• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đức vua hắc ám (Tập 2)
  3. Trang 8

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 18
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 18
  • Sau

19Rừng xám

“T

a đã bảo ngươi đừng có bén mảng lại gần Phiên Chợ Bóng Tối rồi mà Rook,” Barnabas nói. “Tại sao ngươi không nghe? Không coi ta ra gì à? Không coi Cư dân Thế Giới Ngầm ra gì à?”

Đám đông bắt đầu tụ tập lại, một tập hợp tò mò của những ma cà rồng hả hê, người sói khoái trá và pháp sư lo ngại.

“Ông nói tôi phải tránh xa Phiên Chợ Los Angeles,” Kit nói, “chứ không phải tất cả Phiên Chợ Bóng Tối trên thế giới. Ông không có quyền lực tới mức đó đâu Hale, tôi đi hay ở là tùy thuộc vào quyết định của chủ ngôi chợ này.”

“Và người đó là ta,” Hypatia lên tiếng, mặt trơ như đá. “Tôi tưởng bà là đồng quản lý?” Kit nói.

“Đủ xài rồi, và ngươi nói năng cho cẩn thận vào đấy. Ta không thích bị dối gạt đâu nhóc con. Và ta cũng không thích ngươi dẫn hai tên Nephilim này theo.”

Đám đông ồ lên. Kit thầm nhăn mặt. Chiều hướng này không tốt rồi.

“Họ không ủng hộ Hiệp ước Hòa Bình Lạnh,” cậu nói.

“Vậy chúng có bỏ phiếu chống không?” Một nữ pháp sư có chiếc cổ tua tủa gai hỏi.

“Lúc đó bọn tôi mới mười tuổi,” Livvy nói. “Bọn tôi còn quá nhỏ.”

“Trẻ con,” cái gã đứng sau quầy hàng bán thần tiên rít lên. Thái độ của gã là bất ngờ, căm ghét hay thèm thuồng, khó mà biết được.

“Ồ, nó không chỉ dẫn Nephilim theo đâu,” Barnabas nói với nụ cười rắn độc. “Nó cũng là Nephilim. Một gián điệp của Thợ Săn Bóng Tối.”

“Chúng ta làm gì đây?” Ty hạ giọng. Cả ba nép sát vào nhau tới mức Kit đứng giữa Ty và Livvy chẳng thể nhúc nhích hai tay.

“Lấy vũ khí ra,” Kit nói. “Sẵn sàng tìm đường chạy.”

Không uổng công đào tạo, cặp sinh đôi chẳng hề thở mạnh lấy một cái. Tay họ di chuyển nhanh qua khóe mắt Kit.

“Bậy bạ,” cậu bảo. “Bố tôi là Johnny Rook.”

“Còn mẹ ngươi?” Cái giọng trầm thấp của Shade vang lên từ phía sau. Đám đông cũng đã tụ tập sau lưng y; họ không thể chạy đường đó.

“Tôi không biết,” Kit rít qua kẽ răng. Ngạc nhiên thay, Hypatia lại nhướng mày như thể biết được thứ mà cậu không biết. “Mà sao chẳng được, bọn tôi tới đây không phải để gây sự hay do thám các người. Bọn tôi cần pháp sư giúp đỡ.”

“Nhưng Nephilim đã có sẵn đám pháp sư thú cưng rồi đấy thôi,” Barnabas nói, “cái bọn sẵn sàng phản bội Thế Giới Ngầm trong khi nhét đầy túi bằng tiền của Clave. Nhưng sau việc lũ các ngươi làm với Malcolm…”

“Malcolm?” Hypatia thẳng lưng. “Bọn này là người nhà Blackthorn sao? Cái bọn đã giết anh ta?”

“Hắn chỉ chết có một phần thôi,” Ty nói. “Hắn quay lại trong dạng một con quỷ biển, được một thời gian. Giờ thì hắn chết thật rồi,” cậu ta bổ sung như thể nhận ra mình vừa nói hớ thế nào đó.

“Đây là lý do Sherlock Holmes để Watson đứng ra nói chuyện,” Kit khẽ rít lên với cậu ta.

“Holmes không bao giờ để Watson thay mình nói chuyện,” Ty phản pháo. “Watson là người hỗ trợ.”

“Tôi không phải người hỗ trợ,” Kit nói, rút dao trong túi ra. Cậu nghe thấy đám người sói cười nhạo kích cỡ con dao, nhưng chẳng để tâm. “Tôi nói rồi đấy. Chúng tôi đến đây để trao đổi với một pháp sư, xong việc là đi ngay. Tôi lớn lên ở Phiên Chợ Bóng Tối. Tôi không hề có ác ý gì với họ, hai người bạn của tôi cũng vậy. Nhưng nếu các người tấn công tôi, bọn tôi sẽ chống trả. Và rồi sẽ có những Nephilim khác đến trả thù cho bọn tôi. Để được gì? Có ích lợi gì không?”

“Cậu bé nói đúng,” Shade nói. “Cuộc chiến như thế không có lợi gì cho ai.”

Barnabas xua tay gạt đi. Mắt lóe lên dữ dội. “Nhưng để làm gương thì có đấy,” lão ta nói. “Hãy để lũ Nephilim nếm mùi nhìn thấy xác đám trẻ nhà mình bị quẳng ngay trước cửa, hiểu được rằng ở đời này chẳng có gì gọi là bồi hoàn hay công lý.”

“Đừng làm vậy…” Livvy cất tiếng.

“Xử chúng,” Barnabas ra lệnh, đám người sói cùng mấy kẻ qua đường ngay lập tức nhảy xổ vào họ.

Bên ngoài ngôi nhà nhỏ, ánh đèn dưới Polperro trải khắp sườn đồi như những vì sao lấp lánh. Tiếng ầm ì vọng đến, tiếng thở nhịp nhàng của đại dương, khúc hát ru của thế giới.

Rõ ràng nó đã ru ngủ được Emma. Mặc cho bao nỗ lực trà nước của Julian, cô vẫn dần dần đổ gục ngay trước lò sưởi, cuốn nhật kí của Malcolm lăn lóc cạnh bên, người co ro như một con mèo nhỏ.

Trước đó, cô ngồi đọc lớn quyển nhật kí cho cậu. Ngay từ đầu Malcolm đã là một đứa trẻ bơ vơ, lạc lõng chẳng nhớ bố mẹ mình là ai hay biết pháp sư là cái gì. Nhà Blackthorn đã nhận nuôi hắn, theo Julian thấy là vì họ cho rằng một pháp sư hẳn sẽ đem lại nhiều lợi ích cho họ, một pháp sư họ có thể kiểm soát và ra lệnh. Họ đã cho hắn biết về bản chất của mình, một cách chẳng mấy nhẹ nhàng.

Trong nhà chỉ có Annabel là đối tốt với Malcolm. Hai đứa trẻ đã cùng nhau khám phá những vách đá và hang động khắp vùng Cornwall, cô còn chỉ hắn cách dùng quạ để bí mật truyền tin. Malcolm viết ra những dòng nên thơ về vùng duyên hải, về sự biến đổi, về những cơn giông bão nơi đó, hắn cũng viết những lời bay bổng về Annabel, dẫu khi đó chưa biết được tình cảm của chính mình. Hắn yêu tài trí thông minh, bản chất mạnh mẽ của cô. Hắn yêu cách cô giận dữ đứng ra bảo vệ hắn trước những người họ hàng, rồi qua thời gian, vẻ đẹp tâm hồn cô không còn là điều duy nhất hắn mê đắm. Ngòi bút hắn ngập ngừng khi viết về làn da mềm mại, về đôi bàn tay, về khóe miệng, về những lần cô buông xõa bím tóc dài, để nó xổ tung như một vầng mây tối.

Julian đã không khỏi mừng thầm khi giọng Emma nhừa nhựa đi, rồi cô nằm xuống, dưỡng thần chút thôi, cô nói thế, và ngay lập tức chìm vào giấc ngủ. Cậu chưa từng nghĩ sẽ cảm thông với Malcolm hay tìm thấy điểm tương đồng giữa họ, nhưng những trang giấy của Malcolm thật chẳng khác nào câu chuyện về chính trái tim nát tan của cậu.

Có đôi khi, Malcolm viết, cái người ta quen biết cả cuộc đời bỗng một ngày trở nên khác lạ, khác lạ một cách tuyệt vời, giống như phát hiện ra bãi biển ngày ngày ta đi lại hóa ra không phải bằng cát mà bằng kim cương, những hạt kim cương rạng ngời chói lòa cả mắt. Annabel, nàng đã đoạt lấy cuộc đời ta, cái cuộc đời ảm đạm như một lưỡi dao cũ kĩ, nàng đập vụn nó rồi tái tạo thành một hình thù khác lạ và phi thường đến nỗi ta chỉ có thể ngẩn ngơ…

Một tiếng bộp vang lên, nghe như tiếng chim đập vào cửa kính. Julian ngồi thẳng dậy, đặt tay lên con dao trên chiếc bàn thấp cạnh sô pha.

Bộp, lần này lớn hơn.

