Anh đứng trên con thuyền gỗ rộng, một kiểu thuyền cứu sinh cổ xưa chỉ còn thấy trong sách lịch sử mô tả kiểu săn cá voi cổ xưa. Dù thuyền lớn nhưng ngoài anh ra, không còn ai khác. Anh ở trên thuyền chưa lâu. Một cây đèn dầu treo trên chiếc rổ ngay cạnh anh. Nó kêu xì xì và lắc lư mỗi lúc thuyền chòng chành. Anh ngồi ở cuối thuyền.
Hai tay anh nắm một mái chèo gỗ to bè nhưng anh không thể ngồi vững để chèo. Mỗi lần cúi tính vục chèo vục chèo xuống nước, bề mặt dẹt của chèo lại trượt đi. Mấy lần mất thăng bằng, anh suýt té lộn nhào. Nếu ngã xuống nước, anh sẽ không sống được. Xô thùng, cuốc thuổng và cuộn dây thừng lăn lông lốc trong lòng thuyền.
Anh cảm giác mình trên thuyền rất lâu rồi. Hai vai anh nhức nhối, hai bàn tay trầy trụa vì phải nắm mái chèo. Anh đang tìm cách vượt biển thì phải. Sóng cồn đen kịt như mực. Hình như đó không phải nước mà là chất gì hoàn toàn khác. Nó dính nhớp như thứ thường thấy trong công nghiệp. Sóng dồn thành đám cách anh không xa. Chúng vươn cao và tấn công con thuyền thành từng lớp từ hai đến ba con sóng liên tiếp. Nước lạnh buốt tung bọt trắng xóa hai bên mạn thuyền.
Đại dương không biết đâu là bờ. Có lẽ bờ là dòng kẻ mờ nằm ngang tít phía xa, một dòng kẻ đậm hơn không gian âm u trải rộng phía trên và phía dưới nó. Thuyền cách bờ quá xa. Mọi thứ đều xa xôi cách trở. Sóng vỗ ì oạp bên mạn thuyền.
Lát sau, anh thấy bóng to lù lù của vật gì phía xa và cố chèo lái đưa thuyền đến hướng ấy. Trên mặt nước có nhiều vật dụng bằng thủy tinh trôi bồnh bềnh, va vào nhau lách cách. Đâu đó có tiếng người nói lẩm bẩm kèm theo tràng cười như pháo rang vang vọng trong đêm. Giữa khoảng không giữa anh và vật thể lạ có dãy đèn màu vàng nhạt. Anh cố nhìn xuyên qua bóng tối. đó toàn những ổ gà. Ổ gà tụ thành mảng trôi bồng bềnh trên mặt biển. Mảng ấy rộng và rối rắm như một thành phố nhỏ đang trôi nhích dần từng chút trên đại dương.
Chớp mắt, anh đã ở cạnh mảng ấy. Nó không có âm thanh riêng. Anh biết anh cần trở lên thuyền. Kích thước khổng lồ của mảng trôi nổi nhắc anh nhớ con thuyền nhỏ của anh yếu ớt biết bao. Chắc chắn thứ có kích cỡ to như vậy không thể chìm. Phải chăng nó được ‘đẽo’ ra từ nước? Nhìn xuyên qua một ổ gà, anh thấy khói xì gà nghi ngút, nhiều ly rượu sâm panh rót sẵn, những mái tóc uốn cầu kỳ và nữ trang lấp lánh. Nào ngọc trai, nào nơ bướm, kế đến là làn da cổ mượt mà của một cô gái. Anh biết đó toàn người thân quen, dù anh chưa nhận rõ mặt ai. Nếu anh đến họ sẽ reo mừng đón chào. Họ sẽ chăm sóc anh chu đáo.
Con thuyền nhỏ va mạnh vào thân tàu lớn. Nước tràn vào nhấn chìm anh. Anh câm lặng như người chưa từng biết đến âm thanh. Hai bàn tay anh xoa tròn trên thân tàu thủy, cố tìm thứ gì có thể giúp anh đu lên tàu. Anh sắp đến nơi rồi. bề mặt của thân tàu trầy xước, trơn trượt không giống gỗ chút nào. Đó là da cá voi. Đến giờ anh mới biết khối lù lù là đống thịt tươi. Nó có mùi rong biển và cháo đặc. Đó mùi cơ thể anh. Anh chùi hai tay vào áo quần.
Có bức tượng nhỏ của Đức Mẹ Đồng Trinh trên tủ lạnh, hai bàn tay bằng thạch cao của Người chắp trước ngực như đang cầu nguyện. Tượng lọt thỏm trong lòng bàn tay anh và rất dễ nắm giữ. Đó là món đồ cổ ai đó mang từ xứ sở khác đến bằng cách nhét vào hành lý xách tay. Một tay anh cầm tượng. Nếp áo chùng trên tượng đã mòn, dính bẩn và gần như trơn láng. Cây thánh giá Người cầm bên tay phải gần mòn hết. Mũi tượng sứt mẻ, để lộ lớp thạch cao trắng sau làn da hồng hồng. Mặc dù vậy, cặp mắt nâu của Người vẫn giữ nguyên ánh nhìn khắc khổ và đang chăm chú nhìn thứ gì ở sau vai phải anh.
Anh quỳ trong làn nước đen ngòm, gần như không nhấc nổi chân mà đi. Anh cố gọi to nhưng không phát ra âm thanh nào. Anh thử lại lần nữa. Chỉ có tiếng ho khan, to hơn tiếng thì thầm một chút phát ra từ cổ họng anh. Biển đã nuốt mất đường chân trời, hoặc có lẽ nó nằm hướng khác. Anh há miệng. Giống cá ngáp lúc hấp hối, anh há miệng thật to, nhưng chẳng có âm thanh nào thoát ra cả.
Wild choàng tỉnh ngồi bật dậy, hốt hoảng thở dốc trong phòng tối mịt mùng.