lại Học Viện. Phép trói buộc khá nguy hiểm, hai người không nên rời xa nhau quá. Alec là người đứng đầu Học Viện; cậu ấy tất nhiên phải ở lại đây. Còn người chủ tiệm kia thì từng có… à, chút nhập nhằng với tôi. Vậy nên tôi không đi là tốt nhất.”
“Em đi được,” Dru lí nhí nói.
“Một mình em thì quên đi Dru,” Mark nói. “Còn ba đứa này…” anh chỉ sang Kit, Ty và Livvy, “sẽ chỉ lôi em vào rắc rối thôi.”
“Tôi có thể đặt phép theo dõi lên người một trong ba đứa,” Magnus nói. “Ai mà đi lệch khỏi đường là nó sẽ kêu ầm lên tới mức người phàm cũng nghe.”
“Vui chưa,” Mark nói. Cặp sinh đôi phản đối tức thì. Kit thì chẳng nói gì, thằng bé hiếm khi than vãn. Mark ngờ rằng thay vào đó nó đang âm thầm tính kế trả đũa, có lẽ là với tất cả những người nó từng gặp.
Magnus ngắm nghía chiếc nhẫn xanh to bản trên tay. “Chúng ta sẽ phải tra cứu lại trong thư viện. Tìm hiểu thêm về lịch sử Tập Sách Đen. Chúng ta không biết ai đã viết nó, nhưng có lẽ sẽ tìm được những ai từng sở hữu, công dụng của nó, bất cứ thứ gì có khả năng chỉ ra kẻ đã hợp tác với Malcolm hồi năm 1812.”
“Và đừng quên việc bọn Julian nhờ,” Cristina nói, nhịp nhịp cái di động trong túi. “Chắc chỉ mất vài phút để tìm…”
Mark không thể không nhìn cô chòng chọc. Cô đang vén tóc ra sau vành tai, tay áo vì thế mà tuột xuống, để lộ vết hằn đỏ trên cổ tay. Anh muốn đến bên cô, hôn lên vết hằn ấy, nhận hết nỗi đau về cho mình.
Anh quay mặt đi, song trước đó đã bắt gặp cái liếc mắt của Kieran. Ty, Livvy và Kit ba đứa leo xuống ghế, hào hứng bàn bạc chuyến đi. Dru ngồi khoanh tay. Còn Magnus thì đưa mắt từ Cristina sang Mark rồi sang Kieran, trầm ngâm nghĩ ngợi, đôi mắt mèo chứa đầy suy tư.
“Chúng ta không cần tìm kiếm đâu,” Magnus nói. “Đã có nguồn tin chính ở đây rồi mà. Kieran, cậu biết gì về cách bắt tiểu tiên nào?”
Emma thức giấc khi trời đã sáng hẳn, cả người chìm trong cảm giác ấm áp. Ánh nắng rọi qua khung cửa, hắt bóng lên tường như những gợn sóng nhấp nhô. Qua ô cửa sổ, cô có thể thấy trời xanh và đại dương lớp lớp: một khung cảnh yên bình.
Ngáp dài, cô duỗi người… liền khựng lại khi nhận ra tại sao xung quanh lại ấm thế. Bằng cách nào đó, cô và Julian đã ôm lấy nhau trong lúc ngủ.
Emma hãi hùng đến hóa đá. Tay trái cô gác ngang người Julian, nhưng không thể muốn rút là rút. Cậu nằm xoay về phía này, hai cánh tay ôm trọn lấy người cô. Má cô áp lên vùng xương quai xanh nhẵn nhụi của cậu. Chân họ cũng quấn lấy nhau, bàn chân cô đè lên mắt cá chân cậu.
Cô từ từ gỡ người ra. Chúa ơi. Julian mà thức dậy thì sẽ ngượng ngùng phải biết, mọi chuyện đang tiến triển tốt quá mà. Cuộc trò chuyện trên tàu, tìm ra căn nhà, bàn về Annabel, tất cả đều rất thoải mái. Cô không muốn mất đi cảm giác đó vào lúc này.