Julian đứng dậy. Thứ gì đó vừa lướt qua cửa sổ, một thứ gì đó trăng trắng. Nó biến mất, nhưng tiếng bộp lại vang lên. Có gì đó vừa va vào cửa kính, như một đứa trẻ ném đá vào cửa nhà bạn để gây chú ý.

Julian liếc nhìn Emma. Cô nằm ngửa người, hai mắt nhắm nghiền, lồng ngực phập phồng lên xuống. Đôi môi hé mở, gò má ửng hồng.

Cậu bước ra cửa, chầm chậm xoay nắm đấm, cố không phát ra âm thanh. Cửa mở, cậu bước ra màn đêm.

Trời đêm tối tăm lạnh lẽo, vầng trăng chênh chếch trên mặt nước như viên ngọc ở cuối sợi dây chuyền. Mặt đất gồ ghề thoai thoải xuôi xuống đại dương. Làn nước trong suốt mà tối thẫm, thấy cả những khối đá ngầm bên dưới, Julian có cảm tưởng đang nhìn xuyên qua một tấm kính đen.

“Julian,” tiếng nói vang lên. “Julian Blackthorn.”

Cậu quay lại. Căn nhà giờ ở phía sau lưng. Phía trước cậu là Mỏm Đá, cái phần tận cùng mũi đất, những khóm cỏ vươn mình qua khối đá xám, nằm ngoài tầm với.

Cậu giơ tay lên, ngọn đèn phù thủy đã cầm sẵn. Ánh sáng tràn ra, soi rọi người con gái đứng đối diện cậu.

Cô ta như bước ra từ bức họa cậu vẽ. Mái tóc sẫm màu thẳng mượt, gương mặt trái xoan tựa Đức Mẹ u sầu, tất cả lẩn khuất dưới chiếc mũ trùm của một cái áo choàng lớn. Lấp ló qua vạt áo, cậu nhìn ra cái cổ chân mảnh mai trắng trẻo cùng đôi giày lấm bùn.

“Annabel?”

Con dao bay vụt khỏi tay Kit. Nó bắn thẳng qua đám đông đang nhào tới, cắm phập vào vai Barnabas Hale. Tên pháp sư vảy rắn lảo đảo rồi ngã ngửa ra, hét lên đau đớn.

“Kit!” Livvy ngỡ ngàng kêu lên; cô không chắc hành động vừa rồi có nên hay không, nhưng cậu vẫn nhớ rõ câu triết lí mà bố rất tâm đắc: Đánh rắn phải đánh đằng đầu.

Một tên pháp sư lợi hại hơn cả một đàn người sói, và Barnabas chính là tên thủ lĩnh. Hai lí do để hạ lão đầu tiên. Nhưng chẳng còn thời gian để nghĩ ngợi nữa, đám Cư dân Thế Giới Ngầm đã xông lên tới nơi.

“Umbriel!” Livvy quát. Lưỡi gươm sáng ngời vọt ra từ tay cô. Cô múa tít thanh kiếm lên, luyện kiếm cả đời khiến cô trở nên nhanh nhẹn và uyển chuyển. Cô tả xung hữu đột, mái tóc quất tung. Một vệt mờ rực rỡ của bóng tối và ánh sáng, lưỡi kiếm trên tay vẽ nên những vòng tròn máu.

Ty sử dụng đoản kiếm đứng dựa vào một quầy hàng, chiến thuật thông minh bởi bà chủ quầy đang kêu gào đám Cư dân Thế Giới Ngầm lùi lại khi chúng lăm le nhào tới.

“Ơi! Tránh ra!” bà chủ quầy hét lên, hốt mớ đồ sứ ném đi, những cái lọ thuốc bay thẳng vào gương mặt bất ngờ của đám người sói và ma cà rồng. Một số thuốc hình như chứa chất ăn mòn, bởi một tên người sói đã ngã lăn ra gào thét, cào cấu khuôn mặt bốc khói xì xèo.

Ty mỉm cười, và mặc cho mọi thứ đang diễn ra, Kit bất giác cũng cười theo. Cậu lưu nó vào kí ức đặng về sau ngẫm lại, bởi bây giờ một tên người sói đô con với đôi vai như trụ chống đang xồng xộc lao tới chỗ cậu. Cậu đưa tay nhổ bật một cây cột dựng lều của Shade lên, khiến cái lều nghiêng hẳn sang bên.

Kit quét cây cột ra. Nó không quá cứng, nhưng lại linh hoạt, giống như một cây roi khổng lồ. Cậu nghe thấy tiếng xương gãy rắc rõ to khi cây cột đập vào giữa ngực tên người sói đang trên đà lao tới. Hự một tiếng, tên người sói bay vọt qua đầu Kit.

Cả người Kit ngân lên vì phấn khích. Có lẽ họ sẽ làm được. Có lẽ ba người họ sẽ thoát được khỏi đây. Có lẽ mang dòng máu Thiên Thần chính là như thế này.

Livvy hét lên.

Kit vung gậy quất bay một tên ma cà rồng, đoạn quay lại xem có chuyện gì. Một trong mấy cái lọ bay loạn đã đập trúng hông cô. Thứ nước trong đó rõ ràng là axít, nó ăn mòn lớp áo, và dù cô đã rịn vết thương lại, Kit vẫn thấy máu tràn qua kẽ ngón tay.

Tay kia cô vẫn tiếp tục vung kiếm, nhưng đám Cư dân Thế Giới Ngầm như cá mập bắt được mùi máu đã bỏ lại Ty và Kit mà chuyển hướng sang cô. Cô đâm kiếm ra, trúng được hai tên, nhưng vì không thể tập trung, vòng kiếm bảo vệ quanh cô dần thu hẹp lại. Một tên ma cà rồng bước lên, liếm mép.

Kit cất bước chạy về phía cô. Ty ở phía trước dùng đoản kiếm dẹp đường qua đám đông. Máu nhỏ giọt xuống chân Livvy. Tim Kit hoảng loạn muốn ngừng đập. Cô đổ gục xuống ngay khi Ty tới nơi, hai chị em cùng khuỵu xuống đất, Livvy nằm gọn trong vòng tay em mình. Thanh Umbriel tuột khỏi tay.

Kit loạng choạng nhào tới chỗ hai người họ. Cậu ném cây cột ra, đập trúng vài tên người sói, đoạn chộp lấy con dao thiên thần của Livvy.

Ty đã thả rơi thanh đoản kiếm. Cậu ta ôm lấy người chị bất tỉnh trong tay, tóc cô đổ xuống vai và ngực em mình. Cậu ta rút thanh stele ra, vẽ chữ rune trị thương cho cô, nhưng bàn tay run run chỉ vẽ lên con chữ méo mó.

Kit giơ con dao sáng ngời lên. Ánh sáng của nó làm đám Cư dân Thế Giới Ngầm nhăn mặt lùi lại, nhưng cậu biết thế này chẳng thấm tháp gì: chúng sẽ lại xông lên và xé xác cậu, sau đó là xé xác Livvy và Ty. Cậu nhìn thấy Barnabas trong bộ âu phục đẫm máu đứng dựa vào tên vệ sĩ. Mắt lão xoáy thẳng vào Kit trong căm thù.

Không có thương xót gì ở đây hết.

Một con sói nhảy xổ vào Kit. Cậu vung thanh Umbriel ra. Và chém vào không khí. Con sói ngã huỵch ra đất như bị một bàn tay vô hình xô mạnh.

Một cơn gió thổi bạt qua. Mớ tóc vàng của Kit bay khắp mặt, cậu đưa bàn tay lấm máu vén lại. Lều bạt rung rinh, chai lọ va lạch cạch. Tia chớp xanh đánh lên, giáng thẳng xuống đất ngay trước mặt Barnabas.

“Xem ra,” giọng nói mượt mà vang lên, “ta đến vừa đúng lúc nhỉ.”

Bước về phía họ là một chàng trai cao ráo có mái tóc đen ngắn lỉa chỉa. Anh ta nhất định là một pháp sư: mắt là mắt mèo, đồng tử xẻ dọc, màu xanh lá pha vàng. Anh ta mặc một chiếc áo khoác dài màu xám than với đường viền đỏ kiểu cách, tà áo bay phấp phới sau mỗi bước chân.

“Magnus Bane,” Barnabas nói, căm hờn thấy rõ. “Tên Phản Bội Đệ Nhất.”

“Cái biệt danh ta không ưa mấy,” Magnus nói, nhẹ nhàng ngúc ngoắc tay về phía Barnabas. “Ta thích được gọi là ‘Chúa Tể Chủ Nhân,’ còn không thì ‘Hấp Dẫn Khỏi Bàn’ cũng được.”

Barnabas co rúm người. “Ba tên Nephilim này đã đột nhập vào Phiên Chợ, giả vờ…”

“Họ có vi phạm Hiệp định không?” Barnabas gắt. “Một đứa đã đâm ta.”

“Đứa nào?” Magnus hỏi.

Barnabas chỉ Kit.

“Ái chà chà,” Magnus nói. Tay trái anh ta buông thõng bên hông. Một cách kín đáo, anh ta giơ ngón cái lên với Kit. “Trước hay sau khi ngươi tấn công họ?”

“Sau,” Kit trả lời ngay. Một tên vệ sĩ của Barnabas dợm bước lên, cậu liền chĩa dao ra. Lần này tia chớp phóng ra từ tay Magnus đập xuống giữa hai bên như một sợi dây điện.

