M
ark rảo bước về phòng Kieran, chuẩn bị tinh thần cho một vở kịch.
Cảm giác bức bối lẫn mệt mỏi đã đẩy Mark ra khỏi phòng khách. Với tình trạng lờ đờ tương tự, những người còn lại cũng dần tản về phòng riêng. Cristina rời đi lúc nào Mark không biết, nhưng anh đã cảm nhận được sự vắng mặt của cô, một cú nhói trong lồng ngực khi cô không còn ở đó nữa. Cô Diana quyết định đi Idris sớm nhất có thể, Julian và Emma đã theo tiễn cô.
Mark đã không khỏi bất ngờ khi Emma tuyên bố chấm dứt màn kịch yêu đương của họ; anh biết mình đã nói gì với cô ở Xứ Tiên, và rằng cô chỉ làm theo lời anh yêu cầu. Thế nhưng anh vẫn cảm thấy có chút hụt hẫng, cô độc, với cả một nỗi lòng hoang mang không biết làm sao để nhìn vào mắt Kieran mà nói ra những lời dối trá.
Anh không thích nói dối; những năm tháng trong Hội Săn anh không dối gạt ai một lời, nhịp điệu của nó làm anh khó chịu. Anh muốn tâm sự với Cristina, nhưng chẳng thể hình dung cô lại muốn ngồi nghe anh kể lể chuyện tình phức tạp với Kieran. Nếu là Julian, cậu sẽ tập trung toàn bộ tinh thần để làm cái việc cần làm, bất kể có đau đớn đến cỡ nào. Giờ anh cũng chẳng thể nói chuyện với Emma. Đến bây giờ anh mới nhận ra mối quan hệ giữa họ, dẫu cho chỉ là giả tạo, vẫn khắng khít biết chừng nào, vẫn đem đến cho họ một tình bạn thật sự; bất giác anh tự hỏi phải chăng mình cũng đã đánh mất luôn tình bạn đó rồi.
Còn về Kieran… Mark gục đầu vào bức tường cạnh cửa phòng Kieran. Hành lang trang trí bằng giấy dán tường bạc màu, họa tiết lá vàng và hàng rào dây nho, áp vào trán anh đến lạnh. Kieran chính là cái người anh khó lòng bộc bạch nhất.
Nhưng đập đầu vào tường mãi cũng chẳng có ích gì. Anh thẳng lưng, nhẹ nhàng đẩy cửa; căn phòng sắp xếp cho Kieran nằm trên dãy cầu thang nhỏ cách xa khu tư phòng, một căn phòng nhìn như có thời dùng làm nhà kho. Ô cửa sổ nhỏ hẹp hướng mặt ra tường nhà bên cạnh. Một chiếc giường lớn bốn cột đặt giữa phòng, gần đó là chiếc tủ áo to tướng… nhưng Kieran có thứ gì để bỏ vào thì Mark đành chịu.
Tấm khăn phủ giường đã bị kéo xuống, còn Kieran thì chẳng thấy đâu. Bụng dạ Mark bỗng quặn lên. Kieran ở chừng mực nào đó đã hứa với Cristina là sẽ ở lại: nếu cậu ta quyết định nuốt lời thì họ gặp rắc rối to rồi.
Mark thở dài, nhắm mắt lại. Anh vừa thấy ngớ ngẩn, lại vừa mông lung khi đứng giữa phòng với hai mắt nhắm chặt, nhưng anh hiểu Kieran. “Kier à,” anh nói. “Ta không thấy gì hết. Ra đây nói chuyện với ta nào.”
Một thoáng sau, hai bàn tay cứng cáp ôm chặt lấy hông anh, nhấc lên rồi ném anh xuống giường. Kieran lấy thân người đè anh xuống nệm; mở mắt, Mark nhìn lên Kieran nằm phía trên mình, hoang dại và lạ lẫm trong trang phục thượng tiên. Lớp vải băng bó quanh người Kieran cộm lên trên ngực Mark, nhưng còn lại, sức nặng từ cơ thể Kieran vẫn quen thuộc vô cùng. Quen thuộc với anh, quen thuộc gọi mời.
Kieran nhìn xuống anh, đôi mắt bên đen bên bạc như trời đêm vời vợi. “Ta yêu anh,” Kieran nói. “Và ta đã hứa. Nhưng nếu các người còn tiếp tục hạ nhục và xua đuổi ta như thế, ta sẽ không chịu trách nhiệm cho hành động của mình đâu.”
Mark đưa tay vuốt tóc Kieran. Những sợi tóc mềm lướt qua ngón tay, mượt mà như lụa. “Ta nhất định sẽ bảo họ cư xử lịch thiệp với cậu hơn. Chẳng qua họ phải làm quen với cậu trước.”
Mắt Kieran long lanh. “Ta đâu có làm gì để họ ngờ vực như thế.”
Ôi, có chứ, Mark thầm nghĩ, cậu đã làm rồi, và ai cũng nhớ, chỉ có mình cậu là không nhớ.
“Họ đã giúp ta cứu cậu,” anh rồi cũng nói. “Đừng tỏ thái độ vô ơn chứ.”
Kieran nghe thấy thế bèn mỉm cười. “Ta thì chỉ muốn nghĩ đó là công sức của một mình anh thôi.” Cậu cúi xuống, vùi mặt vào cổ Mark.