Cô nhích người ra, rút từng ngón tay lại. Mép giường đã ở sau lưng. Ngã lăn quay. Cô đánh rầm xuống đất, kêu toáng lên, làm Julian thức giấc. Cậu ngơ ngác ngó xuống giường.
“Sao cậu lại ở dưới đất?”
“Nghe nói lăn khỏi giường mỗi sáng giúp ta tăng cường khả năng đỡ đòn bất ngờ.” Emma nằm sóng soài dưới sàn gỗ trả lời.
“Thế hở?” Cậu ngồi dậy, dụi dụi mắt. “Vậy còn ré lên ‘mẹ ơi!’ làm được gì?”
“Cái đó không bắt buộc,” cô nói. Vận nốt chút thể diện còn sót lại, cô từ từ đứng lên. “Sao, có gì cho buổi sáng?”
Cậu nhếch môi cười, vươn vai. Cô không có nhìn chỗ vạt áo cậu kéo lên. Không việc gì phải thả thuyền theo dòng Lả Lơi để ra tới biển Hoan Lạc mà chẳng được tích sự gì. “Đói hử?”
“Có khi nào mà mình không đói?” Cô bước ra bàn, lục balô tìm điện thoại. Một mớ tin nhắn từ Cristina. Chủ yếu là Cristina VẪN ỔN và Emma ĐỪNG CÓ LO LẮNG và rằng cô ĐỪNG CÓ NHẮN TIN NỮA VÌ MAGNUS SẼ HÓA GIẢI ĐƯỢC PHÉP TRÓI BUỘC. Emma nhắn trả một cái mặt nhăn rồi tiếp tục vuốt xuống.
“Có tin gì về vụ bắt tiểu tiên chưa?” Julian hỏi. “Chưa.”
Julian không nói gì. Emma cởi đồ ra, chỉ để lại cái quần thun ngắn và áo ba lỗ. Cô thấy Julian đảo mắt đi, nhưng có gì mà cậu chưa từng thấy đâu chứ. Đồ của cô kín đáo hơn bikini nhiều. Cô cầm lấy khăn và xà phòng. “Mình đi tắm đây.”
Có lẽ cô chỉ tưởng tượng phản ứng của cậu. Cậu gật đầu, bước ra bếp, bật lò lên. “Không có bánh kếp đâu nhé,” cậu nói. “Ở đây không có đúng nguyên liệu.”
“Làm mình ngạc nhiên đi,” Emma nói, bước vào phòng tắm. Mười lăm phút sau, cô trở ra, cả người sạch sẽ thơm tho, tóc tết thành hai bím tóc ướt nhỏ nước dọc chiếc áo phông. Julian đã dọn bàn xong, có bánh mì nướng, trứng, sôcôla nóng cho cô và cà phê cho cậu. Cô mừng rỡ ngồi vào ghế.
“Cậu có mùi như dầu khuynh diệp ấy,” cậu đưa nĩa sang.
“Dầu gội khuynh diệp trong phòng tắm.” Emma cắn một miếng trứng. “Chắc là của Malcolm.” Cô khựng lại. “Mình chưa từng nghĩ sát nhân hàng loạt cũng dùng dầu gội đầu.”
“Đâu ai thích một pháp sư ở dơ,” Julian nói.
Emma nháy mắt. “Coi chừng có người nghĩ khác.” “Không ý kiến,” Julian bảo, phết bơ đậu phộng lên lát bánh mì. “Tụi mình có tin nhắn trả lời rồi.” Cậu giơ điện thoại lên. “Cách để bắt tiểu tiên. Anh Mark gửi, nhưng chắc chín phần là Kieran chỉ vẽ. Vậy là ăn sáng trước tiên, rồi sau đó đi săn tiểu tiên.”
“Mình sẵn sàng săn lùng đám sinh vật tí hon đáng yêu ấy để tính sổ lắm rồi,” Emma nói. “SẴN SÀNG.”