“Thôi ngay,” anh ta nói.

“Ngươi không có quyền gì ở đây hết, Bane,” Barnabas nói.

“Thật ra là có đấy,” Magnus nói. “Là pháp sư đại diện trước Hội Đồng Thợ Săn Bóng Tối, ta có nhiều quyền hạn. Chắc ngươi cũng biết.”

“À, bọn ta biết quá rõ ngươi phục tùng lũ Thợ Săn Bóng Tối đến mức nào.” Barnabas giận đến bốc lửa, nói tiếng nào là văng nước bọt tiếng ấy. “Nhất là cái bọn nhà Lightwood.”

Magnus lười biếng nhướng một bên mày. “Muốn nói bạn trai ta đấy à? Ghen hử Barnabas?”

Kit hắng giọng. “Thưa ngài Bane,” cậu nói. Cậu đã nghe danh Magnus Bane, ai mà lại không chứ. Anh ta có thể nói là pháp sư nổi tiếng nhất thế giới. Bạn trai anh ta, Alec, đã cùng với Maia Roberts và Lily Chen sáng lập ra Liên minh Cư dân Thế Giới Ngầm – Thợ Săn Bóng Tối. “Livvy bị mất rất nhiều máu. Ty dùng chữ rune trị thương rồi nhưng…”

Magnus sa sầm mặt trong tức giận thật sự. “Con bé chỉ mới mười lăm, nó là con nít,” anh ta gầm lên. “Sao các ngươi dám chứ?”

“Tính báo lại cho Hội Đồng sao Magnus?” Hypatia cuối cùng cũng lên tiếng. Bà ta lúc nãy không tham gia đánh hội đồng, hiện đang dựa người vào một cái quầy, đưa mắt nhìn Magnus từ trên xuống dưới. Shade dường như đã biến mất; Kit chẳng rõ y bỏ đi đâu.

“Ta thấy ở đây có hai lựa chọn,” Magnus nói. “Các ngươi đánh ta, các ngươi thua chắc, tin ta đi, vì ta đang rất giận, và vì ta lớn tuổi hơn tất cả các ngươi. Sau đó ta sẽ đi báo cho Hội Đồng. Còn không thì các ngươi để ta ra khỏi đây cùng lũ trẻ Nephilim này, không ai đánh ai, không bản báo cáo nào lên Hội Đồng. Thấy sao?”

“Tôi chọn phương án hai,” người phụ nữ đã ném chai lọ vào đám người sói nói.

“Cô ấy nói đúng đó Barnabas,” Hypatia nói. “Lui lại đi.”

Barnabas tính toán thật nhanh. Rồi lão quay ngoắt người, sải bước bỏ đi, đám vệ sĩ theo sau. Các Cư dân Thế Giới Ngầm còn lại cũng dần dần tản ra, lẩn vào đám đông, bộ dạng ỉu xìu.

Kit quỳ xuống cạnh Ty, cái người nãy giờ gần như không nhúc nhích. Hai mắt cậu ta đảo lia lịa, môi trắng bệch ra; dường như đã rơi vào trạng thái sốc.

“Ty à,” Kit ngập ngừng, đoạn đặt tay lên cánh tay cậu trai kia. “Ty…”

Chừng như không nhận ra người bên cạnh, Ty hất cậu ra. Cậu ta vòng tay ôm lấy Livvy, ngón tay áp xuống cổ tay cô, Kit nhận ra cậu ta đang thăm mạch. Cô vẫn còn sống. Kit có thể thấy rõ lồng ngực cô phập phồng lên xuống. Song Ty vẫn cứ ấn ngón tay xuống cổ tay chị mình như thể mạch đập của cô là thứ giúp cậu ta bình tâm lại.

“Tiberius.” Magnus lên tiếng, quỳ xuống bên cạnh, chẳng màng đến chỗ máu bùn vấy lên chiếc áo khoác đắt tiền. Anh ta không vươn tay ra, cũng không cố chạm vào Ty, chỉ nói bằng một giọng trầm thấp. “Tiberius. Tôi biết em có thể nghe thấy tôi. Em phải giúp tôi đưa Livvy về Học Viện. Về đó rồi tôi có thể chữa trị cho em ấy.”

Ty nhìn lên. Cậu ta không khóc, song sắc xám trong đáy mắt đã sẫm thành màu than cháy. Cậu ta ngây dại hỏi. “Chị ấy sẽ không sao chứ?”

“Cô bé sẽ ổn thôi.” Magnus chắc nịch nói. Kit đưa tay giúp Tiberius đỡ Livvy dậy, lần này Ty cho phép. Khi họ đứng lên được thì Magnus cũng đã tạo xong Cổng Dịch Chuyển, một cơn lốc màu lam, lục và hồng, nổi bần bật trên phông nền bóng tối của những ngôi lều bạt trong Phiên Chợ.

Ty đột nhiên quay sang Kit. “Cậu đỡ chị ấy nhé?” Cậu ta nói. “Bế Livvy giúp tôi?”

Kit kinh ngạc gật đầu. Việc Ty cho cậu bế người chị song sinh thể hiện cái niềm tin lớn đến nỗi cậu phải choáng váng. Cậu bế bổng Livvy lên bằng hai tay, mùi máu cùng phép thuật xộc vào hốc mũi.

“Đi nào!” Magnus gọi. Cổng Dịch Chuyển mở rộng: Kit có thể thấy bóng dáng Học Viện London phía bên kia.

Ty không quay lại. Cậu ta đã đeo tai nghe lên và hiện đang chạy băng qua lối đi không người dọc Phiên Chợ. Hai vai cậu ta gồng lên như chống đỡ những cú đấm đến từ mọi phía, song đôi tay vẫn vững vàng khi chạy đến cái quầy cuối lối đi. Cái quầy bán thần tiên. Cậu ta túm lấy mấy cái lồng, lần lượt giật tung cửa. Tiểu tiên, thủy yêu, yêu tinh lập tức ùa ra, sung sướng kêu lên vì được tự do.

“Thằng kia! Dừng tay ngay!” Tay chủ quầy la lên, chạy lại ngăn cản, song đã quá trễ. Ty ném cái lồng cuối cùng vào mặt gã, cửa lồng mở toang, một con quỷ lùn điên tiết bung móng nhào ra, cắm chặt răng xuống vai kẻ đã cầm tù mình.

“Ty!” Kit hô lên, Ty quay đầu chạy ngược về Cổng. Biết rằng Ty ở ngay sau, Kit bèn ôm chặt lấy Livvy rồi bước chân qua, để cơn lốc xoáy cuốn lấy mình.

Annabel nhẹ nhàng tiến về phía cậu, đôi giày lấm bùn bước trên đá không một âm thanh. Julian không thể nhúc nhích. Nỗi kinh ngạc đóng dính cậu tại chỗ.

Cậu biết cô ta đã sống lại. Cậu đã chứng kiến cô ta giết chết Malcolm. Nhưng ở chừng mực nào đó, cậu chưa bao giờ nghĩ về cô như một thực thể hữu hình đến vậy. Quá con người. Cô ta giống như một người cậu có thể vô tình gặp ở bất kì đâu: rạp chiếu phim, Học Viện, bãi biển.

Cô ta đã lấy quần áo từ đâu thế? Cái áo choàng kia không giống loại trang phục thường treo ở mấy cái sào phơi đồ, và cậu không nghĩ cô ta có tiền trong người.

Những tảng đá đổ bóng dài, cô ta bước đến trước cậu, kéo mũ trùm xuống. “Sao cậu tìm được nơi này?” Cô ta hỏi. “Ngôi nhà này?”

Cậu giơ tay lên, cô ta liền dừng lại, cách chưa đầy một thước. Những lọn tóc dài phất phơ theo gió đêm, chừng như đang nhảy múa.

“Các tiểu tiên cho tôi biết cậu ở đây,” cô ta lại nói. “Trước đây chúng hay đến chơi với Malcolm, chúng vẫn còn mến tôi lắm.”

Cô ta có nghiêm túc thật không? Julian chẳng biết.

“Cậu không nên đến đây,” cô ta nói. “Cậu không nên tìm tôi.”

“Tôi không hề có ý tổn thương hay hãm hại cô,” Julian nói. Nếu tiến đến gần hơn, liệu cậu có thể tóm lấy cô ta? Nhưng cái ý nghĩ dùng bạo lực để đoạt lấy Tập Sách Đen làm cậu buồn nôn. Cậu nhận ra mình chưa hề nghĩ cách để lấy quyển sách từ cô. Tìm kiếm cô ta đã là mối ưu tiên choán hết tâm trí. “Nhưng tôi đã thấy cô giết Malcolm.”

“Tôi vẫn nhớ nơi này sau hai trăm năm,” cô ta tiếp như thể cậu chẳng hề lên tiếng. Cô ta nói bằng giọng Anh, nhưng pha lẫn chút âm vực là lạ Julian chưa từng nghe qua. “Vẫn như cũ, có điều hồi ấy nhà cửa thưa thớt hơn, thuyền bè dưới bến đông đúc hơn.” Cô ta quay nhìn ngôi nhà nhỏ. “Malcolm đã tự xây ngôi nhà đó. Bằng phép thuật.”

