• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Đức vua hắc ám (Tập 2)
  3. Trang 7

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 18
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 18
  • Sau

18Kí ức xưa

J

ia Penhallow ngồi sau bàn làm việc trong văn phòng Quan Chấp Chính, nắng vàng rọi khắp Alicante hắt qua khung cửa. Những ngọn tháp quỷ cao vút lấp lánh bên ngoài cửa sổ: đỏ, vàng, cam, tựa như một mảnh gương vỡ lấm máu.

Bà ta vẫn mang gương mặt nồng hậu như những gì Diana nhớ, nhưng dường như đã già đi rất nhiều so với năm năm sau Cuộc Chiến Hắc Ám. Mái tóc đen kẹp gọn trên đỉnh đầu đã điểm vài sợi bạc.

“Gặp cô thật tốt quá Diana,” bà nghiêng đầu sang chiếc ghế đối diện bàn. “Tất cả chúng tôi đều rất tò mò về tin tức bí ẩn của cô.”

“Tôi có thể hiểu,” Diana ngồi xuống. “Nhưng tôi mong rằng những gì tôi sắp nói ra sẽ là chuyện riêng của hai ta.”

Jia không tỏ ý ngạc nhiên. Mà nếu có hẳn cũng không để lộ. “Tôi hiểu rồi. Tôi đã tự hỏi liệu cô có đến để bàn về vị trí người đứng đầu Học Viện Los Angeles. Giờ Arthur Blackthorn đã mất, tôi đoán cô muốn tiếp quản vị trí ấy.” Đôi tay bà thoăn thoắt sắp xếp mớ giấy tờ trên bàn, cắm lại bút vào đúng chỗ. “Ông ấy thật can đảm khi một mình tiếp cận điểm hội tụ như thế. Tôi rất tiếc về cái chết của ông ấy.”

Diana gật đầu. Không ai giải thích được vì sao xác Arthur lại tìm thấy gần khu tàn tích điểm hội tụ, cổ họng bị rạch toang, cả người bê bết máu cùng dịch quỷ. Về sau, Julian đã nặng nề cho cô biết đó là máu của Malcolm. Không việc gì cô phải phủ nhận kết luận chung rằng ông đã một mình xông vào điểm hội tụ rồi bị lũ quỷ của Malcolm giết chết.

Chí ít mọi người sẽ tưởng nhớ hành động anh hùng của Arthur, dù cô vẫn nhói lòng khi thấy ông đã được đem hỏa táng mà không có mặt mấy đứa cháu đưa tiễn. Rằng không ai ngoài kia biết được ông thật ra đã hy sinh vì gia đình mình. Livvy nói rằng con bé mong gia đình có thể tổ chức một buổi tưởng niệm cho ông khi tất cả có mặt đông đủ ở Idris. Diana cũng muốn vậy.

Jia không có vẻ gì là lúng túng trước sự im lặng của Diana. “Patrick vẫn nhớ Arthur lúc họ còn nhỏ,” bà nói, “nhưng tôi thì lại không biết rõ ông ấy lắm. Bọn trẻ thế nào rồi?”

Bọn trẻ? Làm sao để ta giải thích rằng người cha thứ hai của gia đình Blackthorn vốn dĩ là anh trai chúng kể từ khi cậu bé chỉ mới mười hai? Rằng Julian, Emma và Mark đã không còn là trẻ con nữa rồi, đã phải trải qua biết bao biến cố mà cả một đời người nhiều khi còn chưa trải hết? Rằng Arthur Blackthorn vốn dĩ chưa bao giờ là người điều hành Học Viện, rằng toàn bộ ý tưởng thay thế ông ta thật chẳng khác chi một trò chơi khăm tệ hại?

“Bọn trẻ vô cùng đau buồn,” Diana nói. “Gia đình chúng bị chia năm xẻ bảy, bà cũng biết rồi đấy. Chúng chỉ muốn được quay về Los Angeles, đó là nhà của chúng.”

“Nhưng bọn trẻ không thể quay về chừng nào chưa có người tiếp quản Học Viện. Thế nên tôi mới tưởng cô…”

“Tôi không muốn ngồi vào vị trí đó,” Diana nói. “Tôi không đến đây để hỏi xin chức vụ đó. Nhưng tôi cũng không muốn nó rơi vào tay Zara Dearborn và bố con bé.”

“Ra vậy,” Jia nói. Giọng bà vẫn điềm đạm, nhưng đáy mắt đã ánh lên thích thú. “Không phải nhà Dearborn, không phải cô, vậy thì ai?”

“Nếu Helen Blackthorn được phép trở về…”

Jia ngồi thẳng dậy. “Và điều hành Học Viện? Cô biết Hội Đồng sẽ không bao giờ cho phép…”

“Vậy hãy để Aline điều hành Học Viện,” Diana nói. “Helen có thể ở lại Los Angeles với tư cách vợ Aline và sống cùng gia đình mình.”

Sắc mặt Jia vẫn bình thản, song hai tay đã siết chặt trên bàn. “Aline là con gái tôi. Cô nghĩ tôi không muốn con bé được về nhà sao?”

“Tôi chẳng thể biết suy nghĩ của bà,” Diana nói. Đó là sự thật. Cô không có con cái, nhưng nếu chị cô cũng bị lưu đày thế này, cô nhất định cũng sẽ tranh đấu tới cùng để chị được quay về.

“Khi Helen bị lưu đày và Aline quyết định đi cùng con bé, tôi đã tính từ chức,” Jia nói, hai tay vẫn nắm chặt. “Tôi biết mình không có quyền phủ quyết Clave. Quan Chấp Chính không phải là một kẻ độc tài có toàn quyền áp đặt ý kiến mà không cần hỏi đến ai. Thường thì tôi cho đó là một việc tốt. Nhưng nói thật với cô, suốt một thời gian dài tôi cứ ước phải chi mình là một kẻ độc tài.”

“Vậy sao lại không từ chức?”

“Tôi không tin tưởng kẻ sẽ kế nhiệm mình,” Jia đơn giản đáp. “Hiệp ước Hòa Bình Lạnh được nhiều người ủng hộ. Nếu Quan Chấp Chính tiếp theo thật có ý định, người đó hoàn toàn có thể chia tách Aline và Helen. Tôi muốn con mình được về nhà thật đấy, nhưng tôi không muốn con bé đau khổ. Rồi họ có thể làm những điều khủng khiếp hơn nữa. Xử Aline và Helen tội phản bội, đổi án lưu đày của Helen thành án tử hình. Có lẽ là cả Aline nữa. Điều gì cũng có thể xảy ra.” Đôi mắt bà nặng nề u tối. “Tôi ngồi lại cái ghế này là để chắn giữa con mình và thế lực hắc ám của Clave.”

“Vậy chẳng phải chúng ta đều ở cùng một phe rồi sao?” Diana nói. “Chẳng phải chúng ta đều muốn cùng một thứ sao?”

Jia cười nhạt. “Cái chia tách chúng ta là năm năm đấy Diana ạ. Năm năm trời tôi cố làm mọi thứ để Hội Đồng thay đổi quyết định. Họ lấy Helen ra để làm gương. Đó là cách họ nói với Cư Dân Xinh Đẹp rằng: Nhìn đi, bọn ta nghiêm túc chấp hành Hiệp ước Hòa Bình Lạnh tới mức trừng phạt cả người của mình đấy. Mỗi lần đem vấn đề này ra biểu quyết, tôi đều nằm ở phía thiểu số.”

“Nhưng nếu có những vấn đề khác phát sinh thì sao?” “Cô đang nói đến vấn đề nào thế?”

Diana xoay vai, cảm giác được áp lực chạy dọc xương sống. “Jace Herondale và Clary Fairchild đã được cử đến Xứ Tiên để làm nhiệm vụ,” cô nói. Chỉ là phỏng đoán. Lúc hai người đó tới Học Viện, cô đã ngó sơ qua đồ đạc để trong túi họ: cả hai đều mang theo rất nhiều sắt và muối.

“Đúng vậy,” Jia nói. “Chúng tôi đã nhận được vài tin kể từ khi hai cháu ấy đi.”

“Vậy chắc họ cũng đã cho bà biết về những mảnh đất chết ở Lãnh địa Đức Vua Unseelie,” Diana nói.

Jia ngồi thẳng người dậy, tay chờn vờn trên mặt bàn. “Chỉ có Điều Tra Viên và tôi mới biết được chuyện đó,” bà nói. “Làm sao cô…?”

“Không quan trọng. Tôi nói ra để bà tin rằng tôi biết mình đang nói về cái gì,” Diana bảo. “Tôi biết Đức Vua Unseelie căm thù Nephilim, rằng ông ta đã khám phá ra một nguồn lực, một loại phép nào đó để vô hiệu hóa sức mạnh của chúng ta. Ông ta đã làm gì đó ở vương quốc mình để nhiều khu vực không thể sử dụng chữ rune, không thể thắp sáng dao thiên thần.”

Jia cau mày. “Jace và Clary không hề đề cập cụ thể đến vậy. Họ cũng không liên lạc với bất kì ai, trừ tôi, từ khi vào Xứ Tiên…”

“Có một chàng trai,” Diana nói. “Một thần tiên, sứ giả của Triều đình Seelie. Kieran. Cậu ta cũng là hoàng tử Unseelie. Cậu ta biết được vài phần kế hoạch của cha mình. Cậu ta nguyện ý làm chứng trước Hội Đồng.”

Jia ngỡ ngàng thấy rõ. “Một hoàng tử Unseelie đi làm chứng cho Triều đình Seelie? Và Triều đình Seelie được lợi gì?”

“Nữ Hoàng Seelie căm ghét Đức Vua Unseelie,” Diana nói. “Hơn cả căm ghét Thợ Săn Bóng Tối. Bà ta sẵn sàng cung cấp quân đội cho chúng ta để đánh bại Đức Vua Unseelie. Để quét sạch quyền lực của ông ta và khôi phục những mảnh đất chết về nguyên trạng.”

“Tất cả đều vì lòng tốt cả sao?” Jia nhướng mày.

“Đổi lại, bà ta muốn Hiệp ước Hòa Bình Lạnh phải chấm dứt.” Diana nói.