“Emma à…”
“Mình sẽ cột nơ lên đầu chúng.” “Chúng ta phải tra hỏi chúng.”
“Cho mình chụp hình tự sướng với tụi nó trước nhé?”
“Ăn bánh đi Emma.”
Tệ hại, Dru thầm nghĩ. Cô đang nằm dài dưới gầm bàn trong phòng khách, tay đan lại đặt sau đầu. Cách mặt cô vài tấc là mặt bàn gỗ, trên khắc dòng chữ đã phai mờ theo năm tháng.
Căn phòng chìm trong tĩnh lặng, chỉ có tiếng đồng hồ tích tắc. Cái tĩnh lặng vừa nhắc cô đến nỗi cô đơn, lại vừa khoan khoái. Không ai kêu cô coi chừng Tavvy hay rủ chơi trò quỷ đấu Thợ Săn Bóng Tối lần thứ một triệu. Không ai sai cô gửi tin hay làm chân chạy vặt trong thư viện. Không ai nhảy vào họng cô khi cô đang phát biểu.
Không ai nói rằng cô còn quá nhỏ. Theo Dru, tuổi tác con người thể hiện qua độ chín chắn chứ không phải con số, và cô khá là chín chắn rồi đấy chứ. Tám tuổi cô đã cầm kiếm bảo vệ nôi em mình. Tám tuổi cô đã chứng kiến Julian giết con quái vật mang bộ mặt của bố, đã chạy băng qua Idris khi cả thành phố chìm vào biển lửa.
Và vài ngày trước, cô đã hoàn toàn bình tĩnh khi Livvy cho biết chú Arthur vốn chưa từng điều hành Học Viện; là Julian đã làm tất cả. Cô xem đó là sự thật tất nhiên, chẳng có gì to tát, và bỏ qua luôn chuyện cô Diana chẳng buồn gọi Dru tham gia buổi họp vào cái ngày cô giáo báo tin. Theo cô thấy thì Livvy chỉ để tâm mỗi một chuyện là cái tin này sẽ làm Dru phải tự giác chăm em hơn.
Chẳng phải là cô ghét chăm Tavvy. Không hề. Chỉ là cô nghĩ mình đáng được ghi nhận cho từng ấy công sức. Chưa kể cô đã phải chịu đựng bà bác Marjorie gọi mình là con mập suốt hai tháng hè, cô đã không giết bà, với Dru thế là một dấu hiệu cực lớn thể hiện sự chín chắn và kiềm chế rồi đấy.
Cô nhìn xuống cơ thể tròn trịa của mình rồi thở dài. Cô chẳng ốm nổi. Hầu hết Thợ Săn Bóng Tối khi tập luyện mười bốn tiếng một ngày thường có được thân hình thon gọn, nhưng cô thì có làm gì cũng vẫn đầy đặn với đủ đường cong. Cô khỏe mạnh, rắn rỏi, cơ thể săn chắc, nhưng hông và ngực và những chỗ thịt mềm vẫn sẽ mãi ở đó. Cô đã chấp nhận được sự thật. Rủi thay, bà bác Marjorie đại diện cho cả thế giới thì lại không nghĩ vậy.
Cộp. Thứ gì đó vừa rơi. Dru cứng người. Có ai khác trong phòng sao? Cô nghe thấy tiếng chửi thề khe khẽ… không phải tiếng Anh, là tiếng Tây Ban Nha. Nhưng không thể là Cristina được. Cristina không bao giờ chửi thề, hơn nữa đây là giọng đàn ông.
Diego sao? Trái tim cảm nắng hẫng một nhịp, cô bèn chui dưới gầm bàn ra.
Cô giật mình kêu oái lên. Người kia cũng oái theo, ngồi phịch xuống tay vịn ghế.