Mark khép hờ mắt; anh cảm nhận được hàng mi cậu lướt qua má mình. Anh cảm nhận được cơ thể Kieran cựa nhẹ bên trên. Kieran có mùi như biển cả, trước giờ vẫn thế. Mark nhớ đến ngọn đồi nơi miền quê xanh mát, gò đá ẩm hơi sương, cùng Kieran lăn lộn đến tận chân đồi. Đôi tay lùa vào tóc, đôi tay vuốt dọc cơ thể anh khi đã lâu lắm rồi không ai chạm vào anh cả. Cả người anh khi ấy đã nóng rực, đã run rẩy. Giờ anh đang run rẩy. Kieran là gì với anh? Anh là gì với Kieran? Họ là gì của nhau?
“Kier à,” Mark nói. “Nghe này…”
“Giờ không phải lúc để nói,” Kieran trả lời, môi chờn vờn bên mạch cổ anh, rồi lần lên hàm, lên môi anh.
Một khoảnh khắc kéo dài vô tận, cái khoảnh khắc khi Mark rơi xuyên qua những vì sao vụn vỡ xung quanh. Môi Kieran vừa mềm lại vừa lạnh, tựa như cơn mưa, Mark bấu víu lấy cậu giữa bóng tối mịt mù dưới một bầu trời rạn vỡ.
Anh vùi tay vào tóc Kieran, những ngón tay bấu chặt, nghe thấy Kieran thở hắt một hơi qua môi mình. Cậu ép sát người xuống Mark, ngón tay trượt dần xuống gáy rồi nắm lấy sợi dây chuyền tinh linh tiễn.
Một cú lay xua tan mộng mị. Mark lật người, kéo theo Kieran, để họ nằm cạnh bên nhau. Cái hôn đứt đoạn, Kieran chòng chọc nhìn anh, nửa bực bội, nửa mơ màng. “Miach,” cậu nói. Âm tiết ấy qua giọng cậu nghe như một cái ve vuốt gọi mời để đến với niềm lạc thú thần tiên không gì tưởng nổi.
“Đừng,” Mark nói. “Đừng gọi ta như thế.”
Kieran hít mạnh một hơi. “Giữa hai ta đã có chuyện gì đúng không? Làm ơn cho ta biết đi Mark. Ta cảm nhận được sự xa cách nhưng không hiểu nguyên do.”
“Cậu không nhớ, nhưng chúng ta đã cãi nhau một trận. Về việc ta ở lại với gia đình mình. Vậy nên ta mới trả lại cái tinh linh tiễn cho cậu.”
Kieran lộ vẻ bối rối. “Nhưng ta sớm biết anh sẽ ở lại với gia đình mình. Ta không muốn thế, nhưng nhất định ta đã chấp nhận sự thật. Ta vẫn nhớ bước vào Điện Unseelie. Ta không nhớ có bất kì cảm giác tức giận nào với anh cả.”
“Cũng không có cãi lớn lắm đâu.” Mark nuốt khan. “Nhưng ta đã không ngờ đến việc này… cậu, bước vào thế giới của ta. Và tất cả những trò tranh đấu chính trị phức tạp này nữa.”
“Anh không muốn ta ở đây sao?” Sắc mặt Kieran không đổi, nhưng lọn tóc bên thái dương đã hóa trắng.
“Không phải thế,” Mark nói. “Lúc trong Hội Săn Hoang, ta cứ nghĩ mình sẽ chết vào bất kì đêm nào. Ta muốn mọi thứ, mạo hiểm mọi thứ, vì chẳng có ai phụ thuộc vào ta. Rồi cậu đến, và chúng ta phụ thuộc vào nhau, nhưng…” Anh nghĩ đến Cristina. Từng lời cô nói hiện về, và anh không thể kiềm lòng liền nắm bắt lấy, dẫu cho thâm tâm vẫn thấy như mình vừa phản bội một người. Cristina, người đã hôn anh trong phút giây đắm chìm vui thú bên buổi dã yến, trước khi anh nhận ra cô thật sự nghĩ gì về anh… một kẻ cô chỉ hôn khi hoàn toàn say quên trời đất.
“Ta đã luôn cần Kieran,” anh nói. “Ta cần cậu để sống. Ta cần cậu quá nhiều, tới nỗi ta chưa từng nghĩ hai ta liệu có thật sự tốt cho nhau hay không.”
Kieran ngồi dậy. Cậu không nói gì, song Mark nhẹ nhõm nhận ra lọn tóc trắng đã chuyển về màu xanh đen thường nhật. “Anh thành thật,” cậu rồi cũng nói. “Ta không thể trách anh việc đó.”
“Kieran…”
“Anh cần bao nhiêu thời gian?” Kieran thẳng người dậy, tư thế của một hoàng tử thần tiên đầy kiêu hãnh. Mark nhớ đến những lần ngắm nhìn Kieran từ xa trong dã yến; thấy các tiểu tiên xúm xít quanh cậu. Những chàng trai cô gái ôm lấy tay cậu, mong mỏi dù là một lời hay một ánh mắt, vì sự sủng ái đến từ một hoàng tử, dẫu đã bị truất phế, vẫn là cả một đặc ân. Và Kieran đã không ban phát dẫu chỉ một lời hay một cái liếc mắt, bởi mọi lời nói và ánh nhìn cậu đều dành hết cho Mark. Dành cho những điều họ làm với nhau khi Hội Săn Hoang không nhìn đến…
“Có lẽ là vài ngày,” Mark nói. “Nếu cậu có thể kiên nhẫn được cỡ đó.”
“Ta có thể kiên nhẫn trong vài ngày.”