Jia cười khan một tiếng. “Không ai chịu đồng ý đâu. Clave…”

“Ai ai cũng phát ốm với Hiệp ước Hòa Bình Lạnh, chỉ trừ những kẻ cực đoan nhất,” Diana nói. “Tôi nghĩ cả bà lẫn tôi đều không muốn những kẻ ấy nắm được quyền lực.”

Jia thở dài. “Cô muốn nói nhà Dearborn. Và hội Kiêu Binh.”

“Tôi đã sống chung vài ngày với Zara Dearborn và nhóm bạn Quân Trưởng của con bé ở Học Viện,” Diana nói. “Quan điểm của nó không hay ho gì cho lắm đâu.”

Jia đứng dậy, quay mặt ra cửa sổ. “Bố con họ nuôi mộng đưa Clave trở về thời hoàng kim ngày trước. Cái thời đại vốn chưa từng tồn tại, khi Cư dân Thế Giới Ngầm yên thân yên phận còn Nephilim cai trị trong hòa bình. Sự thật thì đó là cả một thời kì bạo lực, Cư dân Thế Giới Ngầm chịu vô vàn khổ sở, những Nephilim nào mang lòng trắc ẩn cảm thông cũng bị hành hạ và trừng phạt như các Cư dân kia.”

“Có bao nhiêu người vậy?” Diana hỏi. “Kiêu Binh ấy?”

“Bố của Zara, Horace Dearborn, là thủ lĩnh không chính thức,” Jia nói. “Vợ ông ta đã mất, ông ta dạy dỗ cô con gái để kế nghiệp mình. Nếu ông ta ngồi được vào chiếc ghế người đứng đầu Học Viện Los Angeles, con bé sẽ cùng ông ta cai quản nó. Còn một số gia đình nữa, nhà Larkspear, nhà Bridgestock, nhà Crosskill… rải rác khắp thế giới.”

“Và mục đích của những kẻ đó là tiếp tục hạn chế quyền lợi Cư dân Thế Giới Ngầm. Đăng kí, đánh số tất cả bọn họ…”

“Cấm họ kết hôn với Thợ Săn Bóng Tối?”

Diana so vai. “Chẳng chạy đi đâu được đúng không? Trước tiên ta đánh số họ, rồi ta hạn chế quyền lợi của họ, rồi ta ngăn cấm kết hôn. Rồi…”

“Không,” Jia đanh giọng. “Chúng ta không thể để chuyện đó xảy ra. Nhưng cô không hiểu đâu… Zara được xem là một Thợ Săn Bóng Tối xuất sắc của thế hệ mình. Một Jace Herondale mới. Bởi vì con bé đã giết Malcolm…”

Diana đứng phắt dậy. “Cái… cái con bé dối trá đó không giết Malcolm.”

“Chúng ta đều biết Emma đã không giết được hắn,” Jia nói. “Hắn đã quay lại.”

“Tôi biết chính xác hắn chết như thế nào,” Diana nói. “Hắn đã hồi sinh Annabel Blackthorn từ cõi chết. Cô ta đã giết hắn.”

“Cái gì?” Jia sững sờ.

“Đó là sự thật, thưa Quan Chấp Chính.”

“Diana. Cô phải có bằng chứng để chứng minh điều mình nói. Kiểm chứng trước Kiếm Thánh…”

Nỗi sợ hãi lớn nhất đời Diana. “Không được,” cô nói. Mình sẽ tiết lộ không chỉ bí mật của mình. Mà còn cả Julian. Emma. Tất cả sẽ tan nát hết.

“Cô phải thấy vấn đề này trông thế nào chứ,” Jia nói. “Cứ như cô đang tìm cách kiểm soát Học Viện Los Angeles bằng cách hạ uy tín nhà Dearborn vậy.”

“Là họ tự làm mình mất uy tín.” Diana nhìn thẳng vào Jia. “Bà hiểu rõ Zara. Bà thật sự nghĩ con bé giết nổi Malcolm sao?”

Jia lặng người hồi lâu rồi nói, “Không. Tôi không nghĩ vậy.” Bà bước đến chiếc tủ chạm khắc cầu kì đặt sát vách tường, đoạn kéo một ngăn tủ ra. “Tôi cần thời gian xem xét việc này, Diana ạ. Trong lúc đó…” Bà lấy ra một tập hồ sơ dày màu kem. “Đây là báo cáo của Zara Dearborn về cái chết của Malcolm Fade cùng đợt tấn công Học Viện L.A. Biết đâu cô sẽ tìm được điểm mâu thuẫn nào đó để chống lại câu chuyện của con bé.”

“Cám ơn bà.” Diana nhận lấy tập hồ sơ. “Còn về cuộc họp Hội Đồng? Kieran sẽ có cơ hội đưa ra lời khai chứ?”

“Tôi sẽ bàn lại với Điều Tra Viên.” Bỗng dưng Jia như già đi cả chục tuổi. “Về đi Diana. Ngày mai tôi sẽ cho gọi cô.”

“Lẽ ra tụi mình phải dẫn Dru theo,” Livvy nói, bước qua cổng Dinh Blackthorn. “Đây đích thị là một trong mấy cảnh phim kinh dị nó hay xem.”

Hóa ra Dinh Blackthorn nằm ở ngoại ô London cách không xa sông Thames. Khu vực xung quanh cũng bình thường thôi: nhà gạch đỏ, trạm xe buýt dán áp phích quảng cáo phim, trẻ con đạp xe dọc đường. Sau mấy ngày liền bị giam hãm trong Học Viện, đến cả bầu không khí lạ lẫm ở London cũng làm Kit có cảm giác mình vừa tỉnh dậy sau một giấc mơ dài.

Dinh Blackthorn phủ lớp ảo ảnh, có nghĩa người phàm không thấy được. Kit đã bị hoa mắt lúc mới nhìn vào: cậu nhìn thấy một cái công viên xinh xắn nhưng tẻ nhạt, và chồng lên đó là một căn nhà khổng lồ với cổng vào sừng sững, bức tường đá đen sạm vì bao năm tháng mưa nắng không người coi sóc.

Cậu nheo mắt. Cái công viên biến mất, chỉ còn lại căn nhà. Nó vươn cao bề thế. Nhìn như một ngôi đền Hy Lạp, cột tròn, cổng vòm cung, cánh cửa đôi khổng lồ cùng chất liệu với cái hàng rào bao quanh khu đất. Một cái hàng rào cao, mũi nhọn; cổng là lối vào duy nhất, Ty đang hí hoáy nơi đó với một chữ rune.

“Chữ đó là gì vậy?” Kit chỉ tay hỏi, cánh cổng cùng lúc kẽo kẹt mở ra.

Ty nhìn sang. “Mở.”

“Đang tính đoán thế,” Kit lầm bầm, cùng hai người kia tiến vào trong. Bước vào khu đất rồi, cậu trầm trồ nhìn quanh. Khu vườn hoang phế, nhưng vẫn thấy được nơi từng có giàn hoa hồng, mấy cái ban công bằng đá hoa cương treo những chậu đá to, bên trong um tùm hoa và cỏ dại. Hoa dại mọc khắp nơi, đẹp cái vẻ đẹp hoang tàn.

Ngôi nhà nhìn như một tòa lâu đài nhỏ, vòng tròn gai biểu tượng của gia tộc Blackthorn khắc trên cánh cửa kim loại cùng đầu mỗi cây cột.

“Như một ngôi nhà ma,” Livvy nói, bước lên bậc tam cấp. Ở đằng kia, Kit trông thấy một cái hồ nước đen ngòm. Đặt quanh hồ là băng ghế hoa cương. Bức tượng người đàn ông mặc áo toga nhìn xuống cậu bằng đôi mắt vô hồn, lo ngại.

“Ở đây hồi trước có cả một bộ sưu tập tượng của những kịch tác gia cùng nhà thơ Hy Lạp và La Mã,” Livvy nói trong khi Ty tiến hành mở cửa. “Chú Arthur đã cho chuyển gần hết sang Học Viện L.A.”

“Không dùng được chữ rune mở,” Ty nói, thẳng lưng nhìn sang Kit như thể biết rõ Kit đang nghĩ cái gì. Như thể biết rõ Kit từng nghĩ cái gì. Bị Tiberius săm soi như thế khiến cậu vừa ớn lạnh, lại vừa phấn khích. “Phải tìm đường khác để vào trong thôi.”

Ty đẩy Kit và chị mình ra rồi bước xuống bậc tam cấp. Họ vòng qua bên hông tòa dinh thự, đi dọc theo con đường rải sỏi. Hàng giậu có thời tỉa tót gọn gàng viền theo con đường uốn lượn, hoa lá đâm tua tủa. Xa xa đằng kia là mặt nước sông Thames lấp lánh.

“Không chừng có cửa hậu,” Livvy nói. “Mấy ô cửa sổ có lẽ cũng không chắc chắn lắm đâu.”

“Cái cửa này thì sao?” Kit chỉ tay. Ty quay lại, cau mày. “Cửa nào?”

“Này,” Kit lúng túng. Cậu thấy cái cửa rõ như ban ngày: cao, hẹp, khắc một biểu tượng kì lạ. Cậu đặt tay lên lớp gỗ cũ: xù xì, âm ấm. “Hai người không thấy sao?”

“Giờ mới thấy,” Livvy nói. “Nhưng… tôi thề là một giây trước nó không hề có ở đó.”

“Một loại ảo ảnh hai lớp chăng?” Ty nói, bước đến cạnh Ty. Cậu ta lật cái mũ trùm áo len lên, gương mặt trái xoan trắng trẻo chìm giữa mái tóc đen cùng cổ áo sẫm màu. “Nhưng sao Kit lại thấy được?”

“Có lẽ vì tôi đã quen nhìn ảo ảnh ở Phiên Chợ Bóng Tối,” Kit nói.

“Thứ ảo ảnh không do Thợ Săn Bóng Tối tạo ra,” Livvy nói.

“Ảo ảnh vốn không để Thợ Săn Bóng Tối nhìn thấu,” Kit nói.

Ty làm mặt trầm ngâm. Ở cậu ta có cái nét mông lung làm Kit nhiều khi chẳng rõ Ty có đồng ý với mình hay không. Tuy nhiên cậu ta vẫn đặt thanh stele lên cửa, vẽ chữ rune Mở.