Không phải Diego. Một chàng trai Thợ Săn Bóng Tối trạc tuổi Julian, dáng cao gầy, mái tóc đen bù xù tương phản với làn da nâu. Người anh ta vẽ đầy Ấn Ký, không chỉ Ấn Ký, còn có hình xăm nữa… những con chữ chạy dọc cẳng tay và viền quanh xương quai xanh.
“Chuyện… chuyện gì đây?” Dru chất vấn, tay phủi bụi trên tóc. “Anh là ai? Anh làm gì ở đây?”
Cô tính hét lên. Bất kì Thợ Săn Bóng Tối nào cũng có thể vào Học Viện, nhưng thường thì họ bấm chuông trước.
Chàng trai hốt hoảng. Anh ta giơ tay lên như muốn chặn cô lại, và cô nhìn thấy chiếc nhẫn ánh lên trên ngón tay, khắc hoa văn cánh hồng. “Tôi…” anh ta cất tiếng.
“Ô, anh là Jaime,” nỗi nhẹ nhõm chạy suốt người cô. “Em của Diego, Jaime.”
Chàng trai ngẩn người. “Em biết anh trai anh à?”
Tiếng Anh của anh ta phảng phất giọng Mexico, dễ nhận ra hơn Diego và Cristina. Nghe trầm ấm trong từng con chữ.
“Đại loại thế,” Dru hắng giọng. “Em sống ở Học Viện Los Angeles.”
“Nhà Blackthorn?”
“Em là Drusilla.” Cô chìa tay ra. “Drusilla Blackthorn. Cứ gọi em là Dru.”
Anh ta cười khục một tiếng, đoạn bắt tay cô. Bàn tay ấm áp. “Tên xinh người cũng xinh.”
Dru đỏ mặt. Jaime không đẹp trai hoàn hảo như Diego Hoàn Hảo, mũi hơi to, miệng quá rộng và nhanh nhảu, nhưng đôi mắt lại mang sắc nâu ngời sáng, hàng mi đen dài đến chết người. Và ở anh ta có cái nét gì đó, một dạng năng lượng Diego không có, dù rất đẹp trai.
“Chắc là Cristina đã kể cho em đủ thứ chuyện xấu xa về anh rồi.”
Cô lắc đầu, rụt tay lại. “Chị ấy không kể gì nhiều về anh với em.”
Đời nào Cristina lại kể chứ, Dru thầm nghĩ. Trong mắt chị, Dru nào đã đủ lớn để chị tâm sự, chia sẻ bí mật. Dru chỉ biết chuyện nhờ nghe được những gì mấy bà chị kia trao đổi với nhau.
Nhưng cô cũng không việc gì phải thừa nhận với Jaime.
“Buồn thật đấy,” anh ta nói. “Gặp anh là anh sẽ không ngừng nói về chính mình được đâu.” Khóe mắt anh ta nheo lại. “Em muốn ngồi xuống không?”
Trong lòng có chút xốn xang, Dru ngồi xuống cạnh anh ta.
“Anh sẽ thổ lộ với em một chuyện,” anh ta nói. Nghe như một lời thông báo, như thể anh ta vừa mới hạ xong quyết định và thấy cần phải loan báo ngay lập tức.
“Thật à?” Dru không chắc từng có người thổ lộ bí mật với mình. Mấy anh chị đều xem cô là con nít, còn Tavvy thì chẳng có bí mật nào.
“Anh đến đây để gặp Cristina, nhưng chưa thể để cô ấy biết được. Anh cần phải liên lạc với anh mình trước.”
“Diego có sao không?” Dru hỏi. “Lần cuối em thấy… à thì em nghe được là anh ấy vẫn bình an vô sự sau cuộc chiến với Malcolm, nhưng em chẳng gặp hay nghe tin gì từ anh ấy. Anh ấy và chị Cristina đã…” Cô nín bặt.
Anh ta khẽ bật cười. “Không sao, anh biết rồi. Ellos terminaron.”
“Họ đã chia tay,” cô dịch. “Đúng vậy.”
