Lão Josef xỏ tay chân vào quần dài và áo thun ba lỗ. Đến thẳng cửa sổ, lão đẩy cửa chớp ngó xuống con đường vắng vẻ. Không gian phía dưới nhỏ bé và không có dấu hiệu gì khác thường, chỉ toàn hình khối đen ngòm của nhà cửa. Theo thói quen, mắt lão sục sạo tìm động tĩnh nhưng tịnh không có gì. Ngay cả đèn giao thông cũng không sáng.
Ánh trăng vằng vặc soi tỏ da mặt lão đầy nốt sần sùi, chảy nhão và mỏng như giấy khiến những nếp nhăn và khoảng da láng bóng giữa chúng càng nổi bật. Mọi đường nét trên khuôn mặt lão càng rõ ràng hơn: mũi nhọn, gò má cao, cặp mắt đen thẫn thờ. Trước mặt gã, cánh cửa rung khe khẽ. Lão khẽ vuốt món tóc xòa xuống mắt.
Mới đó mà hơi thở đã làm mờ kính. Lão rít mạnh không khí qua kẽ răng vàng, mấy ngón chân quặp dần lại bấu vào mặt thảm mỏng màu xanh dương. Cái lạnh ‘phản đối’ lão kịch liệt: khớp gối phải đau âm ỉ. Hình xăm trên cánh tay ngứa ran khiến lão bất giác đưa tay lên gãi, lúc đầu nhẹ nhàng sau lão cào mạnh vào nó. Hình xăm cây thập tự không còn sắc nét hằn trên làn da trắng bủng.
Hứng ly nước từ vòi trong nhà tắm, lão tiếp tục thức chong chong chờ trời sáng. Phòng khách sạn này sặc mùi thuốc đánh bóng đồ gỗ và mùi rác. Nước trong phòng tắm hơi có vị của gỉ sắt. Lão biết bình minh còn lâu mới tới. Mọi dấu hiệu của sự sống biến sạch, ngoại trừ chú miêu xám trườn qua mái tôn cũng màu xám của tiệm bánh đối diện. Nếu chỉ nhìn thoáng qua sẽ khó lòng nhận biết. Bầu trời đầy mây xà xuống gần sát mái nhà. Nó giống mảng da bụng của con quái thú khổng lồ toàn thân đen kịt.
Chìm trong màn đêm, trông thị trấn này khác hẳn quang cảnh lão thấy chiều hôm qua. Trên ngọn đồi phía xa có một sợi khói uốn éo thoát từ ống khói. Một đốm sáng rất mờ, rất xa lúc ẩn lúc hiện chắc từ một căn nhà nằm ven rìa thị trấn. Lão thoáng nghĩ liệu có ai trong nhà đó cũng giống lão: đứng bên cửa sổ lắng nghe từng tiếng động nhỏ của đêm. Giờ này làm gì còn ai thức để thả hồn miên man theo từng thời khắc của bóng tối! Ngoài những sinh vật lục sục trong những bụi cây thấp thì chỉ có người cực kỳ tốt hoặc cực kỳ xấu mới còn thức đến bây giờ. Hồi lão còn bé tí, nửa đêm cha lão hay tỉnh giấc, lệt xệt vào bếp uống trà và ngồi bên bàn cạnh tủ lạnh kêu ro ro lẩm bẩm cầu nguyện. Đúng là con người ta dễ để hồn mình tan vào sự tĩnh mịch.
Vốn sống cả đời nơi phố thị, lão không thích không gian yên tĩnh ở những nơi hoang sơ thế này. Giờ lão chỉ là ông già gầy guộc, chậm chạp và thận trọng nhúc nhích trong phòng khách sạn nơi xứ lạ, chẳng khác con bọ ngựa già. Lão Josef hút thuốc và ho khẽ chỉ vì muốn tạo một âm thanh trấn áp bình minh đang đến và để tự nhắc rằng mình vẫn còn tồn tại.