“Sao cô không vào trong?” Julian hỏi. “Sao cô lại đợi tôi ngoài này?”

“Tôi bị chặn lại,” cô ta đáp. “Tay tôi đã dính máu Malcolm. Tôi không thể vào nhà hắn được.” Cô ta quay mặt sang Julian. “Cậu thấy tôi giết hắn ta bằng cách nào?”

Mây trôi đi để lại vầng trăng. Ánh trăng bàng bạc soi rọi đêm tối, vẽ lên đường viền trắng sáng quanh những cụm mây xốp.

“Tôi đã chứng kiến cảnh Malcolm hồi sinh cô,” Julian nói. “Qua viễn kính của Nữ Hoàng Seelie. Bà ta muốn tôi nhìn thấy cảnh đó.”

“Nhưng sao Nữ Hoàng lại muốn vậy?” Cô ta à một tiếng. “Để làm cho cậu muốn theo đuổi tôi. Để làm cho cậu muốn đoạt lấy Tập Sách Đen Tử Thần cùng tất cả sức mạnh trong đó.”

Cô ta cho tay vào trong áo choàng, rút ra một quyển sách. Một quyển sách đen, đen đặc như tụ tập tất cả bóng tối. Một sợi dây da cột quanh cuốn sách. Dòng chữ in trên bìa đã phai mờ từ lâu.

“Tôi không nhớ bất cứ điều gì về cái chết của mình,” Annabel khẽ khàng nói, Julian trong lúc đó nhìn chòng chọc quyển sách trên tay cô ta. “Tôi không nhớ mình chết thế nào, không nhớ khoảng thời gian nằm trong lòng đất, cũng không nhớ khi Malcolm hay tin và đến đào bới hài cốt tôi. Sau này tôi mới biết Malcolm đã bỏ ra rất nhiều thời gian để hồi sinh tôi, nhưng không có thần chú nào hiệu nghiệm hết. Xác tôi vẫn thối rữa, còn tôi thì không tỉnh lại.” Cô ta lật lật quyển sách trong tay. “Là Đức Vua Unseelie đã cho hắn biết Tập Sách Đen chính là chìa khóa. Đức Vua Unseelie là người đã cho hắn bài đồng dao cùng câu thần chú. Và cũng chính Đức Vua đã báo trước cho Malcolm cuộc tấn công Học Viện của Sebastian Morgenstern, rằng nơi đó sẽ không có ai canh giữ. Đổi lại, Đức Vua chỉ yêu cầu Malcolm nghiên cứu cho ông ta thứ thần chú để làm suy yếu Nephilim.”

Tâm trí Julian chạy hết tốc lực. Malcolm không hề nhắc đến vai trò Đức Vua Unseelie trong toàn bộ câu chuyện hắn kể cho nhà Blackthorn. Nhưng cũng chẳng có gì lạ. Đức Vua quyền năng hơn Malcolm nhiều, gã pháp sư hẳn không có gan mà động đến tên ông ta. “Sức mạnh của bọn tôi quả thật đã trở nên vô dụng ở Lãnh địa Unseelie,” Julian nói. “Không thể sử dụng dao thiên thần, đá phù thủy lẫn chữ rune.”

“Tác phẩm của Malcolm đấy,” cô ta nói. “Đã thành công được ở vương quốc mình, Đức Vua giờ muốn thi triển phép này ra toàn thế giới, tới cả Idris. Tước hết sức mạnh của Thợ Săn Bóng Tối. Ông ta sẽ chiếm lấy Alicante, đặt ngai vàng vào đấy. Thợ Săn Bóng Tối sẽ trở thành kẻ bị săn.”

“Tôi cần Tập Sách Đen, Annabel,” Julian nói. “Để ngăn chặn Đức Vua. Để ngăn chặn tất cả chuyện này.”

Cô ta nhìn cậu không chớp mắt. “Năm năm trước, Malcolm đã dùng máu Thợ Săn Bóng Tối để hồi sinh tôi.”

Bố mẹ Emma, Julian thầm nghĩ.

“Nó đánh thức được tâm trí tôi, nhưng thể xác thì không,” Annabel tiếp. “Thần chú chỉ có tác dụng một nửa. Tôi đã vô cùng đau đớn, chắc cậu cũng hiểu, sống không ra sống, chôn vùi trong lòng đất. Tôi gào thét trong câm lặng. Malcolm chẳng thể nghe thấy tôi. Tôi không thể cử động. Hắn tưởng tôi không biết gì, không nghe gì, thế nhưng hắn vẫn cứ trò chuyện với tôi.”

Năm năm, Julian nghĩ. Năm năm trời bị nhốt trong ngôi mộ ở điểm hội tụ, tỉnh táo nhưng lại không thể mở miệng, không thể rên la, không thể cử động.

Julian rùng mình.

“Giọng hắn truyền xuống mộ tôi. Hắn đọc đi đọc lại cho tôi bài thơ ấy. ‘Từ xa xưa tôi viết lại cuộc tình duyên.’” Ánh mắt cô trống rỗng. “Hắn phản bội tôi khi tôi còn sống lẫn khi tôi đã chết. Chết là một món quà, cậu có hiểu không? Bỏ lại tất cả đau đớn khổ lụy. Hắn tước đoạt điều ấy khỏi tay tôi.”

“Tôi rất tiếc,” Julian nói. Vầng trăng mờ nhạt vào nền trời. Chắc đã khuya lắm rồi.

“Rất tiếc,” cô hờ hững lặp lại, như thể hai tiếng ấy chẳng có ý nghĩa gì. “Sẽ có chiến tranh,” cô nói, “giữa Thế giới Thần Tiên và Thợ Săn Bóng Tối. Nhưng tôi không quan tâm. Cái tôi quan tâm là cậu phải hứa không tìm cách đoạt lấy Tập Sách Đen nữa. Quên nó đi Julian Blackthorn.”

Cậu thở hắt ra. Cậu sẵn sàng hứa một lời hứa đầu môi, nhưng ngờ rằng hứa hẹn với một người như Annabel tức là đeo vào cổ một cái gông khủng khiếp. “Tôi không hứa được,” cậu nói. “Bọn tôi cần Tập Sách Đen. Tôi không thể cho cô biết lí do, nhưng tôi thề sẽ không để nó lọt vào tay Đức Vua.”

“Tôi vừa nói với cậu quyển sách đã làm gì tôi,” lần đầu tiên cô ta trở nên sống động thật sự, hai gò má đỏ ửng lên. “Nó chẳng làm được gì ngoại trừ điều ác. Đừng nên muốn nó.”

“Tôi sẽ không dùng nó làm điều ác,” Julian nói. Cái đó là sự thật.

“Chẳng thể dùng nó vào bất cứ điều gì khác đâu,” cô nói. “Nó hủy hoại gia đình, con người…”

“Gia đình tôi sẽ bị hủy hoại nếu tôi không lấy được quyển sách.”

Annabel khựng lại, ồ một tiếng, rồi dịu giọng tiếp. “Nhưng hãy nghĩ đến những điều sẽ bị hủy hoại nếu quyển sách này lọt vào tay ai đó ngoài kia. Rất nhiều điều. Trên đời này còn nhiều điều quan trọng lắm.”

“Không phải với tôi,” Julian nói. Thế giới cứ cháy rụi đi, chỉ cần gia đình tôi được sống, cậu thầm nghĩ, và đã toan nói ra, song cửa nhà lại bật mở ngay lúc đó.

Emma đứng ngay ngưỡng cửa. Cô đang nhét chân vào ủng, Cortana lăm lăm trên tay. Mái tóc xõa qua vai bù xù, song bàn tay cầm kiếm lại vô cùng vững vàng.

Cô đưa mắt tìm kiếm Julian, và rồi trông thấy Annabel; cô giật mình, trợn tròn mắt không tin nổi. Cậu thấy cô mấp máy cái tên Annabel. Annabel lập tức lật mũ trùm lên rồi bỏ chạy.

Julian liền đuổi theo, Emma chậm hơn một giây. Nhưng Annabel lại nhanh nhẹn đến không ngờ. Cô ta thoăn thoắt phóng qua lớp cỏ cùng sườn đồi phủ thạch nam, ra đến tận rìa vách đá; nhìn lại sau lưng lần cuối, đoạn cô ta lao mình xuống núi.

“Annabel!” Julian chạy ra vách đá, Emma cạnh bên. Cậu trân trối nhìn xuống mặt nước cả chục thước dưới kia, êm đềm không gợn sóng. Annabel đã biến mất.

Cổng Dịch Chuyển nổ bùng trong Học Viện, cả nhóm nhào ra giữa thư viện. Cứ như bị thả từ tít trên cao xuống vậy, Kit lảo đảo đập lưng vào bàn, bấu lấy Livvy để không làm rơi cô.

Ty đổ khuỵu dưới đất, hiện đang chống tay đứng lên. Kit nhìn xuống mặt Livvy, xám xịt, vàng vọt đến gai người.

“Magnus…” cậu kêu lên.