Anh ta lộ vẻ ngạc nhiên. “Em biết tiếng Tây Ban Nha sao?”
“Đang học. Em muốn tới Học Viện Mexico vào năm du lịch, còn không thì Argentina để giúp tái thiết lại nơi đó.”
Hàng mi dài của anh ta quét xuống trong cái nháy mắt. “Em chưa mười tám sao?” Anh ta nói. “Không sao. Anh cũng vậy.”
Còn lâu mới tới. Nhưng Drusilla chỉ gượng cười. “Mà anh tính thổ lộ gì đấy?”
“Anh đang lẩn trốn. Không thể nói rõ lí do, chỉ là nó rất quan trọng. Làm ơn đừng nói với ai là anh đang ở đây nhé, cho đến khi anh nói chuyện với Cristina.”
“Anh không có phạm tội gì đấy chứ?”
Anh ta không cười. “Nếu anh nói không, nhưng lại biết ai có tội, thì em có tin anh không?”
Anh ta nhìn cô chăm chú. Cô không nên giúp anh ta nhỉ? Suy cho cùng cô đâu có quen anh ta, vả lại qua vài điều ít ỏi Diego từng nói, rõ ràng anh ấy xem Jaime là một kẻ ưa gây rối.
Mặt khác, đây là một người sẵn sàng tin tưởng cô, giao phó kế hoạch và sự an toàn của mình vào tay cô, thay vì gạt cô ra vì lí do không đủ tuổi hay đã tới giờ trông Tavvy.
Cô thở hắt ra, nhìn thẳng vào mắt Jaime. “Được,” cô nói. “Vậy anh tính làm gì để không bị bắt gặp cho đến khi nói chuyện được với chị Cristina?”
Nụ cười của anh ta lóa cả mắt người. Sao cô lại nghĩ cái kẻ này không đẹp trai bằng Diego chứ?
“Và đó là chỗ em có thể giúp anh đấy,” anh ta nói.
Leo lên tới mái nhà rồi, Emma chìa tay xuống để kéo Julian lên. Thế nhưng cậu đã gạt đi, nhẹ nhàng đu người lên lớp ngói.
Mái nhà Malcolm thoai thoải dốc, kéo dài ra mặt trước và sau nhà. Emma bước xuống phần rìa mái nhô ra trên cửa chính.
Từ đây nhìn xuống có thể thấy cái bẫy. Mark cho biết các loại mồi nhử hữu hiệu nhất: tiểu tiên rất thích sữa, bánh mì và mật ong. Chúng cũng thích chuột chết nữa, nhưng Emma chẳng muốn đi xa đến vậy. Cô thích chuột, mặc cho cái mối thâm thù ngàn năm của Church với loài vật ấy.
“Giờ thì chờ thôi,” Julian nói, ngồi xuống rìa mái. Bát sữa, mật ong cùng đĩa bánh mì bày trên chồng lá gần cửa chính, lấp lánh gọi mời.
Emma ngồi xuống cạnh Jules. Bầu trời xanh ngắt không một gợn mây, kéo dài ra tận chân trời nơi tiếp giáp đại dương thăm thẳm. Những chiếc thuyền đánh cá chầm chậm vẽ lên từng vệt trắng trên mặt biển, tiếng sóng ầm ì như khúc đối âm dịu nhẹ với gió lộng chan hòa.
Cô bất giác nhớ đến tất cả những lần cùng Jules ngồi trên mái Học Viện, vừa trò chuyện, vừa ngắm cảnh đại dương. Một bờ biển khác hoàn toàn, có lẽ, nhưng biển cả thì đâu đâu cũng quy về một mối.
“Mình dám cá Clave có luật cấm đặt bẫy tiểu tiên mà chưa xin phép,” Emma nói.
“Lex malla, lex nulla,” Julian nói, xua tay kiểu tiếc-quá- đi-thôi. Đó là khẩu hiệu của nhà Blackthorn: Luật không ra gì thì không là luật.