Lão nhăn mặt nhớ giấc mơ tối qua. Những hình ảnh ma quái trong mơ giống ngôn ngữ lạ đầy ý nghĩa nhưng chỉ ‘cư dân’ của xứ mơ mới hiểu nổi. Nếu lão còn nói chuyện được với bà con dòng họ đã về suối vàng từ lâu, họ sẽ giải mã cho lão. Hầu hết người thân của lão đều thích sáng sáng ngồi uống cà phê, lý giải từng chi tiết nhỏ của một giấc mơ chỉ để cãi cọ: người này phán đó là điềm báo về tương lai, người kia nói là hình ảnh của quá khứ, người nọ bảo là linh hồn người chết nửa đêm tìm về. Dì Mary của lão bán những giấc mơ. Bà bói những giấc mơ để lấy tiền hàng xóm. Hồi đó, người ta đến tìm bà vì muốn một lần trong đời được ngồi phi cơ, thoát cảnh hiếm muộn hoặc về thăm lại nơi chôn nhau cắt rốn lần cuối trước khi về với tổ tiên. Lão không biết rõ bà làm thế nào, chỉ biết tiến trình gồm có tiếng thì thào, ít thảo dược, và nắm bùa hộ mạng giúi vào những bàn tay nhăn nheo. Tất nhiên, cuối cùng phải có tiền. Bà Mary còn tuyên bố bà có khả năng lấy đi giấc mơ của người khác, xóa sạch những cơn ác mộng không thể chịu đựng nổi. Hồi nhỏ, cậu bé Josef hay giật mình tỉnh giấc giữa đêm bởi tiếng thét trừ tà của bà dì từ phòng bên cạnh vọng sang. Lão nhớ đám khách hàng răng cái còn cái mất, nửa đêm mất ngủ đến tìm bà Mary xin giúp đỡ, nhớ ánh nến leo lét cháy hàng đêm. Sau khi ngó nghiêng một hồi, mắt cậu díp lại. Giấc mơ của cậu giống con cá trong ao, vẫy đuôi bơi đi mất.
Lão run rẩy. Thốt nhiên, chặng đường đi tìm thằng ranh Lee trở nên khó nhọc hơn bao giờ. Một dúm tiền nhỏ gây quá nhiều phiền toái. Một gã chuyên chỉ điểm cho cảnh sát kể với lão về hai người theo nhận dạng rất giống Lee và tay bạn bác sĩ. Họ đánh gục tay bảo vệ đường sắt và nhảy xuống tàu. Từ khi ở chỗ bà Sylvia về, đó là manh mối duy nhất lão tìm được. Nhưng bấy nhiêu cũng quá đủ. Lão sắp thành công rồi. Thằng nhóc tì Lee kia có nằm mơ mới cho rằng hắn có thể ôm tiền trốn thoát về nhà chị. Lão sắp tìm và chặn hắn lại đây.
Đến giờ này, chắc chắn dì Mary đã mồ yên mả đẹp từ lâu. Có lẽ hầu hết bà con dòng họ lão đã quy tiên cả. Nếu không chết, họ cũng ly tán mỗi người một phương. Dù lão muốn tìm họ hoặc họ muốn lão tìm ra mình, lão cũng không có manh mối để lần theo. Cô dì, chú bác anh em họ lão đông phải biết: Leo, David, Drusilla... và bé Carla nữa chứ. Giờ chắc con bé lớn lắm, có chồng con đề huề cũng nên. Bao năm rồi, lão chưa một lần gặp lại người thân.
Cách nay hơn hai mươi năm, cha lão nuốt nước mắt vào trong khi chứng kiến mẹ lão dúi nắm tiền vào tay con trai trước giờ lên đường. Đó là ngày lão bước chân ra đời, tìm thầy học lấy một cái nghề, như buôn bán chẳng hạn. Ngày trở về thăm nhà luôn bị trì hoãn: ban đầu là do án tù mười năm cho tội cướp của, sau là do xấu hổ. Lá thư duy nhất ông bà thân sinh gửi vào tù cho lão có nội dung: đừng hòng ló mặt về nhà. Tất nhiên, nếu muốn lão vẫn có thể về xin tha thứ nhưng luôn nghĩ đã quá muộn và bằng lòng để sự ‘quá muộn’ ấy an bài tất cả.
Không biết cha mẹ lão còn ở căn nhà gỗ năm xưa vui vầy với anh em và con cái họ luôn ồn ào sống gần bên? Chắc hũ thủy tinh đựng đầy kẹp quần áo vẫn để cạnh đĩa sữa của mèo ngoài bãi cỏ. Do hồi bé gặp tai nạn, cha lão mất cả vị giác lẫn khứu giác nhưng hễ gặp đồ ăn là ông ngửi hít, hy vọng phục hồi được giác quan bị mất. Tay phải ông ép cà vạt vào ngực để khỏi dính vào thức ăn, tay kia nắm chặt mép bàn, mắt lim dim cố tập trung. Có lần, lão bắt gặp cha đứng trong vườn cầm trái táo vừa hái. Ông mặc áo sơ mi xanh trứng sáo đã sờn cổ, một sợi vải trắng xơ ra, quấn quanh cái cổ rám nắng: "Nói đi con. Có thật quả này có mùi không?". Lúc ấy cậu bé Josef mới lên mười rụt rè đưa trái táo tròn, nhẵn nhụi áp vào mũi. Môi cậu lành lạnh, bàn tay phải xòe hết cỡ mới cầm được nó. Lúc đầu, cậu không ngửi thấy gì. Nhưng vì muốn làm cha vui lòng, cậu thử lại lần nữa. Khi hít sâu hơn, cậu phát hiện rõ mùi táo thơm. Làm sao tả được mùi này? Lúc trước cậu không hề biết táo lại có mùi, nhưng giờ cậu biết chắc đó là mùi táo, không thể là mùi gì khác. Bé Josef lại hít hà. Phải, đó chính là hương táo, không thể nhầm được.