“Sao cậu lại chọn Cristina?” Mark đột ngột hỏi. “Lúc phải thề trung thành với một trong bốn người bọn ta ấy. Sao lại là cô ấy? Cậu muốn chọc tức ta sao?”
Kieran cười rộng. “Như người ta vẫn thường nói đấy, không phải mọi việc trên đời đều liên quan tới anh đâu Mark.” Cậu ngả người ra sau, mái tóc đen sẫm trên nền vải trắng. “Anh cũng nên đi rồi ấy nhỉ?”
“Cậu không muốn ta ở lại sao?” Mark hỏi. “Với cậu?”
“Trong khi anh xem xét đức hạnh của ta như định giá một con ngựa muốn mua ấy à? Không,” Kieran nói. “Về phòng của anh đi Mark Blackthorn. Và nếu nỗi cô đơn không làm anh yên giấc thì cũng chớ có tìm ta đấy. Hẳn phải có chữ rune chữa chứng mất ngủ chứ.”
Làm gì có, nhưng Mark không nghĩ nói ra lại là ý hay. Mắt Kieran long lanh đến nguy hiểm. Mark rời khỏi phòng, tự hỏi có phải mình vừa phạm một sai lầm khủng khiếp.
Căn phòng của Cristina ở Học Viện London nhìn y hệt mấy bức ảnh chụp các Học Viện ở những nơi khác: bày biện đơn giản với giường, tủ quần áo, bàn gương và bàn làm việc. Một cái phòng tắm nhỏ, sạch sẽ mà cô vừa dùng qua. Giờ cô ngả người trên tấm nệm lồi lõm, chăn đắp ngang ngực, cánh tay đau nhức.
Không rõ tại sao. Cô yêu từng khoảnh khắc được bay cùng Hội Săn Hoang; nếu tại vậy mà bị thương thì cô cũng chẳng nhớ. Cô đâu đập trúng vật gì lúc lên ngựa, hay lúc bay qua bầu trời, và nếu có bị đau thì cô phải để ý chứ? Nhưng nếu không phải tại lúc ấy thì cơn đau này ở đâu ra?
Cô trở người, với tay lấy ngọn đèn phù thủy đặt trên tủ đầu giường. Ánh sáng nhàn nhạt tỏa khắp phòng, soi rõ chiếc giường kiểu Anh cùng những món đồ bằng gỗ đặc. Bên khung cửa sổ sơn màu, ai đó đã khắc lên mấy chữ JB+LH.
Cô nhìn xuống cánh tay phải. Vùng da quanh cổ tay trắng nhợt đi hẳn, quanh mép hơi ửng đỏ, nhìn như vết sẹo do một cái vòng tay quá chật gây ra.
“Mấy đứa lo được không?” Cô Diana nói. Một câu hỏi nửa tin tưởng, nửa nghi ngờ.
Cô Diana, Julian và Emma đứng giữa tiền sảnh Học Viện London. Cửa chính mở rộng, ngoài kia là khoảng sân chìm trong đêm tối; mưa vừa tạnh, lớp đá lót đường gột rửa sạch trơn. Julian nhìn ra được cánh cổng kim loại nổi tiếng của Học Viện cùng dòng chữ khắc bên dưới: CHÚNG TA LÀ CÁT BỤI VÀ BÓNG TỐI.
“Bọn em lo được,” Julian nói.
“Malcolm đã chết lần nữa rồi. Đâu còn ai muốn giết bọn em,” Emma nói. “Đây chỉ như một kì nghỉ thôi.”
Cô Diana xốc lại chiếc túi trên vai. Cô dự định sẽ đi taxi tới Tu viện Westminster, ở đó có một đường hầm bí mật dẫn tới Idris vốn dành riêng cho Thợ Săn Bóng Tối.
“Cô không muốn bỏ các em lại.”
Julian không khỏi bất ngờ. Cô Diana trước giờ vẫn muốn đến là đến, muốn đi là đi đấy thôi. “Bọn em sẽ ổn cả thôi,” cậu nói. “Có cụ Evelyn ở đây, còn Clave thì chỉ cần gọi một cú.”
“Một cú điện thoại mấy đứa không muốn rớ vào đâu,” cô Diana nói. “Cô sẽ gửi thêm tin nhắn cho Magnus và Alec, cũng như giữ liên lạc với hai người họ khi đến Alicante.” Cô dừng lại một chốc. “Nếu có việc gì cần, cứ gửi thư lửa, họ sẽ đến ngay.”
“Em lo được mà,” Julian nói. “Em từng giải quyết nhiều vấn đề rắc rối hơn trong khoảng thời gian dài hơn nhiều.”
Diana nhìn thẳng vào mắt cậu. “Nếu được, cô nhất định đã can thiệp rồi,” cô nói. “Em hiểu mà đúng không? Cô sẽ tiếp quản Học Viện nếu có thể. Đứng ra đối đầu nhà Dearborn.”
“Em hiểu,” Julian nói, và lạ lùng làm sao, cậu thật sự hiểu. Dù cho cậu mãi vẫn không rõ vì cái gì mà cô Diana không chịu đứng ra ứng cử, cậu vẫn hiểu đấy là một nguyên do vô cùng quan trọng.
“Phải chi việc đó có được kết quả gì,” cô Diana nói. “Nhưng cô sẽ không qua được cuộc phỏng vấn đâu. Sẽ là công cốc, rồi sau đó cô sẽ không thể ở lại hay giúp mấy đứa nữa.”