“Không biết khẩu hiệu của mấy nhà kia là gì nhỉ?” Emma ngẫm nghĩ. “Cậu có biết không?”
“Khẩu hiệu nhà Lightwood là ‘Chúng tôi có thiện ý.’” “Vui vậy.”
Julian nhìn sang cô. “Thật đó.”
“Thật hả? Vậy còn khẩu hiệu nhà Herondale? ‘Đẹp trai nhưng bi lụy’?”
Cậu so vai. ‘“Nếu không biết họ mình là gì thì quá nửa là Herondale’?”
Emma cười phá lên. “Còn nhà Carstairs thì sao?” Cô hỏi, nhịp nhịp lên thanh Cortana. ‘“Chúng tôi có một cây kiếm’? ‘Chỉ có lũ ăn hại mới xài vũ khí cùn’?”
“Morgenstern,” Julian tiếp. ‘“Không biết phải làm gì thì cứ phát động chiến tranh’?”
“Có khi nào là ‘Nhà chúng ta trước giờ có người nào tốt không vậy, thật luôn đấy?’”
“Nghe dài quá,” Julian nói. “Và hơi bị cụ thể.”
Cả hai cười sằng sặc tới mức không nói nổi. Emma gập người tới, chợt kêu thốt lên, kết hợp với tiếng cười nghe như một cái ho khan. Cô lấy tay bịt miệng. “Tiểu tiên!” Cô thì thầm qua kẽ ngón tay, đoạn chỉ tay ra.
Julian lẳng lặng nhích ra rìa mái, Emma cạnh bên. Đứng gần cái bẫy là một nhóm thần tiên xanh xao gầy gò, quần áo rách rưới. Da chúng gần như trong suốt, tóc vàng như rơm, chân không mang giày. Đôi mắt đen không đồng tử mở to trên gương mặt mong manh như sứ.
Nhìn chúng y hệt mấy bức vẽ trong quán ăn hôm qua. Lúc ở Xứ Tiên cô không thấy con nào, xem ra chúng đúng là đã bị trục xuất tới thế giới người phàm hết rồi.
Không nói tiếng nào, chúng đáp xuống cái đĩa bánh mì mật ong, và mặt đất liền sụp xuống. Emma vốn chỉ phủ hờ lá cành lên cái miệng hố Julian đào, thế nên đám tiểu tiên đã rơi tòm vào bẫy.
Gwyn chẳng hề tìm cách đưa chuyện trong suốt thời gian phóng ngựa qua bầu trời Alicante, rừng Brocelind bạt ngàn trải rộng bên dưới. Lòng Diana vì thế mà khoan khoái hẳn. Với gió lùa qua tóc, mát lạnh dịu dàng, cánh rừng trải dài trong sắc xanh mướt mắt, đã lâu lắm rồi cô mới thấy tự do thế này. Nói chuyện chỉ làm cô xao lãng.
Buổi rạng đông nhường đường cho nắng sớm, cô ngắm nhìn thế giới vùn vụt lướt qua dưới chân mình: làn nước lấp lánh, những tán cây linh sam và thông trắng yêu kiều. Rồi khi Gwyn cho ngựa từ từ đáp xuống, lòng cô bỗng nhói lên nỗi thất vọng cùng một thoáng đồng cảm với Mark. Thảo nào cậu ta vẫn cứ nhớ Hội Săn; thảo nào đã về được với gia đình rồi mà cậu ta vẫn cứ tiếc nuối khoảng trời cao rộng.
Họ đáp xuống một khoảng đất nhỏ nằm giữa rừng cây đoạn. Gwyn leo xuống ngựa, đoạn đưa tay đỡ Diana. Mặt đất phủ rêu dày mềm mại dưới chân cô. Cô thơ thẩn bước ra giữa thảm hoa trắng, ngắm nhìn bầu trời trong xanh trong khi ông ta trải khăn xuống đất và dỡ thức ăn trong túi yên.