Cái khóa không mở, mà bung cả bản lề. Cả ba cùng nhảy tránh khi cánh cửa nửa xệ nửa bật sang bên, đập vào tường cái rầm.

“Lúc vẽ đừng có ấn mạnh quá,” Livvy nói với Ty. Cậu ta so vai.

Khoảng không bên trong tối đen, cặp sinh đôi phải bật đèn phù thủy lên. Quầng sáng họ tạo nên mang sắc trắng như ngọc, đẹp đến lạ lùng trong mắt Kit.

Họ đang đứng trong một hành lang cũ kỹ đầy bụi và mạng nhện. Ty đi đầu, rồi tới Kit, cuối cùng là Livvy; chắc là để bảo vệ cậu đây, cậu bực thầm trong bụng, nhưng biết có nói ra thì họ cũng chẳng hiểu.

Qua hết hành lang, họ đi lên một cái cầu thang dài hẹp kết thúc với cánh cửa gỗ mục. Đằng sau cánh cửa là một căn phòng khổng lồ có treo đèn chùm.

“Chắc là phòng khiêu vũ,” Livvy nói, thanh âm vang vọng đến rùng rợn giữa không gian. “Nhìn này, khu vực này được bảo quản tốt.”

Đúng vậy thật. Căn phòng khiêu vũ tuy trống trải nhưng lại sạch sẽ. Đi qua mấy gian phòng khác, họ thấy đồ đạc đều đã được phủ vải, cửa sổ bịt ván để bảo vệ lớp kính, thùng giấy chất dọc hành lang. Trong mấy cái thùng toàn là quần áo, mùi băng phiến nồng nặc. Livvy ho mấy tiếng, xua tay trước mặt.

“Phải có thư viện ở đâu đó,” Ty nói. “Nơi cất giữ tài liệu gia đình.”

“Chị không tin bố lại ghé qua nơi này lúc còn nhỏ.” Livvy dẫn đường qua hành lang, chiếc bóng dài đổ xuống sàn. Tóc dài, chân dài, ngọn đèn phù thủy sáng rực trên tay.

“Ông ấy không sống ở đây à?”

Livvy lắc đầu. “Lớn lên ở Cornwall, không phải London. Sau đó tới Idris học.”

Idris. Kit đã đọc thêm nhiều về Idris trong thư viện Học Viện London. Quê nhà huyền thoại của Thợ Săn Bóng Tối, một vùng đất của núi cao rừng xanh, hồ băng và thành phố với những ngọn tháp pha lê. Cậu phải thừa nhận cái phần mê mẩn phim thần thoại và Chúa Nhẫn trong cậu đã khát khao được nhìn thấy nơi đó.

Cậu bảo cái phần đó im đi. Idris là chuyện của Thợ Săn Bóng Tối, còn cậu thì vẫn chưa quyết định có trở thành Thợ Săn Bóng Tối hay không. Thật ra cậu khá là… gần như… hoàn toàn chắc chắn mình không muốn làm Thợ Săn Bóng Tối.

“Thư viện,” Ty nói. Kit phát hiện ra rằng nếu một từ đã đủ nghĩa thì Ty không bao giờ dùng đến năm từ. Cậu ta đang đứng trước cánh cửa dẫn vào căn phòng lục giác, tường hành lang treo mấy bức tranh vẽ tàu thuyền. Một vài bức bị xô lệch như đang dập dềnh theo sóng.

Thư viện sơn màu xanh đen, tác phẩm nghệ thuật duy nhất bên trong là bức tượng hoa cương tạc đầu và vai một người đàn ông. Có một chiếc bàn lớn nhiều hộc tủ, buồn thay lại hoàn toàn trống trơn. Xem xét đằng sau kệ sách và dưới thảm cũng chỉ thấy toàn là bụi.

“Thử phòng khác đi vậy,” Kit nói, chui dưới bàn viết ra, bụi dính đầy tóc.

Ty tức tối lắc đầu. “Phải có gì đó ở đây. Tôi có linh cảm.”

Sherlock Holmes hình như không có điều tra bằng linh cảm đâu, nhưng Kit không nói gì, chỉ đứng thẳng lên. Vào lúc đó, cậu phát hiện ra một mảnh giấy nhỏ chìa ra bên mép bàn viết. Cậu kéo nó ra.

Một mảnh giấy cũ tới mức gần như trong suốt. Kit chớp mắt. Trên đó viết tên cậu… không phải tên, là họ, Herondale, lặp đi lặp lại rất nhiều lần, quấn quýt với một cái tên khác nữa để tạo nên những nét hoa văn uốn lượn.

Cái tên kia là Blackthorn.

Cảm giác ớn lạnh sâu sắc chạy dọc cả người. Cậu vội vàng nhét tờ giấy vào túi quần khi Ty lên tiếng. “Tránh ra nào Kit. Tôi muốn xem kĩ cái bức tượng bán thân kia.”

Với Kit từ bán thân chỉ có cái nghĩa liên quan đến phụ nữ, và vì chị gái Ty là người con gái duy nhất trong phòng này, cậu liền nhanh chóng tránh sang bên. Ty bước đến chỗ bức tượng nhỏ đặt trên trụ đá hoa cương. Cậu ta đã kéo mũ trùm xuống, mái tóc chĩa ra tứ tung, mềm mại như cánh thiên nga đen.

Ty chạm vào tấm bảng nhỏ bên dưới bức tượng. “‘Cái khó ở đời không phải là hy sinh vì bè bạn, mà là tìm được một người bạn đáng để hy sinh,’” cậu ta đọc.

“Homer,” Livvy nói. Không biết Thợ Săn Bóng Tối được giáo dục kiểu gì, nhưng Kit phải thừa nhận là rất toàn diện.

“Xem ra là vậy,” Ty nói, rút con dao găm ở thắt lưng ra. Nhanh như cắt, cậu ta cắm thẳng mũi dao vào hốc mắt bức tượng.

Livvy la oái lên. “Ty, em làm…?”

Em trai cô rút lưỡi dao ra rồi đâm vào con mắt còn lại của bức tượng. Rắc, thứ gì đó tròn tròn lấp lánh tách khỏi lớp thạch cao, rơi xuống. Ty đưa tay trái chụp gọn.

Cậu ta cười toe toét, cái nụ cười thay đổi hoàn toàn gương mặt. Những lúc trơ mặt như đá, Ty mang cái nét mãnh liệt cuốn hút lấy Kit; nhưng khi mỉm cười, cậu ta mới thật sự là phi thường khôn tả.

“Em tìm thấy cái gì vậy?” Livvy chạy vội tới, cả hai vây quanh Tiberius đang cầm một viên pha lê đa diện, to bằng bàn tay trẻ con. “Sao em biết nó nằm trong đó?”

“Lúc chị nhắc tới tên Homer,” Ty giải thích, “em sực nhớ ông ta bị mù. Người ta thường miêu tả ông với đôi mắt quấn băng hay nhắm chặt. Nhưng bức tượng này lại mở mắt. Em quan sát kĩ hơn và phát hiện bức tượng làm bằng đá hoa cương, nhưng đôi mắt lại trét thạch cao. Sau đó chỉ là…”

“Cơ bản thôi?” Kit nói.

“Cậu có biết Holmes chưa bao giờ nói câu ‘Cơ bản thôi mà, Watson thân mến’ trong sách không?” Ty hỏi.

“Tôi đã từng nghe câu đó trong phim, thề luôn,” Kit nói.

“Ai lại muốn xem phim khi đã có sách?” Ty làm giọng khinh thường.

“Tập trung giùm được không?” Livvy cao giọng, mái tóc đuôi gà lắc lư bực dọc. “Em tìm được cái gì vậy Ty?”

“Một viên pha lê aletheia.” Cậu ta giơ nó ra dưới ngọn đèn phù thủy trên tay chị mình. “Nhìn này.”

Kit nhìn xuống bề mặt viên đá. Bất ngờ thay, một gương mặt thoáng hiện qua, tựa như bóng hình trong mơ: một người phụ nữ, gương mặt lẩn khuất sau mái tóc đen dài.

“Ôi!” Livvy lấy tay che miệng. “Cô ta nhìn hơi giống chị. Nhưng làm thế nào…?”

“Pha lê aletheia là một cách để lưu giữ hay truyền đạt kí ức. Em nghĩ viên đá này lưu giữ kí ức Annabel,” Ty nói.

“Aletheia là tiếng Hy Lạp,” Livvy nói.

“Nữ thần sự thật trong thần thoại Hy Lạp,” Kit nói. Cậu so vai khi bị hai người kia nhìn vào. “Báo cáo Văn học năm lớp chín.”

Khóe môi Ty cong lên. “Giỏi lắm Watson.” “Đừng có gọi tôi là Watson,” Kit nói.

Ty lờ phứt đi. “Chúng ta phải tìm cách tiếp cận chỗ kí ức cất giấu trong viên pha lê này. Càng nhanh càng tốt. Không chừng sẽ giúp được cho anh Julian và chị Emma.”

“Cậu không biết cách lấy nó ra à?” Kit hỏi.

Ty lắc đầu, bất mãn thấy rõ. “Đây không phải phép thuật Thợ Săn Bóng Tối. Bọn tôi không học phép thuật khác phái. Bị cấm.”

Một cái luật ngu thấy ớn, Kit thầm nghĩ. Làm sao ta có thể biết được phương thức hoạt động của kẻ thù nếu bị cấm nghiên cứu về họ chứ?

“Đi thôi,” Livvy nói, chờn vờn bên ngưỡng cửa. “Trời sắp tối rồi. Giờ của quỷ.”

Kit nhìn ra cửa sổ. Bầu trời đang tối dần, ánh hoàng hôn lan tỏa ra nền trời xanh thẫm. Bóng tối dần dần bao phủ lấy London.

“Tôi có ý này,” cậu nói. “Sao chúng ta không đem nó tới Phiên Chợ Bóng Tối? Tôi rất rành về Phiên Chợ. Tôi có thể tìm một pháp sư hay một phù thủy để giúp lọc ra cái thứ có trong viên đá này.”

Cặp sinh đôi đưa mắt nhìn nhau. Cả hai đều trù trừ không quyết. “Chúng ta không được phép tới Phiên Chợ Bóng Tối,” Livvy nói.