Nghe cứ như cô đang tự thuyết phục mình, Emma theo bản năng liền đưa tay ra.
“Cô Diana, cô biết là bọn em sẽ không đời nào để cô phải xa bọn em,” cô nói.
“Emma à.” Giọng Julian sắc hơn dự định. Ngọn lửa giận phải vùi xuống từ lúc Emma tuyên bố chia tay Mark một lần nữa bùng lên, cậu chẳng biết mình còn có thể kiềm chế trong bao lâu nữa. “Cô Diana biết mình đang nói gì.”
Emma không khỏi giật mình trước giọng điệu lạnh lùng ở cậu. Diana đảo mắt qua lại giữa hai người họ. “Nghe này, cô biết tình trạng này rất là căng thẳng, phải bỏ nhà đi như thế, nhưng cố gắng đừng cãi nhau nhé,” cô nói. “Hai đứa phải giữ cho mọi thứ nguyên vẹn đến khi cô ở Idris về đấy.”
“Chỉ một hai ngày thôi mà,” Emma nói, không nhìn vào Julian. “Đâu có ai cãi nhau đâu cô.”
“Giữ liên lạc với bọn em nhé,” Julian nói với Diana. “Nhắn lại cho bọn em những gì bà Jia nói.”
Cô gật đầu. “Từ sau Cuộc Chiến Hắc Ám tới giờ cô chưa quay lại Idris lần nào. Sẽ thú vị lắm đây.” Cô nghiêng người tới, hôn nhanh lên má Jules rồi đến Emma. “Cẩn thận. Cô nghiêm túc đấy.”
Cô kéo mũ áo khoác lên rồi bước ra ngoài, ngay lập tức khuất vào đêm tối. Tay Emma quệt qua Julian khi đưa lên vẫy chào. Ngoài kia, Julian nghe vọng đến tiếng cổng đóng lại.
“Jules này,” cô nói, vẫn không quay đầu sang. “Cậu nói cô Diana quyết không chịu nhận quản lý Học Viện, nhưng cậu có biết lí do…?”
“Không,” cậu nói. Một tiếng giản đơn, nhưng chứa đầy nọc độc. “Tiện nói về việc thú nhận, cậu có tính giải thích cho cả nhà anh Mark biết tại sao cậu lại đá người anh cả của bọn họ mà không báo trước tiếng nào không?”
Emma kinh ngạc hỏi lại. “Cậu giận việc mình và anh Mark chia tay sao?”
“Cậu đã đá hai người anh em trong cùng một nhà rồi đấy, nếu ta đếm con số thực tế,” cậu tiếp như thể cô chẳng nói gì. “Tiếp theo là ai đây? Ty hả?”
Cậu biết ngay mình vừa đi quá đà. Giống như Julian, cô vốn xem Ty như em mình. Mặt cô liền đanh lại.
“Đi chết đi Julian Blackthorn,” cô nói, đoạn quay phắt đi, hằn học leo lên cầu thang.
Đêm đó cả Julian lẫn Emma đều chẳng được yên giấc, thế nhưng cả hai đều nghĩ chỉ có mình là lòng dạ rối bời, còn người kia quá nửa chẳng có gì băn khoăn.
“Tôi nghĩ đã đến lúc cậu tiếp nhận Ấn Ký đầu tiên rồi đấy,” Ty nói.
Chỉ còn lại ba người Livvy, Ty và Kit trong phòng khách. Những người kia đều đã đi ngủ. Nhìn ra bầu trời tối thẫm bên ngoài, Kit đoán giờ là ba hay bốn giờ sáng, nhưng cậu không thấy mệt. Có lẽ là do lệch múi giờ, hay lệch Cổng Dịch Chuyển, gọi sao cũng được; có lẽ là do nỗi nhẹ nhõm lan tỏa khi tất cả mọi người đã tề tựu đông đủ.
Hoặc là do sáu trăm tách trà hơn.
“Tôi có Ấn Ký rồi mà,” Kit nói. “Cậu đã vẽ chữ iratze cho tôi.”
Livvy lộ ý tò mò nhưng không hỏi. Cô nằm dài trên ghế bành bên lò sưởi, chân gác lên tay ghế.
“Ý tôi là chữ rune vĩnh cửu,” Ty nói. “Đây là chữ đầu tiên bọn tôi được nhận.” Cậu đưa bàn tay thon dài lên, hướng mu bàn tay về phía Kit, cho thấy chữ rune hình con mắt thanh thoát đặc trưng của tất cả Thợ Săn Bóng Tối. “Khai Nhãn. Khai mở Tâm Nhãn.”
“Tôi thấy được Thế Giới Bóng Tối mà,” Kit chỉ ra. Cậu đưa cái bánh quy sôcôla lên cắn một miếng. Một trong những món ăn ngon lành hiếm hoi của nước Anh, theo ý cậu.
“Cậu quá nửa không thấy hết mọi thứ có thể đâu,” Livvy nói, đoạn giơ tay dàn hòa. “Nhưng cậu muốn làm gì thì cứ làm.”
“Nó là chữ rune đau nhất,” Ty nói. “Nhưng cũng đáng.”
“Phải rồi,” Kit nói, lười biếng lấy thêm một cái bánh nữa. Livvy đã chôm nguyên một gói to trong chạn bếp. “Nghe tuyệt đấy.”
Cái bóng của Ty đổ xuống, cậu ngạc nhiên ngẩng đầu lên; Ty đang đứng ngay trước cậu, tay cầm thanh stele, hai mắt sáng ngời. “Cậu thuận tay phải,” cậu ta nói, “chìa tay đó ra cho tôi.”