Cô không nén được tiếng cười. Cô, Diana Wrayburn, người con của gia tộc Wrayburn danh giá luôn lấy pháp luật làm tôn chỉ, lại sắp sửa có một bữa ăn dã ngoại với thủ lĩnh Hội Săn Hoang kìa.
“Đến đây nào,” ông ta nói sau khi đã bày biện xong và ngồi xuống đất. Con ngựa lang thang ra bìa rừng gặm cỏ. “Chắc cô đã đói rồi.”
Diana bất ngờ nhận ra mình đúng là đói thật, và càng đói ngấu hơn nữa khi nếm được vị thức ăn: trái cây ngọt ngào, thịt ướp muối, bánh mì xốp, mật ong và rượu, mang màu sắc đậm đà như hồng ngọc.
Có lẽ là do men rượu, nhưng cô phát hiện ra Gwyn trầm lặng là thế song rất dễ chuyện trò. Ông ta hỏi nhiều điều về bản thân cô, nhưng không xoáy vào quá khứ: cô đam mê gì, cô thích gì, cô mơ mộng gì. Cô nói về niềm yêu thích giảng dạy, rằng cô ước có ngày được đến dạy ở Đại Học Viện. Ông ta hỏi cô về nhà Blackthorn, về việc Mark có sống hòa nhập, rồi nghiêm nghị gật đầu trước từng câu trả lời.
Ông ta không đẹp cái nét đẹp thường thấy ở thần tiên, nhưng nhờ thế mà lại ưa nhìn hơn trong mắt cô. Tóc nâu dày, đôi bàn tay to lớn mạnh mẽ. Người ông ta đầy sẹo, ở cổ, ở ngực, ở mu bàn tay, nhưng chỉ làm cô liên tưởng đến những vết sẹo cùng cuộc đời Thợ Săn Bóng Tối của chính mình. Nét tương đồng xoa dịu.
“Tại sao Hội Săn Hoang lại không có phụ nữ?” Cô hỏi. Đây là chuyện cô đã thắc mắc từ lâu.
“Phụ nữ quá man rợ,” ông ta cười đáp. “Bọn ta chuyên thu thập cái chết. Thế nhưng khi các thiếu nữ Rhiannon đồng hành cùng Hội Săn, họ thậm chí còn không muốn chờ đến khi người chết thật sự chết.”
Diana bật cười. “Rhiannon. Cái tên nghe quen quen.”
“Những người con gái rời bỏ hội săn và trở thành Adar Rhiannon. Cánh Chim Rhiannon. Có người gọi họ là ‘Valkyrie.”’
Cô mỉm cười buồn bã. “Thế giới Thần Tiên thật đáng yêu. Nhưng cũng thật tàn nhẫn.”
“Cô đang nghĩ đến Mark à?”
“Mark yêu thương gia đình mình lắm,” cô nói. “Bọn trẻ cũng rất hạnh phúc khi anh mình trở về. Nhưng cậu ta vẫn nhung nhớ Hội Săn. Đôi khi tôi không hiểu được. Lúc trở về, cậu ta mang theo biết bao vết sẹo, cả thể xác lẫn tâm hồn.”
“Nhiều Thợ Săn Bóng Tối cũng mang sẹo vậy,” ông ta nói. “Thế đâu có nghĩa họ không muốn làm Thợ Săn Bóng Tối nữa.”
“Tôi không chắc hai việc đó giống nhau.”
“Ta không chắc hai việc đó khác nhau quá nhiều.” Ông ta dựa lưng vào tảng đá lớn. “Mark là một Thợ Săn giỏi, nhưng cậu ta không đặt trái tim mình vào đó. Có lẽ cái cậu ta nhớ không phải là Hội Săn mà là tự do và bầu trời rộng mở, và có lẽ là Kieran nữa.”
“Ngài biết hai người họ đã cãi nhau,” Diana nói. “Nhưng lúc đến tìm bọn tôi, ngài vẫn chắc chắn Mark sẽ đi cứu cậu ta.”