“Vậy thì cứ nói là tôi bỏ chạy còn hai người phải đuổi theo,” Kit nói. “Nếu có cần phải giải thích, mà thật ra thì chả cần.”

Hai chị em không ai lên tiếng, nhưng Kit nhìn ra niềm tò mò trong đôi mắt xám của Ty.

“Coi nào,” cậu nói, hạ thấp tông giọng, đúng kiểu bố dạy, cái tông giọng dùng để thuyết phục người khác rằng mình toàn tâm toàn ý. “Về tới nhà rồi Julian sẽ không cho hai người đi đâu đâu. Đây là cơ hội hiếm có đấy. Chẳng phải hai người vẫn luôn muốn ghé xem Phiên Chợ Bóng Tối sao?”

Livvy đầu hàng trước. “Được,” cô nói, liếc mắt nhanh sang cậu em để xem cậu ta có đồng ý không. “Được thôi, nếu cậu biết nó ở đâu.”

Gương mặt trắng trẻo của Ty sáng bừng lên phấn khích. Niềm hào hứng lan sang cả Kit. Phiên Chợ Bóng Tối. Nhà cậu, thánh địa của cậu, nơi cậu lớn lên.

Lẽo đẽo theo Livvy và Ty qua địa hạt quỷ dữ và cổ vật, họ là người sành sỏi trong khi cậu chẳng biết gì. Nhưng ở Phiên Chợ Bóng Tối, cậu có thể tỏa sáng. Họ sẽ ngỡ ngàng trước cậu. Ấn tượng với cậu.

Và rồi, có lẽ, cậu sẽ tranh thủ chuồn luôn.

Đến khi Julian và Emma kết thúc bữa ăn thì bóng chiều cũng đã đổ dài khắp thị trấn. Julian mua thêm một số thực phẩm và đồ dùng trong cửa hàng tạp hóa, còn Emma thì chạy sang tiệm New Age kế bên để mua áo quần và đồ ngủ, cái tiệm đó còn bán cả bài tarot với thần lùn thủy tinh. Cô cười toe toét lúc trở ra. Cô lôi ra một cái áo phông xanh tím in hình kì lân nhe răng cười cho Jules xem, cậu nhìn vào mà kinh hãi. Cô cẩn thận nhét nó vào balô cậu, rồi cùng nhau băng qua thị trấn để tìm cái lối mòn dẫn tới con đường ven biển.

Sườn đồi đổ dốc xuống mặt nước, muốn trèo lên chẳng phải dễ dàng. Chỉ với độc nhất tấm bảng ĐƯỜNG RA VÁCH ĐÁ, con đường uốn lượn quanh vùng ngoại ô và những ngôi nhà cheo leo bên mép đá, nhìn như sắp sửa lăn kềnh xuống cảng biển bán nguyệt dưới kia bất cứ lúc nào.

Nhưng Thợ Săn Bóng Tối đã được huấn luyện cho những hoạt động còn khắc nghiệt hơn, vậy nên họ chẳng tốn bao nhiêu thời gian. Rất nhanh sau đó, cả hai đã ra khỏi địa phận thị trấn, men theo con đường hẹp, núi đồi trập trùng trải dài bên tay phải, rồi thoai thoải chạy dần xuống đại dương bên tay trái.

Biển cả biêng biếc một màu, ngời sáng như một ngọn đèn. Những áng mây màu vỏ sò lãng đãng trôi qua nền trời. Vẻ đẹp nơi đây khác hẳn cảnh hoàng hôn trên biển Thái Bình Dương. Thay vì sắc màu thắm đượm của đại dương và sa mạc, mọi thứ nơi đây đều mang nét nhàn nhạt, từ lục đến lam đến hồng.

Cái thứ rõ rệt duy nhất chính là vách đá. Họ đã leo gần đến cái khu vực Nhà Thờ của vách đá Nhà Thờ, tức cái mũi đất hướng thẳng ra biển, chỏm đá lởm chởm như một cái vương miện hắc ám giữa nền trời phớt hồng. Ngọn đồi nằm lại sau lưng, họ đã ra đến mũi đất. Những phiến đá phẳng nằm rải rác hai bên sườn, chạy xuống tận mép nước, nhìn như những lá bài bị xổ tung.

Căn nhà họ thấy từ dưới thị trấn nép mình giữa khối đá, cái chỏm đá nhọn vươn cao phía sau. Càng đến gần, Emma càng cảm nhận được sức mạnh của phép thuật ảo ảnh, tựa như một bức tường đẩy lùi cô lại.

Jules cũng chậm chân dần. “Có một tấm biển này,” cậu nói. “Ghi là nơi này thuộc về Hội Ủy Thác Quốc Gia. Cấm xâm phạm.”

Emma nhăn mặt. “Cấm xâm phạm có nghĩa đám nhóc trong làng đã biến nó thành tụ điểm ăn chơi và toàn bộ nơi này đã bị vứt đầy vỏ kẹo với lon bia.”

“Mình không biết à. Ảo ảnh ở đây khá mạnh…, không chỉ hình thức mà còn cảm xúc nữa. Cậu cảm nhận được không?”

Emma gật đầu. Cái lán như tỏa ra từng làn sóng cút đi và nguy hiểm và ở đây không có gì để xem đâu. Cảm giác như bị một hành khách hung dữ trên xe buýt quát vào mặt vậy.

“Nắm tay mình,” Julian nói.

“Hả?” Cô giật mình quay sang. Cậu đang chìa tay ra. Cô có thể thấy mấy vệt màu lem luốc. Cậu ngoắc ngoắc ngón tay.

“Chúng ta có thể hợp sức để vượt qua,” cậu nói. “Tập trung đẩy lùi nó.”

Emma nắm lấy tay cậu, hứng trọn cơn sốc truyền khắp cả người. Bàn tay cậu vừa ấm vừa mềm, có chút thô ráp ở những chỗ bị chai. Cậu nắm chặt lấy tay cô.

Cả hai cùng tiến tới, băng qua cánh cổng, bước lên con đường dẫn tới cửa chính. Emma hình dung ảo ảnh là một tấm rèm, một thứ cô có thể chạm vào. Cô hình dung mình vén nó sang bên. Chẳng dễ dàng gì, cứ như đang nhấc một cục tạ chỉ bằng tâm trí, nhưng sức mạnh từ Julian dồn dập truyền sang cô, chạy từ ngón tay lên cổ tay, cánh tay, rồi đến tim, đến phổi.

Sự tập trung đạt đến cao độ. Gần như nhẹ nhàng, cô để bản thân vén lớp ảo ảnh đi, gạt nó sang bên. Căn nhà nhỏ hiện ra rõ rệt: cửa sổ không hề đóng ván mà sạch sẽ nguyên vẹn, cửa chính phủ lớp sơn màu xanh lơ mới tinh. Đến cả tay nắm cửa cũng đánh bóng đến soi được mặt. Julian cầm lấy tay nắm, đẩy tới, cánh cửa bật vào trong, chào đón họ.

Cái cảm giác bị xua đuổi khỏi căn nhà đã hoàn toàn biến mất. Emma buông tay Julian ra, bước vào trong; tối quá. Cô rút viên đá phù thủy trong túi, giơ lên soi sáng.

Julian đứng sau cô khẽ huýt sáo ngạc nhiên. “Nơi này không giống bị bỏ không. Ít nhất là cho đến gần đây.”

Một căn phòng nhỏ nhắn, xinh xắn. Chiếc giường gỗ bốn cột đặt bên ô cửa hướng ra thị trấn dưới kia. Bàn ghế nhìn như được sơn tay, chủ yếu là màu xanh dương, xám và những sắc độ dịu êm của biển, tất cả đặt rải rác giữa những tấm thảm nhỏ.

Gian bếp nằm ở góc phòng, đầy đủ vật dụng tiện nghi: máy pha cà phê, bếp lò, máy rửa bát, quầy đá hoa cương. Chồng củi xếp gọn hai bên cái lò sưởi viền đá. Phòng chính có hai cánh cửa: Emma thử tìm hiểu, thấy rằng một cánh dẫn vào phòng làm việc nhỏ có chiếc bàn sơn tay, cánh còn lại dẫn vào phòng vệ sinh có bồn tắm, vòi sen và bồn rửa mặt. Cô vặn thử vòi sen, kêu oái lên vì bị nước bắn vào mặt. Mọi thứ xem chừng vẫn trong tình trạng đang sử dụng, như thể cái kẻ đã sống và chăm chút cho nơi này chỉ vừa rời đi cách đây không lâu.

“Coi bộ chúng ta ở lại đây được đấy,” Emma nói, trở ra phòng khách. Julian vừa mới bật đèn lên.

“Quyết định trước cậu đời nào rồi Carstairs,” cậu mở chạn bếp ra, bắt đầu sắp xếp đồ đạc. “Nơi ở đẹp, giá cả bằng không, dễ dàng tìm hiểu nếu sống ngay tại đây.”

Emma đặt viên đá phù thủy xuống bàn, thắc mắc nhìn quanh. “Mình biết nghe có vẻ không đúng lắm,” cô nói, “nhưng cậu có nghĩ Malcolm bí mật hành nghề cho thuê nhà nghỉ cuối tuần không?”

“Hoặc,” Julian nói, “ở đây có một lớp ảo ảnh mạnh hơn ta tưởng đã biến nơi này thành một căn nhà nghỉ xinh xắn tiện nghi, trong khi trên thực tế nó chỉ là một cái ổ chuột.”

Emma thả người xuống giường. Chăn mềm như bông, tấm nệm êm ái, so với cái giường lồi lõm ở Học Viện London thì đúng là thiên đường. “Cái ổ chuột tuyệt nhất trần đời,” cô tuyên bố, mừng thầm khi không phải thuê phòng khách sạn.

“Tưởng tượng mấy cái cơ thể lông lá bé tí bò lúc nhúc quanh cậu đi nhé.” Julian quay lại nhìn thẳng vào cô, môi kéo xếch thành nụ cười nửa miệng. Hồi Emma còn nhỏ, cô sợ lắm mấy con chuột và động vật gặm nhấm.

Cô ngồi dậy, trừng mắt. “Sao cậu cứ làm hỏng giây phút tuyệt vời của mình thế hử?”

“Chậc, nói cho đúng thì đây có phải là kì nghỉ đâu. Với chúng ta thì không. Đây là nhiệm vụ. Chúng ta phải tìm cho ra bất cứ thứ gì có thể làm manh mối dẫn tới chỗ Annabel.”