Kit giật mình mắc nghẹn mẩu bánh; Livvy ngồi bật dậy. “Ty à,” cô nói. “Không cần đâu; cậu ta không muốn. Cậu ta chỉ đùa thôi.”
“Tôi…” Kit lên tiếng, nhưng mặt Ty đã chuyển màu xám tro, cậu ta lùi lại, thất vọng thấy rõ. Cậu ta đảo mắt đi chỗ khác. Livvy dợm đứng lên.
“Không… Đâu có, tôi muốn chứ,” Kit nói. “Tôi muốn có Ấn Ký. Cậu nói đúng, đã đến lúc tôi nhận một chữ thật sự rồi.”
Bầu không khí lắng đọng đợi chờ; Livvy đã nhổm nửa người khỏi ghế. Ty chớp mắt lia lịa. Thế rồi cậu ta khẽ mỉm cười, và Kit thấy tim mình đập bình thường trở lại. “Vậy thì đưa tay phải đây,” Ty nói.
Kit chìa tay ra. Ty nói đúng: cái Ấn Ký đau dã man. Đau như xăm hình vậy: cái cảm giác rát buốt thấm sâu xuống da. Đến khi Ty vẽ xong, mắt cậu đã nhòe nhoẹt cả.
Kit co duỗi ngón tay, nhìn chằm chằm tay mình. Vậy là cậu sẽ mang con chữ này vĩnh viễn, cái con mắt trên mu bàn tay, cái chữ do Ty vẽ cho. Cậu sẽ không bao giờ xóa bỏ hay thay đổi nó được.
Nhét thanh stele vào thắt lưng lại, Ty nói, “Không biết nhà Malcolm ở Cornwall chính xác là nằm chỗ nào nhỉ?”
“Tôi có thể cho các cậu biết chính xác vị trí của nó,” cô gái đứng bên lò sưởi nói. “Polperro.”
Kit giương mắt nhìn. Cậu dám cá một giây trước cô ta không hề có mặt ở đó. Một cô gái tóc vàng, trẻ trung, và… trong suốt. Cậu có thể nhìn thấy lớp giấy dán tường qua người cô ta.
Cậu buột miệng hét toáng lên.
Bridget dẫn Emma tới một căn phòng dường như đã được chọn sẵn từ trước, và Emma sớm hiểu ra nguyên do: có hai cái thước đo chiều cao khắc trên lớp vữa, cái loại tạo nên bằng cách cho người đứng sát tường rồi vạch một đường ngay trên đầu, đánh dấu ngày tháng. Một cái ghi Will Herondale, cái còn lại ghi James Carstairs.
Một căn phòng của người nhà Carstairs. Emma ôm lấy hai khuỷu tay, mường tượng ra hình ảnh Jem: giọng nói dịu dàng, đôi mắt sẫm tối. Cô nhớ anh ấy quá.
Nhưng đó chưa phải là tất cả bằng chứng; suy cho cùng Jem và Will có thể đo chiều cao trong bất kì phòng nào. Trong tủ đầu giường, Emma tìm thấy một xấp ảnh cũ, hầu hết chụp từ đầu những năm 1900.
Ảnh chụp nhóm bốn cậu trai qua nhiều giai đoạn. Xem chừng là một nhóm rất thân thiết. Hai người trong đó, một tóc vàng, một nâu sẫm, xuất hiện ở gần hết các tấm ảnh. Họ quàng tay qua người nhau, cười đùa vui vẻ. Có ảnh một cô gái tóc nâu nhìn rất giống Tessa, nhưng không phải là Tessa. Rồi đến ảnh của chính Tessa, vẫn giống hệt như bây giờ, đứng cạnh một người đàn ông vô cùng điển trai xấp xỉ hai mươi tám hay hai mươi chín. Will Herondale trứ danh đây mà, Emma đoán. Có ảnh một cô gái tóc hung đỏ, da ngăm, nét mặt nghiêm nghị. Trên tay cầm một thanh kiếm vàng. Emma nhận ra nó ngay, chẳng cần nhìn đến dòng chữ khắc trên lưỡi: Ta là Cortana, cùng bằng thép và tôi cùng nhiệt như Joyeuse và Durendal.
Cortana. Cô gái trong bức ảnh này nhất định là người nhà Carstairs.
Phía sau tấm ảnh nguệch ngoạc dòng chữ như trích từ một bài thơ. Vết thương mở đường cho Ánh Sáng soi rọi lòng ta.
Emma nhìn chòng chọc dòng chữ suốt một hồi lâu.
“Có cần phải la hét vậy không?” Cô gái cáu kỉnh hỏi. Giọng Anh đặc sệt. “Tôi là ma, vậy thôi. Làm như cậu chưa từng thấy ma bao giờ ấy.”
“Tôi chưa từng thấy thật mà,” Kit bực dọc đáp lại. Livvy đứng hẳn dậy. “Chuyện gì vậy Kit? Cậu nói chuyện với ai vậy?”
“Một hồn ma,” Ty nói. “Ai vậy Kit?”
“Tôi là Jessamine,” cô gái nói. “Và bởi vì trước giờ cậu không thấy tôi không có nghĩa tôi không cố làm cho cậu thấy.”
“Cô ta là Jessamine,” Kit lặp lại. “Cô ta nói đã cố gắng gây chú ý với tụi mình.”