Vốn đã quá thành thạo, anh chàng pháp sư nhẹ nhàng tiếp đất, đoạn quay lại xem xét tình hình. “Bình tĩnh đi,” anh ta nói, “không sao hết,” đoạn đỡ lấy Livvy. Kit nhẹ nhõm buông cô ra… sẽ có người xử lý việc này. Magnus Bane sẽ xử lý việc này. Anh ta sẽ không để Livvy chết.

Phải mất một lúc Kit mới nhận ra có người đứng sẵn trong thư viện. Một người cậu không quen, bước tới cạnh Magnus trong khi anh ta đặt Livvy xuống chiếc bàn dài. Một chàng trai trẻ trạc tuổi Jace, mái tóc đen nhìn như đã qua một đêm đánh giấc mà chẳng buồn chải lại. Người mặc một chiếc áo len bạc màu cùng quần bò. Anh chàng trừng mắt với Magnus. “Anh làm con thức rồi kìa.”

“Alec à, chúng ta đang có tình huống khẩn cấp ở đây đó,” Magnus nói.

Vậy ra đây là Alec Lightwood. Kit không hiểu sao lại nghĩ anh ta phải lớn tuổi hơn.

“Trẻ con thức giấc cũng là chuyện khẩn đó,” Alec nói. “Nói cho anh biết.”

“Được rồi nào, dời đồ đạc ra,” Magnus bảo Ty và Kit. “Anh đây cần không gian để làm việc.” Anh ta liếc mắt sang Alec trong khi hai đứa nhóc lôi ghế và mấy kệ nhỏ ra chỗ khác. “Tụi nhỏ đâu rồi?”

Magnus cởi áo khoác ra ném sang bên. Alec đưa tay chụp lấy, một hành động thuần thục cho thấy anh đã quá quen việc này. “Em giao tụi nó cho một cô gái dễ thương tên Cristina trông chừng. Em ấy nói là thích trẻ con lắm.”

“Em để con mình với người lạ à?”

“Những người khác ngủ hết rồi,” Alec nói. “Vả lại em ấy biết hát ru. Bằng tiếng Tây Ban Nha. Rafe mê lắm.” Anh nhìn sang Kit lần nữa. “Thiên Thần ơi, ghê chưa kìa,” anh buột miệng kêu lên.

Kit không khỏi chột dạ. “Cái gì ghê?”

“Cậu ta muốn nói em giống Jace quá,” Magnus giải thích. “Jace Herondale.”

“Parabatai của anh,” Alec nói bằng niềm yêu thương lẫn tự hào.

“Tôi biết Jace,” Kit nói. Cậu nhìn sang Ty đang chật vật kéo một cái ghế. Cái ghế đó chẳng nặng gì, chẳng qua tay cậu ta cứ hết nắm rồi thả, vậy nên thao tác cứ thành ra lóng ngóng vụng về. “Anh ta tới Học Viện L.A sau khi bố… sau khi họ biết được tôi là ai.”

“Người con thất lạc huyền thoại của nhà Herondale,” Magnus nói. “Vậy mà tôi cứ tưởng đó là lời đồn Catarina thêu dệt nên, giống như quái vật hồ Loch Ness hay Tam giác quỷ Bermuda ấy.”

“Catarina đặt ra chuyện Tam giác quỷ Bermuda sao?” Alec hỏi.

“Chọc cười vừa thôi Alexander. Là Ragnor.” Magnus khẽ chạm vào tay Livvy. Cô kêu á lên. Ty thả cái ghế xuống, hít mạnh một hơi.

“Anh làm chị ấy đau,” cậu ta nói. “Đừng mà.”

Giọng cậu ta lặng lẽ, nhưng Kit nhận ra chất thép trong ấy, bỗng thấy lại trước mắt cái tên nhóc đã kề dao vào cổ mình ở nhà bố.

Magnus chống tay xuống bàn. “Tôi sẽ cố Tiberius ạ,” anh ta nói. “Nhưng tôi có lẽ phải làm em ấy đau thì mới chữa được.”

Ty toan trả lời, thế nhưng cửa phòng đã bật mở, Mark chạy xộc vào. Nhìn thấy Livvy, mặt anh liền tái nhợt không còn giọt máu. “Livvy. Livia!”

Anh liền chạy tới, nhưng đã bị Alec níu tay lại. Alec nhìn mảnh mai là thế nhưng lại mạnh đến không ngờ. Anh giữ yên Mark trong khi Magnus đánh lên tia lửa xanh trên tay rồi lướt dọc hông Livvy. Tay áo của cô như tan ra, để lộ một vết cắt nham nhở ứa dịch vàng.

Mark hít mạnh một hơi. “Chuyện gì vậy?”

“Đánh nhau ở Phiên Chợ Bóng Tối,” Magnus đáp gọn. “Livvy bị một mảnh kính dính nước rễ cây quỷ orias cắt trúng. Rất độc, nhưng chữa được.” Anh ta vuốt dọc tay Livvy; ngón tay đi đến đâu, một quầng sáng xanh như bùng lên đến đấy, cơ hồ rung động ngay dưới da cô.

“Phiên Chợ Bóng Tối?” Mark hỏi lại. “Livvy làm cái quái gì ở Phiên Chợ Bóng Tối?”

Không ai trả lời. Kit có cảm tưởng ruột gan mình đang co rút hết lại.

“Sao rồi?” Ty hỏi. Tay cậu ta vung vẩy hai bên hông như cố giũ thứ gì đó đi. Vai căng ra sau. Cứ như nỗi lo lắng bồn chồn đang tự tạo thành một khúc nhạc vô thanh, dẫn dắt thần kinh và bắp thịt trong người Ty nhảy múa. “Cái ánh sáng xanh đó có bình thường không vậy?”

Mark nói gì đó với Alec, Alec gật đầu. Anh buông tay ra, và Mark liền vòng qua bàn, đến đặt tay lên vai Ty. Ty dựa vào người anh mình, song cơ thể vẫn lắc lư không dứt.

“Magnus là người giỏi nhất đấy,” Alec nói. “Phép trị thương là sở trường của anh ấy.” Giọng Alec thật dịu dàng. Cái giọng của một người không chỉ mềm mỏng vì muốn xoa dịu ai đó, mà còn vì thật sự biết cảm thông. “Magnus từng chữa cho anh. Nọc độc quỷ; lần đó anh tưởng mình chết luôn rồi. Các em cứ tin anh ấy.”

Livvy đột nhiên kêu thốt lên, giật lên một cái; Ty ôm lấy cánh tay mình, ngón tay siết chặt. Rồi cô thả lỏng người ra. Sắc mặt cô tươi tắn lại, đôi má vàng vọt ửng hồng lên. Ty cũng nhẹ người thấy rõ.

“Trục hết độc rồi đấy,” Magnus cho biết. “Giờ chỉ cần lo cho vết thương và chỗ máu bị mất thôi.”

“Có chữ rune cho hai thứ đó,” Ty nói. “Để em vẽ cho chị ấy.”

Nhưng Magnus đã lắc đầu. “Không nên, chữ rune rút đi một phần sức mạnh của người sử dụng,” anh ta nói. “Nếu cô bé có parabatai thì chúng ta có thể thử truyền sức mạnh từ người đó sang, nhưng cô bé đâu có đúng không?”

Ty không nói gì. Mặt cậu lặng tờ, trắng như tờ giấy. “Không có,” Kit lên tiếng, biết rằng Ty sẽ chẳng nói gì.

“Không sao cả. Cô bé sẽ ổn thôi,” Magnus trấn an họ. “Đưa cô bé về phòng đi nào. Chẳng có lí do gì để cô bé ngủ trên bàn.”

“Để tôi giúp,” Mark nói. “Ty à, đi với bọn anh nhé?”

“Alec này, qua bên bệnh xá giùm anh được không?” Magnus nói. Mark bước tới bàn bế cô em lên. Tội nghiệp Livvy, Kit thầm nghĩ; cô nàng mà biết mình bị vác tới vác lui như bao gạo thế này chắc sẽ bực lắm. “Em biết anh cần gì.”

Alec gật đầu.

“Dẫn Kit theo đi,” Magnus nói. “Em sẽ cần người cầm phụ đấy.”

Nghĩ đến việc xã giao với Alec, Kit thấy chẳng phiền gì. Từ Alec tỏa ra bầu không khí dễ chịu, trầm lặng và tĩnh tại. Cùng Alec bước ra khỏi phòng, Kit bất giác ngoái nhìn Ty lần nữa. Kit không có anh chị em, không có mẹ, chỉ có mỗi bố Johnny. Người bố đã chết, và cậu không nghĩ mình đã bao giờ mang cái biểu cảm như Ty lúc này, như thể chỉ mỗi việc Livvy có thể bị tổn thương thế nào đó đã đủ để con tim cậu ta vỡ thành trăm mảnh.

Có lẽ cậu bị gì rồi cũng nên, Kit vừa nghĩ vừa theo chân Alec ra hành lang. Có lẽ tình cảm trong cậu đã sai lệch cả. Cậu chưa từng thắc mắc về mẹ mình, hỏi xem bà là ai. Một người có tình cảm thật sự chắc hẳn đã thắc mắc rồi đúng không?

“Vậy là em đã gặp Jace,” Alec nói, lê gót xuống thảm. “Em nghĩ sao?”

“Về Jace á?” Kit bối rối. Sao lại có người muốn biết ý kiến của cậu về người đứng đầu Học Viện New York chứ?