“Mình không biết à,” Emma nói. “Cái nơi này nhìn như đã được sửa sang lại toàn bộ. Nó được xây từ đời nào rồi, làm sao ta biết được đâu là phần nhà gốc? Hơn nữa Malcolm lẽ nào lại không mang theo những thứ quan trọng với hắn tới L.A?”

“Không nhất thiết. Mình nghĩ ngôi nhà này có ý nghĩa đặc biệt với hắn.” Julian móc ngón cái vào đỉa quần. “Nhìn cách hắn chăm chút cho nơi này đi. Ngôi nhà này là chốn riêng tư. Nó có cảm giác ấm cúng. Không như căn nhà toàn bằng kính với thép của hắn ở L.A.”

“Vậy thì bắt đầu tìm kiếm xung quanh đi vậy.” Emma cố tỏ ra hăm hở, nhưng sự thật thì đã mệt rã rời. Cả đêm không ngủ, chuyến xe lửa dài, lo lắng cho Cristina, tất cả đã rút hết sức lực cô.

Julian bất mãn nhìn cô. “Để mình pha trà,” cậu nói. “Khỏe người lên ngay.”

Cô chun mũi với cậu. “Trà? Trà là giải pháp của cậu hả? Cậu có phải là người Anh đâu! Cậu chỉ sống ở Anh có hai tháng thôi mà! Sao họ tẩy não được cậu vậy?”

“Cậu không thích cà phê, nhưng lại cần chất kích thích.”

“Mình sẽ nạp chất kích thích theo kiểu của người bình thường.” Emma vung hai tay lên rồi bỏ vào phòng làm việc. “Sôcôla đó!”

Cô bắt đầu kéo mấy hộc tủ ra. Trống trơn. Kiểm tra kệ sách; chẳng có gì thú vị. Cô dợm bước sang cái tủ bên kia phòng, thế rồi nghe thấy tiếng rắc. Quay lại, cô quỳ xuống, gạt tấm thảm sang một bên.

Mặt sàn ốp gỗ sồi. Mảng gỗ dưới thảm sáng màu hơn một chút, đường viền đen chạy quanh cho thấy rõ hình dạng cánh cửa sập. Emma rút thanh stele ra, áp mũi đá xuống.

“Mở,” cô vừa thì thầm vừa vẽ chữ rune.

Roạt một tiếng. Mảng gỗ vuông rã ra thành một nhúm mạt cưa, rơi xuống cái hốc bên dưới. Nó rộng hơn cô tưởng. Bên trong có một vài quyển sổ nhỏ và một quyển sách lớn bọc da làm Emma nheo mắt bối rối. Sách thần chú gì đây chăng?

“Cậu vừa cho nổ cái gì đấy?” Julian bước vào, gò má lấm lem. Cậu nhìn qua vai Emma, liền huýt sáo. “Cái hốc bí mật dưới sàn kiểu cổ.”

“Phụ mình lấy mấy thứ này ra coi. Cậu phụ trách cuốn sách lớn.” Emma cầm lấy ba quyển sổ nhỏ; tất cả đều bọc da mòn vẹt, gáy đóng chữ MFB, mép giấy xù xì.

“Không phải sách,” giọng Julian nghe hơi là lạ. “Là tập tranh.”

Cậu cầm lên rồi mang ra ngoài phòng khách. Emma vội vã đi theo. Hai tách trà bốc khói đặt trên quầy bếp, ngọn lửa bập bùng trong lò sưởi. Emma chợt nhận ra cái vệt đen trên mặt Julian quá nửa là tro. Cô hình dung đến cảnh cậu quỳ gối nhóm lửa, kiên nhẫn, ân cần, trong lòng bỗng trỗi lên cảm giác ôn nhu khó tả.

Cậu đã ra tới quầy bếp, nhẹ nhàng mở tập tranh ra. Cậu hít mạnh một hơi. Bức tranh đầu tiên vẽ vách đá Nhà Thờ nhìn từ xa bằng màu nước. Từng đường nét, từng sắc màu trong tranh bật lên sống động; Emma cảm nhận được gió biển lạnh ngắt lùa qua cổ, tiếng mòng biển quang quác bên tai.

“Đáng yêu quá,” cô nói, kéo ghế đẩu ngồi đối diện cậu. “Annabel vẽ đấy.” Cậu vuốt lên chữ kí nằm ở góc phải.

“Thật không ngờ cô ta là họa sĩ.”

“Xem ra máu nghệ thuật chảy trong nhà cậu rồi.” Emma nói. Julian không nhìn lên. Cậu cẩn thận lật từng trang, gần như cung kính. Có rất nhiều bức vẽ cảnh biển: Annabel xem ra rất thích vẽ đại dương cùng dải đất cong cong ôm lấy bờ biển. Annabel còn vẽ cả chục bức về trang viên Blackthorn ở Idris, lưu giữ lấy nét mềm mại trong những phiến đá vàng, nét nên thơ trong khu vườn có bụi dây gai quấn quanh cánh cổng. Giống như bức bích họa trong phòng cậu vậy, Emma muốn nói với Julian, nhưng lại thôi.

Nhưng Julian không dừng lại ngắm kĩ bức nào trong đó. Cậu chỉ thôi lật khi nhìn thấy bức phác họa chính ngôi nhà họ đang đứng bên trong. Hàng rào gỗ viền quanh, Polperro thấp thoáng xa xa, khu Hang Thỏ trải dọc sườn đồi đối diện, nhà cửa lúp xúp.

Malcolm đứng dựa hàng rào, trẻ trung đến không tưởng. Có lẽ hắn khi ấy vẫn chưa ngừng phát triển. Dù chỉ vẽ bằng chì, nhưng bức tranh vẫn nắm bắt được sắc vàng trong tóc, nét lạ thường trong mắt, tất cả đều khắc họa bằng đường nét thân thương tới mức nhìn hắn thật xinh đẹp. Dường như hắn đang mỉm cười.

“Mình nghĩ họ đã sống ở đây hai trăm năm trước, có lẽ là để trốn tránh Clave,” Julian nói. “Cái nơi ta từng sống với người yêu luôn mang cái nét gì đó. Nó hằn vào tâm trí ta ý nghĩa đặc biệt. Nó không còn là một nơi chốn đơn thuần. Nó kết tinh thành cảm xúc ta dành cho người đó. Mọi giây phút ta sống ở một nơi cùng người đó… tất cả đều thấm vào gạch, vào vữa. Vào linh hồn của chính ngôi nhà.”

Ánh lửa hắt lên má, lên tóc cậu, hóa thành sắc vàng. Emma cảm nhận được nước mắt dâng lên trong cổ họng, buộc lòng nuốt xuống.

“Phải có lí do để Malcolm không bỏ phế nơi này. Hắn yêu nơi này. Hắn quan tâm đến nơi này vì đây là nơi hắn từng sống với cô ấy.”

Emma cầm tách trà lên. “Và có lẽ là nơi hắn muốn đưa cô ấy về?” Cô nói. “Sau khi hồi sinh cô ấy?”

“Ừ. Theo mình Malcolm đã hồi sinh Annabel ở đâu đó gần đây, hắn tính giấu cô ta ở đây như đã từng làm rất lâu về trước.” Julian dường như đang giũ đi cái tâm trạng nặng nề như một con chó giũ bộ lông ướt. “Có vài cuốn cẩm nang về vùng Cornwall trên kệ sách… để mình xem thử. Còn cậu có gì vậy? Mấy cuốn sổ đó là gì?”

Emma mở cuốn đầu tiên ra. Dòng chữ Nhật kí của Malcolm Fade Blackthorn, 8 tuổi ghi ở bìa trong. “Lạy Thiên Thần,” cô kêu lên. “Nhật kí của hắn.”

Cô bắt đầu đọc lớn trang thứ nhất:

“Mình là Malcolm Fade Blackthorn. Hai cái tên đầu là mình tự chọn, nhưng cái tên cuối là nhà Blackthorn cho phép mình sử dụng. Ông Felix nói mình là trẻ được giám hộ, nhưng mình không hiểu lắm. Ông ấy còn nói mình là pháp sư. Nghe cách ông ấy nói thì hình như không phải chuyện tốt, nhưng Annabel nói mình đừng lo lắng, rằng chúng ta sinh ra như thế nào thì là như thế ấy, không gì đổi được. Annabel nói…”

Cô lạc giọng. Đây là kẻ đã sát hại bố mẹ cô; nhưng đây cũng là lời lẽ của một đứa bé yếu ớt, ngây thơ vọng qua bao thế kỉ. Hai trăm năm trước… quyển nhật kí không ghi ngày, nhưng nhất định đã viết ra vào đầu những năm 1800.

‘“Annabel nói,”’ cô thì thầm. “Hắn đã yêu cô ấy ngay từ nhỏ rồi.”

Julian hắng giọng, đứng lên. “Xem ra là vậy,” cậu nói. “Chúng ta phải tìm trong nhật kí xem có nhắc tới nơi nào quan trọng với cả hai người họ không.”

“Tới mấy cuốn lận đấy,” Emma nói, nhìn sang ba quyển sổ.

“Vậy thì xem ra chúng ta không thiếu thứ để đọc rồi,” Julian nói. “Mình đi pha thêm trà đây.”

Tiếng rên “Đừng có pha trà!” của Emma vọng theo cậu tới tận bếp.

Phiên Chợ Bóng Tối London nằm ở phía nam cầu London. Kit không khỏi thất vọng khi phát hiện ra cầu London chỉ là một cây cầu bê tông nhàm chán chẳng có cái tháp nào. “Tôi cứ tưởng phải giống trong bưu thiếp chứ,” cậu than.

“Cậu đang nói cầu Tháp đấy,” Livvy tinh nghịch bảo. Cả ba từ từ leo xuống dãy cầu thang đá hẹp dẫn tới khu vực bên dưới đường ray xe lửa chạy qua cầu London. “Đó mới là cây cầu trong hình. Cầu London thật sự bị sập lâu rồi, cây này là xây lại.”