“Một hồn ma,” Ty nhìn về phía lò sưởi. Rõ ràng cậu ta không nhìn thấy Jessamine, nhưng cũng đoán được cô ta đang đứng đâu. “Người ta nói có một hồn ma đã bảo vệ Học Viện London trong Cuộc Chiến Hắc Ám. Là cô ấy sao?”
Kit nghe rồi lặp lại. “Cô ta nói đúng vậy. Nhìn mặt tự mãn ghê luôn.”
Jessamine trừng mắt.
“Cô ta còn nói biết Malcolm sống ở đâu,” Kit tiếp.
“Cô ấy biết ư?” Livvy bước tới bàn làm việc, cầm lấy giấy bút. “Cô ấy có nói ở đâu không?”
“Polperro,” Jessamine lặp lại. Cô ta xinh đẹp thật, với mái tóc vàng và đôi mắt sẫm màu thế kia. Kit tự hỏi khen một hồn ma hấp dẫn liệu có biến thái hay không. “Một ngôi làng nhỏ ở phía nam Cornwall. Mấy lần ghé qua Học Viện, Malcolm đều tả về ngôi nhà ấy.” Cô phẩy bàn tay trong suốt. “Hắn hãnh diện về ngôi nhà ấy lắm, nằm ngay trên cái hang nổi tiếng nào đó. Thật khủng khiếp làm sao khi hắn hóa ra lại là người xấu. Tội nghiệp Arthur,” cô bổ sung. “Tôi từng trông chừng cậu ta trong giấc ngủ. Cậu ta thường gặp những cơn ác mộng kinh khủng về Xứ Tiên và anh trai mình.”
“Cô ấy nói gì vậy?” Livvy hỏi, đầu bút ấn xuống tờ giấy.
“Polperro,” Kit nói. “Phía nam Cornwall. Hắn rất hãnh diện về nơi đó. Cô ta rất tiếc khi hắn hóa ra lại là một tên chết dịch.”
Livvy viết lại. “Tôi dám cá cô ấy không có nói từ chết dịch.”
“Chúng ta phải ra thư viện,” Ty nói. “Tìm bản đồ và lịch trình xe lửa.”
“Hỏi cô ấy chuyện này giúp tôi,” Livvy nói. “Sao cô ấy lại không nói với cụ Evelyn nơi ở của Malcolm?”
Vài giây sau, Kit lặp lại, “Cô ta nói bà Evelyn không thật sự nghe được cô ta. Bà cụ thường tự đặt chuyện rồi bảo là do Jessamine nói.”
“Nhưng cụ ấy biết Jessamine có ở đây,” Ty nói. “Cô ấy nhất định là một hư linh, bởi chẳng còn ai khác nhìn thấy cô ấy.”
“Hừm!” Jessamine nói. “Hư linh cơ đấy; rõ ràng các người chẳng chịu luyện tập để nhìn thấy vong linh thì có. Tôi đã làm mọi thứ để mấy người chú ý, chỉ còn thiếu mỗi lấy bàn cầu cơ đập đầu mấy người thôi.”
“Tôi thấy cô này,” Kit nói. “Ý là tôi đã luyện tập làm Thợ Săn Bóng Tối gì đâu.”
“Cậu là người nhà Herondale,” Jessamine nói. “Người nhà đó nhìn thấy được hồn ma.”
“Nhà Herondale thường có khả năng thấy ma,” Ty cùng lúc nói. “Thế nên tôi mới muốn cậu nhận chữ rune Khai Nhãn.”
Kit quay phắt sang cậu ta. “Sao cậu không nói sớm?”
“Chưa chắc sẽ thành công,” Ty nói. “Tôi không muốn cậu khó xử nếu thất bại.”
“Chậc, nó đã thành công đấy thôi,” Livvy nói. “Chúng ta mau gọi anh Julian dậy để báo tin này đi.”
“Cái cậu trai lớn tuổi tóc xoăn nâu ấy à?” Jessamine hỏi. “Cậu ta chưa ngủ.” Cô ta cười khúc khích. “Được nhìn lại đôi mắt nhà Blackthorn đáng yêu ấy mới tuyệt làm sao.”
“Julian chưa ngủ,” Kit nói, quyết định bỏ qua đoạn con ma này có khả năng đã cảm nắng anh ta.
Ty cùng Livvy chạy ra cửa. “Cậu đi không Kit?”
Kit lắc đầu, tự mình ngạc nhiên. Vài tuần trước ai mà hỏi cậu có thích ở một mình cùng một hồn ma hay không, cậu chắc chắn sẽ nói không. Bây giờ cậu cũng không hẳn là thích, nhưng cũng chẳng phiền gì. Jessamine chẳng đáng sợ gì cả. Cô ta mang nét già dặn, một chút u sầu và không có vẻ gì là đã chết.
Nhưng cô thật sự đã chết. Cánh cửa đóng sầm lại mang theo làn gió lay động cơ thể cô, những ngón tay dài trắng trẻo đặt lên bệ lò sưởi. “Cậu không cần ở lại đâu,” cô ta nói với Kit. “Chắc vài phút nữa tôi cũng biến mất rồi. Đến cả ma cũng cần nghỉ ngơi.”
“Tôi có một câu hỏi,” Kit nói. Cậu nuốt ực; thời khắc đã đến, cổ họng cậu bỗng khô ran. “Cô có… cô có từng thấy bố tôi không? Ông ấy chết cách đây không lâu.”
Đôi mắt nâu đượm nét xót xa. “Không,” cô đáp. “Không phải ai cũng trở thành ma đâu Christopher. Chỉ có những người dang dở công việc lúc còn sống, hay những người cảm thấy mắc nợ ai một điều gì đó.”