Nhưng cậu nhún vai: "Không. Chẳng có mùi gì cả. Bố không lầm đâu ạ". Nghe xong, cha cậu mỉm cười gật đầu, ung dung trở vào nhà, hai tay đút túi quần.
Lão thấy nhớ nhà nhưng cảm giác ấy không có gì mới. Xoa cằm, lão quyết định phải cạo râu. Cúi xuống nách thấy mùi chua lòm xộc vào mũi, lão biết phải tắm ngay. Lão Josef ghét phải đi xa, không thích làm mồi cho hoàn cảnh không quen thuộc do đó thường xuyên phải ứng biến cho thích hợp. Sao trên đời có người thích đến xứ lạ? Với lão, bất kỳ ai thích chu du chỉ vì không biết làm gì hơn đều mất trí cả.
Dù ngồi trong phòng khách sạn giữa đêm khuya thanh vắng, lão vẫn có cảm giác mọi con mắt dồn vào mình. Mọi gã đàn ông trên năm mươi ba tuổi một mình vào khách sạn đều bị coi là hắc ám cả: nếu không là tội phạm hiếp dâm thì cũng là tay khủng bố! Hay chí ít cũng là cây viết khiêu dâm. Ông già chủ khách sạn khó chịu ra mặt khi thấy lão đăng ký thuê phòng nhưng không mang hành lý, như thể thiếu hụt ấy rất đáng phải suy ngẫm. Lúc đưa lão lên lầu, ông ta sưng sỉa đi trước, không thèm ngoái đầu nhìn lại. Con người giống cầm thú ở chỗ hay nghi ngờ đồng loại bị xa lánh. Lão Josef thấy cần tránh mọi con mắt nhòm ngó, nhanh chóng tìm Lee và đi khỏi đây sớm.
Nhón điếu thuốc bằng đầu ngón trỏ và ngón cái, lão cứ thế hút cho hết rồi quăng đầu mẩu ướt nhẹp xuống đất di mạnh bằng gót chân trần. Còn vài tiếng đủ cho một giấc ngủ tới sáng nhưng trước khi định lên giường, lão đứng ngắm đốm sáng lạ ở đầu kia của thị trấn nhỏ heo hút. Những đám mây thấp tản dần. Vài cụm mây nhỏ lay động chỉ một lát sau muôn vàn mảnh nhỏ bay mù trời phủ trắng đường phố, mái hiên và nóc nhà. Không tiếng động và trọng lượng, lũ mây kia có phép lạ chắc? Chùi mặt kính bằng bàn tay trần, lão gí hẳn mũi vào tấm thủy tinh lạnh cóng để nhìn cho rõ và nhoẻn cười. Thì ra là tuyết.
Lão chưa thấy tuyết bao giờ. Ngay cả tên của hiện tượng thiên nhiên ấy lão cũng thấy lạ tai. Vừa bật cười trước cảnh đẹp như trong chuyện thần tiên, lão lại cười nhạo chính mình. Lắc đầu kỳ thú, lão vừa lùi xa đã lại tiến gần cửa sổ. Tuyết vẫn rơi giống đội quân đông đảo âm thầm từ trên trời rơi xuống. Lão mở tung cửa sổ, vươn cổ ra ngoài trời tối. Tuyết bám đầy tóc và vai lão. Một vảy nhỏ rơi lên mi mắt, ở yên giây lát rồi tan ngay. Hay thật. Nhìn mà xem, đẹp quá thể. Lão ngơ ngẩn nhìn quanh xem có ai cũng thích thú như lão chăng. Nhưng đương nhiên giữa đêm hôm khuya khoắt thế này, người ta còn ngủ say. Đáng lý trẻ con phải thích tuyết chứ nhỉ? Tiếc thay, giờ thì nam phụ lão ấu đều không thể đồng cảm với lão. Lão nếm vị tuyết tan nơi đầu lưỡi.
Mẹ lão Josef hay kể cảnh tuyết rơi ở quê nhà, lúc bà còn bé: tiếng lạo xạo dưới chân, sự tĩnh lặng đến vô cùng và mùi dễ chịu của nước đá. Với lão, đó là hiện tượng lạ khó tưởng tượng, thứ không thể xuất hiện trước mặt lão. Dù nhớ chuyện mẹ kể, lão vẫn sững sờ như lạc giữa chốn bồng lai. Kéo ghế đến gần, nhoài người lên bậu cửa sổ, lão vừa lắc đầu vừa say sưa ngắm nhìn. Dù trời lạnh, lão vẫn ngồi hàng giờ như thế. Tuyết bám trên kính, tích tụ trên khung cửa gỗ. Ánh ban mai rạng dần soi thấu từng cụm tuyết trắng xốp. Dần dà, cả thị trấn nằm mơ màng dưới lớp chăn lông trắng tuyền.