“Thợ Săn Bóng Tối luôn khao khát được cứu tất cả mọi người. Và càng mãnh liệt hơn nữa khi có mặt tình yêu.”
“Ngài nghĩ Mark vẫn còn yêu Kieran ư?”
“Ta nghĩ một người không thể dứt bỏ đến tận gốc rễ tình cảm của mình. Nơi nào đã từng yêu thì nơi đó sẽ mãi còn tàn lửa, như chút than hồng sót lại khi lửa đã đi qua.”
“Nhưng rồi chúng cũng phải tắt. Trở thành tro bụi.”
Gwyn nghiêng người tới. Đôi mắt bên xanh bên đen trang nghiêm đặt lên cô. “Cô đã bao giờ yêu chưa?”
Cô lắc đầu. Cơn run rẩy chạy suốt các sợi thần kinh: đợi chờ, sợ hãi. “Kiểu đó thì chưa.” Cô nên giải thích lí do, cô thầm nghĩ. Nhưng lời lẽ lại không chịu đến.
“Thật là đáng tiếc,” ông ta nói. “Ta nghĩ, được cô yêu sẽ là một vinh hạnh tuyệt vời.”
“Ngài chỉ vừa mới quen tôi,” Diana nói. Đừng để lời của ông ta ảnh hưởng. Đừng có muốn điều này. Thế nhưng cô vẫn muốn, muốn theo cái cách cô đã cố vùi chôn suốt bao năm.
“Nhìn vào mắt cô trong đêm ta đến Học Viện, ta đã hiểu được con người cô,” Gwyn nói. “Can đảm.”
“Can đảm,” Diana lặp lại. “Để giết quỷ, phải. Nhưng còn nhiều loại can đảm lắm.”
Đôi mắt sâu thẳm ánh lên. “Diana…”
Nhưng cô đã đứng dậy, bước ra rìa trảng cỏ, chủ yếu là tìm kiếm cảm giác nhẹ nhõm trong từng bước chân. Con ngựa của Gwyn hí lên khi cô đến gần, lui lại.
“Cẩn thận,” Gwyn nói. Ông ta cũng đã đứng lên, nhưng không đi theo. “Ngựa của Hội Săn Hoang dễ đâm ra khó chịu khi ở gần phụ nữ. Chúng không quen tiếp xúc với họ.”
Diana dừng lại một chốc, đoạn bước vòng qua con ngựa, tránh một khoảng xa. Ra đến bìa rừng, cô bỗng nhác thấy một thứ gì đó trăng trắng qua khóe mắt.
Tiến đến gần hơn, cô bỗng nhận ra tình trạng nguy hiểm của mình, ở một nơi đồng không mông quạnh, tay không tấc sắt, trên người chỉ có mỗi bộ đồ ngủ. Thế nào mà cô lại đồng ý tới đây? Gwyn đã nói gì mà thuyết phục được cô vậy?
Ta hiểu được con người cô.
Cô đẩy những lời đó xuống tận đáy tâm trí, chống tay vào thân cây để giữ thăng bằng. Đầu cô không kịp phân tích cái thứ vừa trông thấy: một khung cảnh dị thường, một vòng tròn hoang tàn nằm giữa rừng Brocelind. Đất trắng như tro, cây cháy trơ gốc rạ, cứ như axít bào mòn tất cả sự sống.
“Lạy Thiên Thần,” cô thì thầm.
“Đất chết,” Gwyn phía sau cô lên tiếng, đôi vai rộng căng lên, hàm đanh lại. “Ta chỉ từng thấy những nơi như vậy ở Thế giới Thần Tiên. Dấu hiệu của thứ phép thuật hắc ám cực kì mạnh.”
Có những vùng đất bị thiêu trắng như tro, nhìn như bề mặt mặt trăng ấy.
Diana bấu chặt lấy thân cây. “Đưa tôi về,” cô nói. “Tôi phải về Alicante ngay.”