“Bố tôi chưa từng nghĩ mình mắc nợ ai bất cứ điều gì,” Kit lẩm bẩm.
“Tốt hơn là tôi không thấy ông ta. Vậy có nghĩa ông ta đã đi rồi. Đã được yên nghỉ rồi.”
“Đi đâu mới được?” Kit ngẩng đầu lên. “Ông ấy có ở Thiên Đàng không? Chắc không có cửa đâu.” “Christopher!” Jessamine sửng sốt thấy rõ. “Thật đấy,” Kit nói. “Cô không biết ông ấy đâu.”
“Tôi không biết có gì đằng sau cái chết,” Jessamine nói. “Tessa cũng từng đến hỏi tôi điều tương tự. Cô ấy muốn biết Will đang ở đâu. Nhưng anh ta không vướng bận lại đây. Anh ta chết trong thanh thản và đi tiếp rồi.” Hai tay cô bất lực co duỗi. “Tôi không phải là Charon. Không phải người đưa đò. Tôi không biết có gì ở bên kia dòng sông.”
“Nghe kinh khủng quá chứ,” Kit nói, nắm tay siết lại, Ấn Ký mới vẽ âm ẩm đau. “Cứ như một sự tra tấn vĩnh hằng.”
“Có thể,” Jessamine nói. Giọng nói nhẹ như gió chứa đựng nét uyên thâm. “Nhưng tôi không nghĩ vậy.”
Cô ta nghiêng đầu. Ánh lửa hắt lên mái tóc vàng nhạt, rồi cô biến mất, chỉ còn lại một mình Kit trong phòng. Nhưng trong tay cậu có gì đó, nó kêu rột roạt khi cậu nắm tay lại.
Là một mảnh giấy gấp. Cậu mở ra, lướt mắt qua dòng chữ; những con chữ thanh thoát đầy nữ tính.
Tôi sẽ biết ngay nếu cậu lấy trộm bất kì quyển sách nào trong thư viện, và cậu sẽ phải hối hận đấy.
Dưới đó là một chữ kí vô cùng bay bướm: Jessamine Lovelace.
Lúc Livvy bước vào phòng, Julian đang nằm bẹp trên giường như miếng bánh mì rơi dưới đất. Cậu thậm chí còn chẳng buồn thay quần áo hay kéo khăn phủ ra.
“Anh Jules ơi?” Livvy ngập ngừng đứng nơi ngưỡng cửa.
Cậu ngồi bật dậy. Vốn dĩ đang cố sắp xếp lại mớ suy nghĩ rối ren trong đầu, song vừa nhìn thấy cô em gái đêm hôm khuya khoắt đi vào phòng mình, cậu liền gạt đi mọi thứ trừ cơn hoảng loạn bùng lên. “Có gì không? Chuyện gì xảy ra à?”
Livvy gật đầu. “Thật ra là tin tốt. Bọn em biết được nhà Malcolm ở đâu rồi, cái căn ở Cornwall ấy.”
“Hả?” Julian lấy tay vuốt mặt, dụi mắt cho tỉnh hẳn. “Ty đâu?”
“Thư viện.” Con bé ngồi xuống góc giường Julian. “Thì ra nhà này có ma. Jessamine. Cô ấy vẫn còn nhớ Malcolm và biết nhà hắn ở đâu. Ty đi kiểm tra lại rồi, nhưng cũng chẳng có lí do gì để bảo cô ấy nói sai. Cụ Evelyn mấy ngày nay cứ nói chuyện với cô ấy suốt, bọn em chỉ không nghĩ cô ấy có thật, nhưng rồi Kit…”
“Có thể thấy ma. Phải rồi,” Julian nói. Cậu đã tỉnh táo hơn nhiều. “Tốt. Ngày mai anh sẽ tới đó xem có tìm được gì không.”
“Còn tụi em sẽ đi tới Dinh Blackthorn,” Livvy nói. Dinh Blackthorn là một trong hai cơ ngơi của gia tộc Blackthorn. Họ có một trang viên ở Idris và một dinh thự ở quận Chiswick, kề bên sông Thames. Rất lâu về trước, nó từng thuộc về nhà Lightwood. “Để xem ở đó có giấy tờ gì ghi chép về Annabel không. Kieran không thể rời Học Viện, vậy nên anh Mark có thể ở lại với hắn cùng chị Cristina để tra cứu trong thư viện.”
“Không được,” Julian nói.
Livvy đanh hàm. “Anh Jules à…”
“Em có thể tới Dinh Blackthorn,” cậu nói. “Tất nhiên em xứng đáng được đi, cả Ty với Kit nữa. Nhưng anh Mark phải đi với mấy đứa. Kieran cứ việc tự mua vui bằng cách tết hoa hay làm thơ gì đó.”
Khóe môi Livvy khẽ giật. “Trêu chọc Cư Dân Xinh Đẹp kiểu đó nghe không hay cho lắm.”
“Đáng đời Kieran,” Julian nói. “Ai bảo hắn chọc giận chúng ta làm gì.”
“Chắc chị Cristina có thể coi chừng hắn.” “Anh tính rủ chị ấy đi Cornwall,” Julian nói.
“Anh và chị Cristina à?” Livvy ngẩn người. Cũng khó trách con bé. Cái nhóm này vốn đã quen chia cặp theo độ tuổi và mức độ thân sơ. Jules và Emma, hay Jules và Mark, không vấn đề. Jules và Cristina ư? Không.