“Chỉ tán gẫu thôi mà.” Alec có nụ cười nửa miệng kì lạ, như thể trong đầu anh chất chứa cả đống suy nghĩ. Cả hai đi qua cánh cửa treo biển BỆNH XÁ, bước vào căn phòng lớn bày những chiếc giường sắt lạc hậu. Alec bước ra sau quầy thuốc, bắt đầu lục lọi.

“Jace không giống anh lắm,” Kit nói. Bức tường đối diện cậu có một mảng đen kì quặc, nhìn như vết sơn loang lổ tạo thành hình một cái cây.

“Nói thế còn nhẹ đấy,” Alec đặt chồng bông băng lên mặt quầy. “Nhưng chẳng sao. Parabatai không nhất thiết phải giống nhau. Họ chỉ cần phải bù trừ cho nhau. Phối hợp tốt với nhau.”

Kit nghĩ đến Jace tự tin rực rỡ như vàng, và Alec ung dung điềm đạm. “Anh và Jace bù trừ cho nhau nhỉ?”

“Anh còn nhớ lúc mới gặp cậu ta,” Alec nói. Anh tìm thấy hai cái thùng, bèn bỏ bông băng vào một bên, lọ thuốc vào một bên. “Cậu ta từ Idris đến qua Cổng Dịch Chuyển. Cậu ta gầy gò, mình mẩy bầm tím, hai mắt tròn to. Và cũng rất là ngạo mạn. Cậu ta và Isabelle cứ đánh nhau suốt…” Anh mỉm cười hồi tưởng. “Nhưng với anh, mọi điều ở cậu ta đều chỉ muốn nói, ‘Yêu thương tôi đi, vì chưa từng có ai yêu thương tôi hết.’ Nó hiện hữu khắp người cậu ta như dấu vân tay ấy.”

“Cậu ta rất lo lắng vì sắp được gặp em,” Alec lại nói. “Cậu ta vốn không có họ hàng thân thích nào. Cậu ta quan tâm đến suy nghĩ của em. Cậu ta muốn được em thích.”

Anh nhìn sang Kit. “Đây, cầm lấy một thùng đi.”

Đầu Kit quay cuồng. Cậu nghĩ đến Jace, nghênh ngang, vui vẻ, kiêu hãnh. Nhưng Alec lại nói về Jace như thể anh ta là một đứa bé yếu ớt, thèm khát được yêu thương vì quá thiếu vắng tình thương. “Nhưng tôi có là gì đâu,” cậu nói, ôm lấy cái thùng đựng đầy bông băng. “Sao anh ta phải bận tâm tôi nghĩ gì? Tôi không quan trọng. Tôi chẳng là gì hết.”

“Em quan trọng với Thợ Săn Bóng Tối chứ,” Alec nói. “Em là người nhà Herondale. Đừng bảo đấy chẳng là gì.”

Ẵm Rafe trong tay, Cristina khe khẽ hát. Đã năm tuổi rồi mà cậu nhóc vẫn còn nhỏ quá, giấc ngủ cũng chẳng được sâu. Nhóc cứ quẫy người rồi thở dài, những ngón tay nâu nâu bấu chặt lấy lọn tóc đen. Nhìn nhóc cô lại nhớ đến mấy đứa em họ, lũ trẻ cứ đòi ôm, đòi kẹo, đòi hát ru mới chịu ngủ.

Max thì ngược lại, nằm yên như một hòn đá, một hòn đá màu xanh dương đậm, với đôi mắt to tròn màu xanh hải quân đáng yêu và nụ cười khoe hai chiếc răng cửa thưa. Lúc Cristina, Mark và Kieran chạy ra phòng khách để gặp Alec, Magnus và hai đứa con thì cụ Evelyn đã có mặt, càm ràm về sự hiện diện của mấy pháp sư có nước da xanh đau mắt. Cristina hy vọng đa số Thợ Săn Bóng Tối không có phản ứng với Max kiểu đó, nếu không thì bé con đáng thương sẽ bị khủng hoảng lắm luôn.

Nghe qua thì Alec và Magnus vừa đi xa về, rồi nhận được tin nhắn nhờ vả của Diana. Họ đã Dịch Chuyển đến Học Viện London ngay lập tức. Biết được Mark và Cristina bị dính phép trói buộc, Magnus đã tới Phiên Chợ Bóng Tối trong khu vực để tìm sách phép hòng hóa giải thần chú.

Rafe và Max bị bỏ lại trong căn nhà lạ với một người bố duy nhất bắt đầu khóc ầm lên. “Ngủ đi con,” Alec rầu rĩ nói với Rafe, bế nhóc vào một phòng trống. “Adorno.”

Cristina cười khúc khích. “Từ đó có nghĩa là ‘trang trí’ chứ không phải ‘ngủ.’”

Alec thở dài. “Anh vẫn đang học tiếng Tây Ban Nha. Magnus mới nói rành.”

Cristina mỉm cười với Rafael đang sụt sịt. Cô thường hay hát ru cho mấy đứa em họ, giống như mẹ hồi trước hát ru cô; không chừng Rafe sẽ thích. “Oh, Rafaelito,” cô nói với cậu nhóc, ôi Rafael bé bỏng. “Ya es hora de ir a dormir. ¿Te gustaría que te cante una canción?”4

4. Đến giờ ngủ rồi. Cháu muốn cô hát ru cho không?

Nhóc gật đầu lia lịa. “¡Sí!”

Cristina bèn dạy Alec tất cả những bài hát ru mình biết trong khi anh ẵm Max còn cô ngồi với Rafe. Không lâu sau thì Magnus Dịch Chuyển về, nghe thấy tiếng lục đục ầm ĩ trong thư viện, Alec liền chạy ra xem, nhưng Cristina quyết định ngồi lại trừ khi có ai gọi, bởi các pháp sư vốn dĩ hành sự rất bí ẩn, và những người bạn trai quyến rũ của họ cũng thế.

Vả lại, có một đứa trẻ vô hại để làm cô phân tâm cũng tốt lắm chứ. Cô chắc rằng, khá là chắc rằng có thể hóa giải phép trói buộc này. Thế nhưng cô vẫn cứ băn khoăn: ngộ nhỡ không được thì sao? Cô và Mark sẽ khổ sở cả đời, bị trói buộc vào nhau bằng mối dây không ai mong muốn. Rồi họ sẽ đi đâu? Ngộ nhỡ anh muốn quay về Xứ Tiên thì sao? Cô đâu thể đi theo anh được.

Dòng suy nghĩ về Diego cũng kéo tới hành hạ cô: cô cứ ngỡ sẽ nhận được thư anh lúc ở Xứ Tiên về, nhưng chẳng có gì hết. Một người có thể nào biến mất khỏi cuộc đời ta đến những hai lần không? Cô thở dài, cúi xuống xoa đầu Rafe, khe khẽ hát.

“Arrorró mi niño,

arrorró mi sol,

arrorró pedazode mi corazón.


À ơi con ngoan

À ơi mặt trời nhỏ

À ơi một phần trái tim mẹ.”

Alec bước vào phòng lúc cô đang hát, bèn ngồi xuống giường cạnh Max, dựa lưng vào tường.

“Tôi đã nghe bài đó trước đây,” là Magnus, đứng ngay ngưỡng cửa. Anh ta có vẻ mệt mỏi, đôi mắt mèo mở không nổi. “Không nhớ là ai hát.”

Anh ta bước đến, cúi xuống bế Rafe trong tay cô lên. Anh ta ôm cậu nhóc vào lòng, để đầu Rafe dụi vào cổ.

Cristina tự hỏi chuyện này đã bao giờ xảy ra chưa: một Thợ Săn Bóng Tối có bố là pháp sư.

“Sol solecito, caliéntame un poquito,

Por hoy, por mañana, por toda la semana,”

Magnus cất tiếng hát. Cristina ngạc nhiên nhìn anh ta. Giọng anh ta ngọt ngào đấy chứ, có điều cô không biết khúc ca này. Mặt trời, mặt trời nhỏ, sưởi ấm ta đi, sưởi ấm giấc trưa, sưởi ấm giấc sáng, sưởi ấm cả tuần dài.

“Anh không sao chứ Magnus?” Alec hỏi.

“Không sao, Livvy cũng vậy. Đang hồi phục. Tới mai là bình thường lại.” Magnus xoay vai giãn gân cốt.

“Livvy ư?” Cristina giật mình nhổm dậy. “Livvy bị gì rồi?”

Alec và Magnus đưa mắt nhìn nhau. “Em chưa nói với cô ấy à?” Magnus hạ giọng hỏi.

“Em không muốn tụi nhỏ sợ,” Alec nói, “vả lại em nghĩ để anh giải thích thì tốt hơn.”

Cristina lồm cồm đứng dậy. “Livvy bị thương sao? Mark hay tin chưa?”

Magnus lẫn Alec liền trấn an cô rằng Livvy không sao cả, và rằng Mark đã hay tin rồi, nhưng cô đã chạy ra khỏi cửa.