Tấm bảng quảng cáo cho biết đây là khu chợ thực phẩm trái cây gì đấy, nhưng đã đóng cửa từ lâu. Những quầy hàng sơn trắng đóng cứng xuống đất, cổng khóa chặt. Cái bóng của Giáo đường Southwark sừng sững bên trên, một khối kiến trúc đồ sộ bằng đá và kính che khuất dòng sông.

Xuống đến chân cầu thang, Kit chớp mắt cho ảo ảnh trôi đi. Lớp hình ảnh xé toạc ra như mạng nhện, Phiên Chợ Bóng Tối hiện ra rực rỡ. Họ vẫn sử dụng mấy quầy hàng của khu chợ gốc, nhưng trang trí với sắc màu sặc sỡ hơn, một dải cầu vồng long lanh lấp lánh. Phải nói là thông minh đấy, ẩn thân ngay giữa ban ngày ban mặt kiểu đó. Giữa các gian hàng còn có những ngôi lều căng phồng bằng lụa và vải dày, bảng hiệu đung đưa trước cửa, quảng cáo tất tần tật từ xem bói đến bùa may đến tình dược.

Cả ba hòa vào đám đông nhộn nhịp. Những quầy hàng bày bán mặt nạ phép, bình máu lâu năm cho ma cà rồng, Livvy nhìn như sắp nôn đến nơi khi thấy cái lọ ghi VỊ DÂU NÓNG BỎNG. Các dược sư nhanh nhảu trao tay các loại thuốc bột thuốc nước thần kì. Một người sói có mái tóc trắng mỏng dính bày ra mấy cái lọ đựng thứ bột bàng bạc, trong khi ở đối diện, một phù thủy xăm trổ khắp người những cái vảy đủ màu đang rao bán sách phép. Vài quầy còn bán cả bùa chống Thợ Săn Bóng Tối, Livvy nhìn thấy liền cười khúc khích.

Kit không vui được vậy.

“Kéo tay áo xuống,” cậu nói. “Đội mũ trùm lên. Che hết mấy cái Ấn Ký nếu có thể.”

Livvy và Ty liền làm theo. Ty cầm lấy tai nghe, nhưng rồi khựng lại. Cậu ta chầm chậm đeo nó lại quanh cổ. “Không nên đeo,” cậu ta nói. “Biết đâu có thứ cần nghe ngóng.”

Livvy siết vai cậu em, hạ giọng nói gì đó Kit không nghe được. Ty lắc đầu xua tay, rồi cả ba tiến sâu vào Chợ. Một nhóm Đứa Con Của Màn Đêm da dẻ tái nhợt tụ tập quanh cái quầy để bảng NẠN NHÂN TÌNH NGUYỆN. Gần chục con người ngồi quanh bàn trò chuyện; thi thoảng một ma ca rồng sẽ bước tới, tiền trao tay, rồi kéo một người vào góc tối để hút máu.

Livvy kêu lên một tiếng nghèn nghẹn. “Họ rất cẩn thận,” Kit trấn an. “Ở Phiên Chợ L.A cũng có một khu thế này. Các ma cà rồng không bao giờ hút nhiều tới mức tổn hại người đâu.”

Cậu tự hỏi có nên nói gì đó để trấn an cả Ty. Mặt mày cậu trai tóc đen đã tái nhợt đi hết, mồ hôi lấm tấm trên má. Hai bàn tay hết nắm rồi thả bên hông.

Phía dưới kia nữa là cái quầy treo bảng TƯƠI MỚI. Người sói bu quanh chỗ xác thú tươi, ai chọn phần nào cứ việc đưa tay dứt toạc. Livvy cau mày; Ty chẳng nói gì. Kit sớm nhận ra rằng mấy trò chơi chữ chẳng thể chọc cười Ty. Còn ngay lúc này, Ty cứ như đang tranh đấu giữa quan sát Phiên Chợ và nôn ngay tại trận.

“Đeo tai nghe lên đi Ty,” Livvy thì thầm với cậu ta. “Không sao đâu.”

Ty lắc đầu lần nữa. Mớ tóc đen dính bết vào trán. Kit cau mày. Cậu thật muốn nắm tay Ty lôi ra khỏi Chợ, đến một nơi nào yên bình, tĩnh lặng. Cậu nhớ Ty từng nói, cậu ta ghét đám đông, rằng sự huyên náo hỗn loạn chẳng khác gì “mảnh kính vỡ găm vào đầu tôi vậy.”

Nhưng ở đây còn có điều gì khác nữa, Phiên Chợ này có cái điều gì đó rất lạ và bất bình thường.

“Hình như chúng ta đi nhầm vào khu ăn uống rồi,” Livvy nhăn mặt. “Ra chỗ khác đi.”

“Hướng này.” Kit rẽ về phía Giáo đường. Thường thì Chợ có khu vực riêng cho pháp sư tụ tập; tới giờ cậu mới thấy ma cà rồng, người sói, phù thủy và…

Bước chân cậu chậm dần. “Không có thần tiên,” cậu nói.

“Hả?” Livvy hỏi, suýt nữa va vào cậu.

“Phiên Chợ thường có rất nhiều thần tiên,” cậu nói. “Họ bán đủ thứ, từ quần áo vô hình đến túi thức ăn không bao giờ cạn. Nhưng ở đây tôi không thấy một thần tiên nào.”

“Tôi thì thấy rồi,” Ty nói. Cậu ta chỉ tay ra.

Gần đó là một quầy hàng lớn do một nam phù thủy cao to, tóc bạc tết bím quản lý. Trước quầy kê một cái bàn nỉ xanh. Bên trên bày những cái lồng chim kiểu cổ bằng sắt sơn trắng. Tất cả đều trông rất dễ thương, trong thoáng giây Kit cứ tưởng đó là mặt hàng bày bán.

Nhưng rồi cậu nhìn kĩ hơn. Mỗi cái lồng đều nhốt một sinh vật tí hon. Từ tiểu tiên, thủy yêu, đến quỷ lùn, thậm chí cả yêu tinh, đôi mắt to tướng của nó sưng híp lên vì phải tiếp xúc quá gần với sắt. Mấy thần tiên trong lồng ủ rũ thì thầm với nhau, tay nắm lấy song sắt rồi vội buông ra, rít lên đau đớn.

Ty tức đến trắng bệch cả người. Hai tay cậu ta run rẩy bên hông. Kit nghĩ đến Ty trong sa mạc vuốt ve những con thằn lằn nhỏ, bỏ chuột vào túi áo, bắt chồn để làm bạn. Ty, người trao trọn trái tim cho những sinh vật nhỏ bé yếu ớt. “Chúng ta không thể để mặc bọn chúng như thế.”

“Có lẽ người ta bán chúng để lấy máu và xương,” Livvy run giọng. “Chúng ta phải làm gì đó.”

“Thợ Săn Bóng Tối các ngươi không có quyền hạn gì ở đây hết.” Một giọng nói lạnh lùng cao vút vang lên, cả bọn liền quay lại. Trước mặt họ là một người phụ nữ. Da bà ta đen như gỗ gụ, mái tóc nâu cột cao trên đầu. Đôi đồng tử mang hình ngôi sao vàng. Bà ta mặc một bộ âu phục trắng như tuyết cùng đôi cao gót lấp lánh. Độ tuổi dao động từ mười tám đến ba mươi.

Bà ta mỉm cười trước ánh mắt họ. “Phải, ta có thể nhận ra Thợ Săn Bóng Tối, kể cả những tên cố giấu Ấn Ký một cách vụng về,” bà ta nói. “Ta khuyên các ngươi nên rời khỏi Chợ trước khi những người bạn kém thân thiện của ta để ý đi.”

Cặp sinh đôi kín đáo lần tay đến thắt lưng vũ khí, đặt hờ lên chuôi dao thiên thần. Kit biết đây là thời khắc của cậu, thời khắc để chứng tỏ cậu khéo xử lý Phiên Chợ và cư dân ở đó đến mức nào.

Và để tránh một vụ tắm máu nữa.

“Tôi là đại diện của Barnabas Hale,” cậu nói. “Quản lý Chợ Los Angeles. Hai Thợ Săn Bóng Tối này được tôi bảo hộ. Bà là ai?”

“Hypatia Vex,” bà ta nói. “Đồng quản lý Phiên Chợ này.” Bà ta nheo đôi mắt ánh sao. “Một đại diện từ Barnabas sao? Sao ta phải tin ngươi?”

“Chỉ có những ai Barnabas Hale muốn cho biết mặt thì mới nghe đến tên ông ấy,” Kit nói.

Bà ta gật gù. “Còn hai Thợ Săn Bóng Tối này? Barnabas cũng cử chúng tới sao?”

“Ông ấy sai tôi tìm một pháp sư để tư vấn về một bảo bối đặc biệt,” Kit nói. Cậu đang phê tới tận trời xanh, phê với những lời ba hoa và bịp bợm và lừa phỉnh. “Vật đó thuộc về hai người họ.”

“Được lắm. Nếu Barnabas đã sai ngươi tới tìm một pháp sư, vậy là pháp sư nào?”

“Là ta.” Giọng nói trầm thấp vang lên trong bóng tối.

Kit quay lại, trông thấy một kẻ đang đứng trước chiếc lều lớn màu xanh lá đậm. Giọng là giọng đàn ông, nhưng kẻ đó mặc áo choàng che kín từ đầu đến chân, tay cũng đi găng, vậy nên chẳng thể xác định giới tính. “Để ta lo được rồi, Hypatia.”

Hypatia chầm chậm chớp mắt. Nhìn như hai vì sao khuất dạng rồi lại hiện ra sau áng mây. “Nếu ngươi đã nói vậy.”

Bà ta quay người dợm bỏ đi, thế rồi dừng chân liếc nhìn lại Livvy và Ty. “Nếu các ngươi thương xót cho đám thần tiên đang chết dần chết mòn trong lồng kia,” bà ta nói, “thì hãy nghĩ thế này: nếu không phải do Hiệp ước Hòa Bình Lạnh lũ các ngươi đặt ra thì chúng đã không phải lâm vào cảnh đó. Nhìn lại máu trên tay mình đi, Thợ Săn Bóng Tối.”

Bà ta lẩn vào giữa hai căn lều. Ty nhăn mặt đau khổ. “Nhưng tay tôi…”

“Chỉ là một cách diễn đạt thôi.” Livvy vòng tay quanh em mình, ôm chặt lấy cậu ta. “Em không có lỗi đâu Ty, bà ta độc mồm vậy đấy.”