“Emma nữa,” Julian bổ sung, rủa thầm trong bụng. Chỉ nghĩ đến việc ở cùng Emma, nhất là ngay lúc này, đã khiến cậu kinh hãi. Nhưng sẽ càng khó nói hơn nếu cậu đi mà không đem theo parabatai của mình. Ấy là chưa xét đến chuyện Emma đời nào chịu bó gối ngồi nhà. Không có cửa.
Nhưng có Cristina cũng đỡ lắm. Cristina sẽ làm trung gian cho họ. Phải độn một người ở giữa mình và Emma thật làm cậu muốn bệnh, nhưng nhớ đến cách cậu gắt gỏng với cô ở tiền sảnh càng làm cậu bệnh gấp đôi.
Cứ như chứng kiến một kẻ nào đó nói chuyện với người cậu yêu nhất trần đời vậy; một kẻ nào đó, cố tình tổn thương parabatai của cậu. Lúc cô cặp với Mark, cậu vẫn có thể làm gì đó với cảm xúc của mình. Vò nát, vùi sâu xuống tận đáy lòng và tiềm thức. Cậu cảm nhận được sự hiện diện của nó, ứa máu, một khối u xé toạc gan ruột, nhưng chí ít cậu không thể thấy nó.
Giờ thì nó ở ngay đây, ở ngay trước mắt. Thật khủng khiếp làm sao khi yêu một người không được phép yêu. Khủng khiếp làm sao khi con tim là tất cả những nỗi niềm không thể nói thành lời, thứ nỗi niềm mà tất cả những người xung quanh đều cho là xấu xa, thứ nỗi niềm có thể hủy hoại cuộc đời ta.
Rồi khủng khiếp hơn nữa là biết được người ta không đón nhận tình cảm của mình. Lúc tưởng rằng Emma cũng yêu cậu, Julian cảm thấy không đến nỗi đơn độc giữa địa ngục trần gian. Rồi khi cô đến với Mark, cậu có thể tự nhủ là Mark đứng ngáng giữa họ. Chứ nào phải cô thà sống lẻ loi còn hơn phải cặp với cậu.
“Chị Cristina rất am hiểu về Tập Sách Đen,” Julian nói bừa. Tạ trời đất, Livvy không hỏi tới. “Chị ấy sẽ giúp ích được nhiều.”
“Dinh Blackthorn, ta đến đây,” Livvy nói, đoạn trượt xuống giường. Trong mắt Julian con bé nhìn như một cô gái nhỏ trong bức họa cổ, với chiếc váy xanh dương tay phồng. Nhưng có lẽ với Julian, Livvy sẽ mãi là một cô bé. “Anh Jules này?”
“Sao?”
“Tụi em biết rồi,” con bé nói. “Tụi em biết chuyện chú Arthur, biết chú ấy bị gì. Tụi em biết anh đã điều hành Học Viện bấy lâu. Tụi em biết anh là người đã cáng đáng mọi việc kể từ sau Cuộc Chiến Hắc Ám.”
Julian có cảm tưởng cái giường vừa nghiêng hẳn đi. “Livia…”
“Tụi em không giận anh đâu,” con bé vội nói. “Em tới đây một mình vì em muốn nói chuyện riêng với anh, trước Ty và Dru. Có điều này em muốn nói với anh.”
Julian vẫn bấu chặt lấy tấm ga. Có lẽ cậu đang rơi vào trạng thái sốc. Suốt bao năm cậu đã vẽ lên đủ loại kịch bản cho giây phút này đến nỗi khi nó thật sự xảy ra, cậu chẳng biết phải nói gì.
“Tại sao?” Cậu rồi cũng thốt lên được.
“Em đã nhận ra một điều,” con bé nói. “Em muốn trở nên giống anh Jules. Không phải ngay lúc này, nhưng một ngày nào đấy. Em muốn chăm sóc mọi người, những Thợ Săn Bóng Tối khác, những người cần em. Em muốn điều hành Học Viện.”
“Em nhất định sẽ thành công,” cậu nói. “Livvy… anh không cho em biết vì anh không thể. Chứ không phải vì anh không tin em. Đến Emma anh còn không nói. Cho đến vài tuần trước.”
Con bé chỉ nhoẻn miệng cười, rồi vòng qua bên kia giường nơi cậu đang ngồi. Nó cúi xuống, và cậu cảm nhận được cái hôn đặt nhẹ lên trán mình. Nhắm mắt, cậu nhớ lại cái hồi con bé vẫn còn nhỏ tới mức cậu có thể nhấc bổng lên, khi con bé lẽo đẽo theo cậu, vung vẩy hai tay: Anh Julian, anh Julian, ẵm em.
“Anh chính là hình mẫu em muốn noi theo,” con bé nói. “Em muốn làm anh tự hào.”
Nghe đến đó, cậu mở mắt ra, ngượng ngùng đưa một tay ôm lấy con bé, rồi nó lùi lại, vò rối tóc cậu. Cậu phàn nàn, con bé cười vang, sau đó trở ra cửa, bảo là đã mệt rồi. Nó tắt đèn trước khi rời khỏi phòng, để lại cậu trong bóng tối.
Cậu rúc mình vào dưới chăn. Livvy đã biết. Bọn trẻ đã biết. Bọn chúng biết và vẫn không ghét cậu. Cái gánh nặng cậu mang bấy lâu tưởng chừng quên mất, cuối cùng đã có thể trút bỏ rồi.