Cô lao qua hành lang về hướng phòng Mark. Cổ tay cô co giật, đau nhói. Nãy giờ cô đã lờ đi, nhưng nỗi lo lắng khiến nó bùng lên dữ dội. Phải chăng đây là cảm giác đau lòng của Mark truyền qua mối dây giữa họ, giống như parabatai, đôi khi cảm nhận được nỗi đau của nhau? Hay là phép trói buộc đã trở nên trầm trọng hơn, mãnh liệt hơn?

Cửa phòng anh không đóng, ánh sáng tràn qua khe cửa. Cô thấy anh nằm trên giường, vẫn còn tỉnh táo. Cô có thể thấy cả vết hằn sâu của thần chú trói buộc như một cái vòng chật đeo quanh cổ tay trái anh.

“Cristina?” Anh ngồi dậy. “Cô có sao không?”

“Tôi đâu phải người bị thương,” cô nói. “Alec và Magnus cho tôi biết chuyện của Livvy rồi.”

Anh co chân lên, chừa chỗ cho cô ngồi xuống giường. Cơn đau ở cổ tay giảm đi ngay lập tức, làm cô có phần váng vất.

Anh kể lại tất cả những việc Kit, Livvy và Ty đã làm: viên pha lê bọn nhóc tìm thấy ở Dinh Blackthorn, chuyến đi tới Phiên Chợ Bóng Tối, việc Livvy bị thương. “Tôi không thể không nghĩ,” anh kết thúc, “rằng nếu Julian có mặt ở đây, nếu nó không giao phó cho tôi, thì những chuyện này nhất định đã không xảy ra rồi.”

“Là Julian nói bọn nhóc có thể đi tới Dinh Blackthorn. Đa số chúng ta mười lăm tuổi là đã được sai đi làm nhiệm vụ. Bọn nhóc trái lời không phải lỗi của anh.”

“Tôi không dặn tụi nó không được tới Phiên Chợ Bóng Tối,” anh khẽ rùng mình. Anh kéo chiếc chăn chần bông khoác qua vai, nhìn như một chú hề Harlequin buồn bã.

“Anh cũng đâu có dặn bọn chúng không được lấy dao đâm nhau, vì bọn chúng tự biết,” cô đanh giọng. “Phiên Chợ Bóng Tối là khu vực cấm. Không ai được tới đó. Mặc dù… đừng có nặng lời với Kit quá nhé. Phiên Chợ Bóng Tối là thế giới quen thuộc của nó.”

“Tôi không biết làm sao để chăm sóc chúng,” anh nói. “Làm sao để tôi bắt chúng nghe lời trong khi bọn mình có ai thèm nghe đâu? Chúng ta đi tới Xứ Tiên… phạm Luật còn nặng gấp trăm lần ghé qua Phiên Chợ Bóng Tối.”

“Có lẽ anh em các người nên dần học cách chăm sóc lẫn nhau,” cô nói.

Anh mỉm cười. “Cô thông thái thấy sợ luôn.” “Kieran sao rồi?” Cô hỏi.

“Còn thức, chắc vậy,” anh nói. “Cậu ta thơ thẩn trong Học Viện vào ban đêm. Ngủ không được ngon lắm từ khi đến đây… quá nhiều sắt, tôi nghĩ vậy. Quá nhiều thành phố.”

Cổ áo của anh khá rộng, sờn chỉ. Qua đó cô thấy được nơi những vết sẹo bắt đầu, dấu ấn của những vết thương cũ, kí ức của những lưỡi dao. Chiếc chăn tuột dần khỏi vai anh. Cristina đưa tay kéo lên lại trong vô thức.

Tay cô vuốt qua cổ Mark, vùng da trần ngay trên mép áo. Nóng quá. Anh nghiêng người sang cô; mùi thông rừng phảng phất bên cánh mũi.

Anh kề gần đến nỗi cô nhìn ra được sắc màu xoay chuyển trong đôi đồng tử nơi anh. Cô hít rồi thở, mỗi một lần lại như nhích về phía anh một chút.

“Đêm nay cô ngủ lại đây được không?” Anh khàn giọng. “Vậy sẽ đỡ đau hơn. Cho cả hai ta.”

Đôi mắt dị thường nơi anh ánh lên trong thoáng giây, và cô nghĩ đến những lời Emma từng nói, rằng đôi khi nhìn vào anh, Emma như thấy được sự hoang dã, tự do và con đường dài vạn dặm, không điểm tận cùng.

“Không được,” cô thì thầm.

“Cristina…” Anh quỳ lên. Ngoài kia mây giăng kín trời, chẳng thấy trăng cũng chẳng thấy sao, nhưng Cristina vẫn nhìn thấy anh, mái tóc vàng rối bù, ánh mắt đặt lên cô.

Anh ở gần quá, chân thật quá. Cô biết chỉ cần anh chạm vào, cô sẽ vỡ vụn ngay. Cô còn chẳng rõ thế nghĩa là gì, chỉ biết rằng cái hình ảnh vỡ vụn ra từng mảnh khiến cô kinh hãi, và rằng nhìn vào Mark cô còn thấy cả Kieran, tựa như hình với bóng.

Cô leo xuống giường. “Xin lỗi Mark,” cô nói, đoạn nhanh chân bỏ ra khỏi phòng, gần như là tháo chạy.

“Annabel có vẻ buồn quá,” Emma nói. “Buồn đến nao lòng.”

Họ đang nằm cạnh nhau trên giường. Cái giường thoải mái hơn ở Học Viện nhiều, kể cũng có chút oái oăm, bởi đây là nhà của Malcolm. Julian đồ rằng đến cả kẻ sát nhân cũng cần một cái giường đúng nghĩa chứ chẳng có điên mà đi ngủ trên một tấm phản làm bằng đầu lâu.

“Cô ta không muốn mình động tới Tập Sách Đen,” Julian nói. Cả hai nằm ngửa người. Emma trong bộ đồ ngủ mua dưới trấn, còn Julian mặc quần thun và áo phông cũ. Vai họ chạm nhau, chân cũng thế; chiếc giường vốn chẳng rộng gì. Nhưng nếu nó có rộng hơn thì Julian cũng chẳng nhích ra. “Cô ta nói nó chỉ mang đến điều xấu.”

“Nhưng cậu không đồng tình.”

“Mình không nghĩ chúng ta còn có lựa chọn. So với tất cả những nơi khác trên thế giới, để quyển sách ở Triều đình Seelie xem ra là tốt nhất.” Cậu thở dài. “Cô ta bảo đã nói chuyện với mấy tiểu tiên trong khu vực. Chúng ta phải nhắn tin cho mấy người kia, hỏi xem họ có biết cách nào để đánh bẫy tiểu tiên. Bắt một con, tìm hiểu xem nó biết được gì.”

“Được.” Emma nhừa nhựa, mắt ríu lại. Nỗi mệt mỏi tương tự kéo ghì Julian xuống. Ngày hôm nay đã dài quá sức rồi. “Cậu muốn thì lấy điện thoại mình nhắn tin đi.”

Julian không thể sạc điện thoại của mình vì không mang đúng dây. Cái loại vấn đề Thợ Săn Bóng Tối vốn không hay để ý.

“Tụi mình khoan kể lại chuyện Annabel đến đây với mấy người kia nhé,” Julian nói. “Họ sẽ phát hoảng mất, vả lại mình muốn xem đám tiểu tiên biết được gì.”

“Ít nhất cậu phải cho họ biết Đức Vua Unseelie đã giúp Malcolm lấy được Tập Sách Đen,” Emma mơ màng nói.

“Mình sẽ bảo hắn viết vậy trong nhật kí,” Julian nói.

Cậu chờ xem Emma có phản đối không, nhưng cô đã chìm vào giấc ngủ. Còn Julian cũng mấp mé rồi. Emma nằm đây, ngay bên cạnh cậu, một lẽ tự nhiên. Cậu chợt nhận ra mấy tuần vừa rồi mình khó ngủ đến mức nào, cũng bởi thiếu vắng cô.

Cậu không rõ mình thiếp đi hồi nào. Mở mắt ra, cậu có thể thấy ánh lửa tàn trong lò sưởi, le lói chút than hồng. Và cậu cảm nhận được Emma, ngay bên cạnh mình, tay vắt ngang qua ngực cậu.

Cậu cứng người. Cô nhất định đã trở mình trong lúc ngủ. Cô rúc sát vào người cậu. Cậu cảm nhận được hàng mi và hơi thở nhẹ nhàng phả lên da mình.

Cô lẩm bẩm, dụi đầu vào cổ cậu. Trước khi lên giường, cậu đã khiếp đảm nhận ra nếu mình mà chạm vào cô, cái khát khao đập tan định lực lúc ở Điện Seelie sẽ một lần nữa trỗi lên trong cậu.

Giờ nỗi khát khao ấy đã đến, tuyệt vời hơn mà cũng khổ sở hơn. Nó là một mối ôn nhu quyết liệt và khủng khiếp. Lúc tỉnh táo, Emma mang cái khí chất khiến bản thân như cao lớn hơn, uy nghi hơn, nhưng giờ cô co người bé nhỏ bên cậu, mong manh tới nỗi con tim cậu quay cuồng lên với suy nghĩ phải làm sao để bảo vệ một điều dễ vỡ thế này trước bão tố cuộc đời.