“Chúng ta nên đi thôi,” Kit nói với vị pháp sư mặc áo choàng, nhận được cái gật đầu.

“Đi với ta,” y nói, đoạn bước vào trong lều. Ba người còn lại liền theo sau.

Bên trong lều bài trí đơn sơ, sạch sẽ đến không ngờ. Sàn lót gỗ, một chiếc giường đơn, vài cái kệ để kín sách, bản đồ, chai lọ, nến ngũ sắc, và những cái hũ đựng thứ dung dịch có màu sắc trông đến ớn lạnh. Ty thở hắt ra, dựa lưng vào cột lều. Nỗi nhẹ nhõm hiện rõ trên mặt cậu ta khi được đắm mình vào vùng không gian tương đối yên tĩnh. Kit muốn bước tới hỏi Ty có sao không, cái Phiên Chợ ồn ào ngoài kia có ảnh hưởng tới cậu ta nhiều không, nhưng Livvy đã nhanh hơn một bước, cô đang vén mớ tóc dính trên vầng trán đẫm mồ hôi của cậu em. Ty gật đầu, nói gì đó Kit không nghe được.

“Đến đây,” vị pháp sư nói. “Ngồi xuống đây với ta.”

Y khoác tay. Đặt giữa lều là một bộ bàn ghế nhỏ. Vị pháp sư mặc áo choàng đợi các Thợ Săn Bóng Tối vào chỗ rồi mới ngồi xuống đối diện. Trong quầng sáng chập chờn, Kit thoáng nhìn thấy một cái mặt nạ lấp ló dưới chiếc mũ trùm, che kín gương mặt vị pháp sư.

“Các ngươi có thể gọi ta là Shade,” y nói. “Không phải họ của ta, nhưng thế cũng được rồi.”

“Sao ông lại nói dối giùm bọn tôi?” Livvy hỏi. “Lúc nãy. Ông đâu có thỏa thuận gì với Barnabas Hale.”

“Ồ, ta có vài thỏa thuận chứ,” Shade nói. “Đúng là không liên quan tới các ngươi, nhưng ta có quen cái gã đó. Và ta không khỏi tò mò vì các ngươi cũng biết hắn. Không có bao nhiêu Thợ Săn Bóng Tối từng nghe tới tên hắn.”

“Tôi không phải là Thợ Săn Bóng Tối,” Kit nói.

“Ồ, phải chứ,” Shade nói. “Ngươi chính là người con nhà Herondale vừa mới được nhận mặt.”

Livvy đanh giọng. “Sao ông biết? Nói mau.”

“Nhờ mặt ngươi đấy,” y nói với Kit. “Cái gương mặt xinh đẹp, xinh đẹp vô cùng. Ngươi không phải là người nhà Herondale đầu tiên ta gặp, cũng không phải người đầu tiên sở hữu cặp mắt như vậy, màu kết tinh của buổi chạng vạng. Ta không rõ tại sao ngươi chỉ có duy nhất một Ấn Ký trên người, nhưng đoán cũng không khó.” Y đan hai tay lại đặt dưới cằm. Hình như Kit vừa thoáng thấy lớp da xanh lá ở cổ tay, ngay dưới mép găng. “Phải nói rằng ta chưa từng nghĩ sẽ có vinh hạnh được tiếp đón người con thất lạc của nhà Herondale đấy.”

“Nãy giờ tôi có thấy tiếp đón gì đâu,” Kit nói. “Chúng ta mở phim coi được không?”

Livvy nghiêng người tới. “Xin lỗi. Cậu ta mà khó chịu là trở nên vậy đấy. Ưa mỉa mai lắm.”

“Ai mà ngờ đó cũng là một đặc điểm di truyền chứ?” Shade đưa bàn tay đi găng ra. “Còn giờ, cho ta xem thứ các ngươi mang theo nào. Ta cho rằng việc đó không phải là bịa đặt chứ?”

Ty cho tay vào túi áo, lấy ra viên pha lê aletheia. Dưới ánh nến, nó càng lấp lánh rực rỡ hơn.

Shade cười khùng khục. “Một vật lưu giữ kí ức. Xem ra ngươi sắp sửa được xem phim thật rồi.” Y chìa tay ra. Ty lưỡng lự, nhưng rồi cũng để y cầm lấy viên pha lê.

Shade nhẹ nhàng đặt viên pha lê xuống giữa bàn. Y lướt tay qua nó, thế rồi cau mày tháo một chiếc găng ra. Quả nhiên da tay y có màu xanh lá đậm. Kit tự hỏi Shade che giấu đặc điểm đó làm gì, ở Phiên Chợ Bóng Tối đâu có hiếm pháp sư.

Shade lướt bàn tay trần qua viên pha lê, rì rầm cái gì đó. Những ngọn nến trong phòng chập chờn như muốn tắt. Tiếng rì rầm lớn dần lên, Kit nhận ra là tiếng La Tinh, hồi ở trường cậu học được ba tháng, rồi xác định rằng học một thứ ngôn ngữ mà chẳng thể dùng với ai trừ Giáo Hoàng, cái người cả đời chắc cũng không gặp, thì cũng chẳng ích gì.

Nhưng giờ cậu phải thừa nhận thứ ngôn ngữ ấy mang sức nặng rất riêng, cái cảm giác rằng mỗi con chữ đều mang theo một ẩn ý sâu xa. Những ngọn nến tắt ngấm, nhưng căn lều không chìm vào bóng tối. Viên pha lê đang tỏa sáng, càng lúc càng sáng dưới tay Shade.

Cuối cùng, một chùm tia sáng bùng lên từ viên pha lê, Kit giờ đã hiểu Shade muốn nói gì khi đùa về vụ xem phim. Tia sáng phát ra như một cái đèn chiếu, rọi lên vách lều tối những hình ảnh chuyển động.

Trong một căn phòng hình tròn xếp đầy những băng ghế như một thính phòng, một cô gái bị trói vào chiếc ghế đặt ngay giữa. Qua ô cửa sổ, Kit có thể thấy rặng núi phủ tuyết xa xa. Có vẻ là mùa đông, nhưng cô gái chỉ mặc một chiếc váy suông trắng, đôi chân để trần, mái tóc dài sẫm màu xõa tung, rối bù.

Gương mặt cô giống hệt Livvy, giống tới mức nhìn gương mặt ấy co rúm trong đau đớn và sợ hãi khiến cả người Kit căng cứng hết.

“Annabel Blackthorn.” Một người đàn ông gầy với đôi vai cong gập bước vào khung hình. Ông ta mặc toàn đồ đen, gắn trên vai cái cài áo không khác mấy cái của Diego. Ông ta đội mũ trùm, kết hợp với góc nhìn của viên pha lê thành ra khó mà thấy rõ gương mặt hay vóc dáng.

“Điều Tra Viên,” Shade lẩm bẩm. “Hồi đó ông ta cũng là Quân Trưởng.”

“Cô có mặt ở đây,” người đàn ông tiếp, “vì bị buộc tội cấu kết với Cư dân Thế Giới Ngầm. Gia đình cô đã nhận nuôi Malcolm Fade, nuôi dưỡng hắn như một người anh em với cô. Hắn đã đáp trả lòng tốt ấy bằng sự phản bội hèn hạ. Hắn đã lấy cắp Tập Sách Đen Tử Thần ở Học Viện Cornwall, cô đã giúp hắn.”

“Malcolm đâu?” Giọng Annabel tuy run rẩy nhưng vẫn rành mạch. “Sao anh ấy không có mặt ở đây? Tôi sẽ không trả lời gì hết nếu không có anh ấy.”

“Cô gắn bó với tên pháp sư trộm cắp của mình quá nhỉ?” Điều Tra Viên chế nhạo. Livvy kêu thốt lên. Annabel nhìn như đang giận điên. Cô có cái hàm bướng bỉnh của Livvy, Kit thầm nghĩ, nhưng phảng phất cả những nét của Ty và các thành viên khác trong nhà. Cái phong thái bề trên của Julian, nét mong manh của Dru, dáng trầm ngâm của Ty qua bờ môi và khóe mắt. “Liệu cô có thất vọng không khi biết hắn đã đi rồi?”

“Đi rồi?” Annabel ngây người lặp lại.

“Trốn khỏi nhà giam ở Thành phố Câm Lặng tối hôm qua. Bỏ cô lại cho bọn ta toàn quyền định đoạt.”

Annabel nắm chặt hai bàn tay đặt trên đùi. “Không đúng,” cô nói. “Anh ấy đâu? Các người đã làm gì anh ấy?”

“Bọn ta chưa làm gì hắn hết. Ta rất vui lòng được khai như thế với Kiếm Thánh trên tay,” Điều Tra Viên nói. “Thật ra cái bọn ta muốn ở cô chính là chỗ ẩn nấp của Fade, rồi bọn ta sẽ thả cô ra. Tại sao bọn ta lại muốn tra hỏi việc đó trừ khi hắn đã thật sự trốn mất, đúng không?”

Annabel điên cuồng lắc đầu, mái tóc sẫm màu quất vào hai bên mặt. “Anh ấy không bỏ tôi đâu,” cô thì thầm. “Anh ấy không bỏ tôi đâu.”

“Tốt hơn hãy đối mặt sự thật đi Annabel,” Điều Tra Viên nói. “Hắn lợi dụng cô để vào Học Viện Cornwall ăn cắp đồ. Một khi đã có được cái mình muốn, hắn bỏ cô lại đây hứng chịu cơn thịnh nộ của bọn ta.”

“Anh ấy lấy quyển sách để bảo vệ chúng tôi,” cô run giọng. “Để chúng tôi có thể bắt đầu một cuộc sống mới cùng nhau, ở một nơi an toàn, tránh xa Luật, tránh xa các người.”

“Tập Sách Đen không viết về các thần chú bảo vệ,” Điều Tra Viên nói. “Cách duy nhất để nó có ích cho các ngươi là đem trao đổi với một kẻ có thế lực. Tên đồng minh có thế lực của Fade là ai vậy Annabel?”

Cô lắc đầu, đanh hàm lì lợm. Phía sau cô, một người nữa bước vào phòng: một người phụ nữ mặt mày nghiêm nghị, bê trên tay một bó vải đen. Nhìn bà ta mà sống lưng Kit rợn lên hết. “Tôi sẽ không nói gì với ông hết. Ông có dùng Kiếm Thánh cũng vậy thôi.”