Cậu muốn ôm cô mãi mãi, muốn bảo bọc, muốn giữ cô sát bên mình. Cậu muốn được tự do viết ra tất cả tình cảm dành cho cô như cách Malcolm viết về mối tình chớm nở với Annabel. Nàng đập vụn cuộc đời ta rồi tái tạo thành một hình thù khác.

Cô khẽ thở dài, vùi người xuống nệm. Cậu muốn viền tay theo bờ môi cô, muốn vẽ nó lại… Nó thay đổi mãi thôi, đôi môi trái tim biến chuyển theo buồn vui thương giận, nhưng cái biểu cảm này, giữa mơ và tỉnh, nửa ngây thơ, nửa thấu suốt, đã nắm lấy hồn cậu theo một cách mới lạ hoàn toàn.

Những con chữ của Malcolm vang vọng trong đầu cậu. Giống như phát hiện ra bãi biển ngày ngày ta đi lại hóa ra không phải bằng cát mà bằng kim cương, những hạt kim cương rạng ngời chói lòa cả mắt.

Kim cương có thể làm ta lòa mắt vì vẻ đẹp, nhưng nó cũng là thứ đá quý cứng nhất, sắc nhất trên đời này. Nó có thể cắt ta, nghiền ta, đập nát và xẻ ta thành mảnh vụn. Malcolm, chìm đắm trong hơi men ái tình đã không nghĩ đến điều đó. Nhưng Julian thì lại không thể nghĩ đến bất cứ điều gì khác.

Cửa phòng Livvy đóng rầm làm Kit giật mình tỉnh dậy. Cậu ngồi lên, cả người ê ẩm, nhìn Ty trong phòng cô bước ra.

“Cậu nằm dưới sàn,” Ty nhìn cậu.

Kit chẳng thể phủ nhận. Sau khi thu gom dụng cụ ở bệnh xá, cậu và Alec đã đến phòng Livvy. Sau đó Alec đi kiểm tra mấy đứa con mình, vậy là còn lại Magnus lặng lẽ ngồi bên Livvy, thỉnh thoảng xem vết thương có hồi phục. Và Ty, đứng dựa vào tường, nhìn chị mình không chớp mắt. Cứ như một cái phòng bệnh mà Kit không nên đặt chân vào.

Vậy nên cậu ra ngoài. Nhớ lại những lần Ty ngủ trước phòng mình lúc cậu mới tới Los Angeles, cậu bèn co người nằm xuống tấm thảm cũ mòn, vốn không mong có thể chợp mắt. Cậu còn chẳng nhớ mình thiếp đi lúc nào.

Cậu lồm cồm ngồi dậy. “Chờ…”

Nhưng Ty đã bỏ xuống hành lang như chẳng hề nghe thấy Kit. Rồi Kit cũng đứng dậy được, chạy vội theo sau.

Cậu chẳng rõ tại sao. Cậu đâu có quen thân gì với Tiberius Blackthorn, cậu thầm nghĩ trong lúc Ty rẽ đại sang một hướng rồi leo lên cầu thang. Cậu cũng đâu quen thân gì chị cậu ta. Chưa kể họ là Thợ Săn Bóng Tối. Ty thì muốn lập nhóm thám tử nghiệp dư với cậu, một ý tưởng buồn cười. Một cái ý tưởng mà cậu chắc chắn không hề có hứng thú, cậu tự nhủ. Nơi đầu cầu thang, cậu trông thấy một cánh cửa cũ kĩ.

Ngoài trời chắc lạnh lắm, cậu thầm nghĩ khi nhìn Ty đẩy cửa ra và vâng, cái lạnh ướt át lập tức tràn vào. Ty biến mất vào bóng đêm rét mướt ngoài kia, Kit vội đi theo.

Họ đã trở lên sân thượng, nhưng trời không còn tối nữa, Kit bất ngờ nhận ra; đã là hừng đông, âm u nặng nề, với những áng mây tụ tập trên sông Thames và mái vòm nhà thờ Thánh Paul. Thanh âm phố phường vọng đến, tiếng ồn ã của hàng triệu con người bắt đầu ngày mới, chẳng hề hay biết đến Thợ Săn Bóng Tối hay phép thuật hay những điều nguy hiểm. Chẳng hay biết đến Ty, người đang đứng bên hàng rào bao bọc sân thượng, nhìn xuống thành phố. Tay cậu ta siết chặt lấy đầu chấn song.

“Ty à.” Kit bước đến, và Tiberius quay lại, lưng áp vào hàng rào. Hai vai cậu ta cứng ngắc, vậy nên Kit dừng lại, không muốn xâm phạm vào khoảng không riêng tư kia. “Cậu ổn không vậy?”

Ty lắc đầu. “Lạnh,” cậu ta đáp. Răng đánh lạch cạch. “Tôi lạnh quá.”

“Vậy thì mình xuống lầu đi,” Kit nói. “Dưới đó ấm hơn.”

“Tôi không thể.” Từng tiếng buông ra như dội lên từ một nơi sâu thẳm trong lòng, một tiếng vọng đã khuất mình vào làn nước. “Ở trong căn phòng đó, tôi không thể… nó…”

Cậu ta tức tối lắc đầu như không thể tìm ra đúng cái từ đang tra tấn mình.

“Livvy sẽ ổn thôi,” Kit nói. “Đến mai là cô ấy sẽ khỏe lại. Magnus nói rồi.”

“Nhưng là tại tôi.” Ty ép chặt lưng vào hàng rào, nhưng nó vẫn không giữ nổi cậu ta. Cậu ta từ từ trượt xuống, rồi ngồi bệt ra đất, gối co sát ngực. Cậu ta thở dốc, lắc lư tới lui, tay bấu lấy mặt như muốn gạt đi lớp mạng nhện hay một con nhặng phiền toái. “Phải chi tôi là parabatai của chị ấy… Tôi muốn học ở Scholomance, nhưng nó có quan trọng gì đâu; Livvy mới quan trọng…”

“Cậu không có lỗi,” Kit nói. Ty lắc đầu thật mạnh. Kit hoảng hốt cố nhớ lại những gì đã đọc trên mạng khi người ta bị suy sụp trầm trọng, vì cậu khá chắc Ty đang đứng ngay ngưỡng đó. Cậu quỳ xuống lớp ngói ẩm ướt… cậu có nên chạm, hay không nên chạm vào Ty đây?

Cậu chỉ có thể tưởng tượng những gì Ty phải chịu đựng mọi lúc mọi nơi: thế giới cùng lúc lao thẳng vào mình, tiếng ồn điếc tai, ánh sáng chói mắt, không ai thèm nhớ phải điều chỉnh giọng điệu. Rồi toàn bộ lối sống quen thuộc bị đau khổ và sợ hãi tước đoạt đi, bỏ lại ta trần trụi như một Thợ Săn Bóng Tối bước vào chiến trường mà tay không tấc sắt.

Cậu nhớ ra vài điều, cái gì mà bóng tối, áp lực, chăn mền và tĩnh lặng. Nhưng làm sao để có được mấy thứ đó ở trên sân thượng này thì cậu đành chịu.

“Nói với tôi đi,” Kit bảo. Nói với tôi cậu cần gì đi.

“Vòng tay quanh người tôi,” Ty nói. Hai tay cậu ta hoa tít lên thành một vệt mờ, Kit tưởng như mình đang nhìn vào một đoạn phim tua nhanh. “Giữ tôi lại.”

Cậu ta vẫn lắc lư. Sau vài giây, Kit cũng vòng tay quanh người Ty, không biết phải làm gì tiếp theo.

Cứ như giữ lấy một mũi tên rời khỏi cung: Ty nóng rực, sắc cạnh trong tay cậu, và đang run lên với thứ cảm xúc lạ lùng. Chẳng biết là bao lâu sau, cậu ta cũng thả lỏng người đi một chút. Tay cậu ta chạm vào Kit, cử động chậm chạp, ngón tay dần siết lấy lớp áo len của Kit.

“Chặt hơn,” Ty nói. Cậu ta bám lấy Kit như một chiếc phao cứu sinh, trán dúi vào vai cậu đến đau nhói. Cậu ta nghẹn ngào nói. “Tôi cần phải cảm nhận được.”

Kit vốn không ưa ôm ấp, và nếu cậu nhớ đúng thì chưa từng có ai tìm đến cậu để được an ủi. Cậu đâu phải kiểu người biết an ủi. Cậu luôn cho là thế. Và cậu có quen thân gì Ty đâu.

Thế nhưng Ty làm việc gì cũng có lí do, kể cả khi những kẻ có tư duy khác biệt không thể ngay lập tức hiểu được lí lẽ của cậu ta. Kit nhớ đến cái cách Livvy day ấn tay Ty mỗi khi cậu ta căng thẳng, bèn nghĩ: Áp lực là một loại cảm giác; thứ cảm giác níu giữ. Bình tâm. Nghe cũng hợp lí. Vậy là Kit ôm chặt Ty hơn cho đến khi Ty thả lỏng vào vòng tay cứng cáp; ôm chặt cậu ta hơn ôm bất kì ai trong đời, ôm chặt cậu ta như thể cả hai đã lạc giữa biển trời mênh mông, và chỉ có bám víu lấy nhau thì họ mới không trôi giạt qua London đổ nát.