“Thật ra bọn ta không thể tin những gì cô nói qua Kiếm Thánh,” Điều Tra Viên nói. “Malcolm đã vấy bẩn cô…”

“Vấy bẩn?” Annabel hãi hùng lặp lại. “Như thể… như thể tôi là một thứ nhuốc nhơ tội lỗi?”

“Cô đã trở nên nhơ nhuốc kể từ lần đầu chạm vào hắn. Bọn ta không biết được hắn đã thay đổi cô tới mức nào; có lẽ cô đã được bảo vệ trước vũ khí công lí của bọn ta. Một thứ bùa phép nào đó bọn ta không biết. Vậy nên bọn ta phải làm việc này theo cách người phàm.”

Người phụ nữ nghiêm nghị bước đến cạnh Điều Tra Viên. Bà ta dâng lên cái gói đen. Ông ta mở lớp vải ra, bên trong là một mớ dụng cụ sắc bén đủ loại: dao, đồ cạo, dùi. Một số món đã bị rỉ sét.

“Cho bọn ta biết ai đang giữ quyển sách và cơn đau sẽ chấm dứt,” Điều Tra Viên nói, cầm con dao cạo lên.

Annabel bắt đầu gào thét.

Tạ trời đất, khung cảnh tối sầm đi. Mặt Livvy tái nhợt. Ty nghiêng người tới trước, tay khoanh lại ôm chặt thân. Kit muốn đặt tay lên người Ty, muốn an ủi rằng không có gì đâu, truyền đạt suy nghĩ theo cái cách mà cậu phải giật mình.

“Còn nữa,” Shade nói. “Một cảnh nữa. Xem đi.”

Hình ảnh trên vách lều thay đổi. Vẫn là cái phòng ấy, nhưng giờ là ban đêm, mấy ô cửa sổ tối đen. Gian phòng thắp sáng bằng những ngọn đuốc hừng hực sắc vàng. Giờ họ có thể nhìn rõ mặt Điều Tra Viên, thay cho cái dáng người trong bộ đồ đen và hai bàn tay trong khung cảnh trước. Ông ta không già như Kit tưởng: nhìn còn khá trẻ, tóc sẫm màu.

Căn phòng vắng vẻ, chỉ có mỗi ông ta và một nhóm đàn ông tuổi tác chênh lệch. Không thấy người phụ nữ nào. Những người kia không mặc áo chùng, nhưng lại vận trang phục thời Nhiếp Chính3: quần da, áo khoác ngắn cài cúc. Một số người để tóc mai dài, một số có bộ râu tỉa gọn. Tất cả đều lộ vẻ căng thẳng.

“Felix Blackthorn,” Điều Tra Viên dài giọng. “Annabel con gái ông đã được chọn để trở thành Nữ Tu Sắt. Cô ta được đưa về nhà để từ biệt ông, nhưng hiện tại các Nữ Tu Sắt lại báo với tôi rằng cô ta mãi vẫn chưa đến Pháo đài Adamant. Ông có biết cô ta đang ở đâu không?”

Người đàn ông tóc nâu điểm vài sợi bạc cau mày. Kit nhìn ông ta không chớp mắt, ít nhiều mê hoặc: đây là tổ tiên của Ty và Livvy, Julian và Mark. Ông ta có khuôn mặt rộng với những đường nét cho thấy tính khí thất thường.

“Nếu ngài ngụ ý nói rằng tôi đang che giấu con gái mình thì không đâu,” ông ta nói. “Nó đã tự bôi xấu mình 3. Giai đoạn trị vì của Hoàng Tử Nhiếp Chính Vương Quốc Anh từ năm 1811 đến 1837. Đây là giai đoạn vua George Đệ Tam mắc bệnh, không đủ khả năng xử lý chính sự và con trai ông đã đứng ra nắm quyền. Khi George Đệ Tam qua đời, Hoàng Tử Nhiếp Chính trở thành vua George Đệ Tứ.

khi để tên pháp sư chạm vào, nó không còn là thành viên của gia đình tôi nữa.”

“Những gì chú tôi nói đều là sự thật,” một người trai trẻ lên tiếng. “Với nhà chúng tôi, Annabel xem như đã chết.”

“Quả là một phép so sánh sống động,” Điều Tra Viên nói. “Đừng phiền nhé nếu tôi thấy nó còn hơn cả một phép so sánh.”

Gã trai trẻ khẽ giật mình. Felix Blackthorn vẫn không đổi sắc mặt.

“Ông có phiền đưa ra lời khai trước Kiếm Thánh không Felix?” Điều Tra Viên hỏi. “Để đảm bảo rằng ông thật sự không biết con gái mình đang ở đâu.”

“Ông trả con bé về cho chúng tôi trong bộ dạng thân tàn ma dại,” gã trai nhà Blackthorn xẵng giọng. “Đừng có ra vẻ quan tâm tới số phận nó!”

“Cô ta chỉ chịu tổn thương như các Thợ Săn Bóng Tối trên chiến trường thôi,” Điều Tra Viên nói, “nhưng chết lại là một việc khác hoàn toàn đấy. Hơn nữa các Nữ Tu Sắt đòi câu trả lời.”

“Tôi được phép nói chứ?” Một người nữa lên tiếng; ông ta có mái tóc sẫm màu, gương mặt vương giả.

Điều Tra Viên gật đầu.

“Từ ngày Annabel Blackthorn lên đường đến chỗ Nữ Tu Sắt,” ông ta nói, “Malcolm Fade đã trở thành một đồng minh đích thực với Nephilim. Một trong những pháp sư hiếm hoi chúng ta có thể trông cậy, một kẻ không thể thay thế trên chiến trường.”

“Ý cậu là gì Herondale?”

“Nếu hắn nảy sinh ý nghĩ người phụ nữ hắn yêu đã không… à, tự nguyện rời bỏ hắn, hoặc giả biết được cô ta đã gặp bất trắc thế nào đó, thì e rằng hắn sẽ không góp sức cho chúng ta nữa đâu.”

“Các Nữ Tu Sắt của Pháo đài Adamant chẳng đời nào rời khỏi đảo để đi hóng chuyện đâu,” một người nữa lên tiếng, kẻ này có gương mặt dài như mặt chồn. “Nếu như cuộc bàn luận về số phận Annabel bất hạnh kết thúc ở đây, vậy thì tất cả sẽ chấm dứt. Suy cho cùng, có lẽ cô ta đã bỏ trốn, hay xui xẻo rơi vào tay lũ quỷ hay thổ phỉ rồi cũng nên. Chúng ta chẳng thể nào biết được.”

Điều Tra Viên nhịp nhịp tay vịn ghế. Ông ta nhìn thẳng vào Felix Blackthorn, đôi mắt u tối; Kit chẳng thể biết ông ta đang nghĩ cái gì. Cuối cùng, ông ta nói. “Ông cáo lắm đấy Felix, kéo cả bạn bè mình theo. Ông biết tôi không thể trừng phạt tất cả các người mà không gây ra hỗn loạn. Và các người nói đúng về Fade. Có một con quỷ đang hoành hành gần trường Scholomance, chúng ta cần hắn.” Ông ta phẩy tay. “Tốt thôi. Chúng ta sẽ không bao giờ nhắc đến việc này nữa.”

Vẻ nhẹ nhõm lướt qua mặt Felix Blackthorn, lẫn với nét cay đắng kì lạ. “Cám ơn ngài,” ông ta nói. “Cám ơn Điều Tra Viên Dearborn.”

Khung cảnh thu lại thành một điểm đen rồi biến mất.

Kit ngồi thừ ra hồi lâu. Cậu nghe thấy Livvy và Ty tới tấp hỏi, còn Shade thong thả trả lời: Đúng vậy, hình ảnh này là kí ức thật sự; không, không cách nào xác định được là kí ức của ai. Chắc khoảng hai trăm năm rồi. Họ phấn khởi thấy rõ khi nghe đến tên Điều Tra Viên Dearborn. Nhưng tâm trí Kit thì vẫn mắc lại ở một từ duy nhất như mảnh vải vướng vào móc áo.

Herondale.

Một trong những kẻ xấu xa đó là tổ tiên cậu. Herondale, Dearborn và Blackthorn đã cấu kết che giấu hành động tra tấn và sát hại một cô gái trẻ, người chỉ có một tội duy nhất là yêu một pháp sư. Nghĩ rằng mình có họ hàng với Jace là một chuyện, anh ta dường như được yêu quý khắp toàn cầu, cái gì cũng giỏi. Ai ai cũng nói về nhà Herondale như thể họ là một dòng dõi hoàng tộc, những ông hoàng bà chúa chuyên cứu nhân độ thế.

Cậu chợt nhớ đến lời Arthur: Ngươi sẽ là loại Herondale nào đây? William hay Tobias? Stephen hay Jace? Xinh đẹp, tàn nhẫn, hay cả hai?

“Rook!” Cửa lều rung lên. “Kit Rook, ra đây mau!”

Tiếng trò chuyện trong lều nín bặt. Kit chớp mắt; cậu không phải là Kit Rook, cậu là Christopher Herondale, cậu là…

Cậu loạng choạng đứng lên. Livvy và Ty cũng bật dậy, Ty vội nhét viên pha lê aletheia vào túi áo. “Kit, đừng…” Livvy vươn tay ra, nhưng Kit đã rảo bước khỏi lều.

Ai đó đang gọi tên cậu… có lẽ nó vốn không phải tên thật, nhưng vẫn là một phần không thể chối bỏ trong cậu. Cậu nhào ra ngoài.

Barnabas Hale đứng ngay trước mặt, hai tay khoanh lại, lớp vảy trắng ánh lên nhợt nhạt trong ánh đuốc. Sau lưng lão ta là một nhóm người sói: nam có nữ có, tất cả đều cao to, lực lưỡng trong đồ da đen và vòng tay nạm đinh. Một số kẻ còn đeo quả đấm sắt.

“Nhóc tì Rook,” Barnabas nói, cái lưỡi rắn thè ra qua nụ cười toe toét. “Nghe nói ngươi mượn danh ta tới đây bàn công chuyện, thế là sao hả?”