Nắng ấm toả trên đồi, mây quyện ngang dãy Tản Viên, làm nổi rõ chỏm núi án ngữ phía tây nam. Phía bắc, ba Hồn đảo treo lơ lửng trong mây, gió sông Hồng dìu dịu. Vùng đồi Vật Lại có khung cảnh đẹp riêng.
Đứng giữa đồi, đồng chí Bạch Thành Phong phấn khởi chờ đón.
Kia rồi, xe của Bác Hồ đã tới, theo sau là xe của đồng chí Phạm Kiệt, hai xe cùng dừng lại. Đồng chí Bạch Thành Phong vội chạy lại đón Bác. Bác từ từ rời xe, được đồng chí Kháng kèm bên. Bước vào tuổi bảy chín, Bác đã yếu mệt nhưng Bác vẫn tự mình đi không cho ai đỡ.
Buổi nay, Bác rất muốn trồng cây ở Vật Lại để kỷ niệm nơi Bác đã qua lại.
Hố cây đã đào. Cây đa đã được để sẵn. Đồng chí Bạch Thành Phong mời Bác lại trồng.
Hai thanh niên đặt cây đa xuống hố. Các đồng chí Bạch Thành Phong, Phạm Kiệt cùng sửa lại cây cho ngay ngắn. Bác xúc những xẻng đất đầu tiên, rồi cùng mọi người vun đất vào gốc đa. Khi đất đã được vun, dận, gọn gàng, đầy đặn, Bác tưới xô nước đầu, mọi người tưới nước thêm cho vừa đủ.
Cây được trồng xong, đồng chí Bạch Thành Phong mời Bác về nghỉ ngơi tại trụ sở Tỉnh uỷ Sơn Tây. Nhìn đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ Sơn Tây một cách trìu mến, Người nói: "Đã đi trồng cây trên đồi, lại còn về trụ sở Tỉnh uỷ nghỉ, thì thà về nhà Bác ở Đá Chông còn hay hơn". Ngừng một lát, Bác bảo: "Bác đã chuẩn bị thức ăn trưa rồi. Mời chú Phong, chú Kiệt cùng ăn với Bác, hay các chú đã có chuẩn bị rồi, thì mang luôn tới, ta cùng liên hoan. Các chú khác cùng tham gia cho vui".
Các đồng chí Bạch Thành Phong và Phạm Kiệt đều vui vẻ mang xôi, gà, hoa quả lại góp phần. Các thanh niên toan trải chiếu, Bác ngăn lại và bảo: "Trải báo lên cỏ rồi ta đặt thức ăn sẽ sạch sẽ hơn chiếu".
Mọi người vui vẻ quây quanh Bác, vừa ăn, vừa hưởng gió ấm của miền đồi núi, vừa đồng nội này.
Nhìn thôn Vật Lại một lát rồi Bác hỏi đồng chí Bạch Thành Phong:
- Mấy nhà giàu trong thôn trước đây, nay ra sao?
Đồng chí Bạch Thành Phong ngạc nhiên trước câu hỏi của Bác. Bác giải thích:
- Hồi đầu kháng chiến, mình chuyển từ Vạn Phúc lên Chùa Thầy, rồi qua Vật Lại tới cổ Tiết, mới lên Tân Trào. Ở nông thôn không dựa vào đình chùa, thì phải dựa vào các nhà giàu. Họ vừa có bàn ghế làm việc, có chỗ ngủ tốt, lại cho ăn...
Nói rồi Bác cười vui vẻ, nhìn đám thanh niên, nói:
- Hồi đó đâu có nới: dựa vào bần cố nông... Bây giờ nói lại, các chú sẽ phê phán Bác, là chọn nơi làm việc thiếu quan điểm lập trường...
Tất cả đều cười vang.
Bác ra hiệu, tiếng cười nói lắng dần, rồi Người hỏi đồng chí Bạch Thành Phong:
- Thế hồi cải cách ruộng đất, các gia đình ấy có bị đấu tố không?
Đồng chí Bạch Thành Phong như cố nhớ lại rồi nói:
- Các vị ấy tuy nhà giàu, lại là chức dịch cả, song đều tham gia ủng hộ kháng chiến. Khi địch chiếm, họ đều tản cư sang Phú Thọ. Bọn cường hào theo địch, chiếm hết tài sản của họ. Các con cháu của họ đều được học hành chu đáo nay đang công tác ở các cơ quan Nhà nước. Các vị ấy nay đã mất cả rồi ạ.
Bác im lặng một lát mới nói:
- Nhớ lại những ngày kháng chiến, ở đâu Bác cũng hoá trang, có ai biết Bác đâu. Song, cứ thấy cán bộ, bộ đội là dân hết lòng giúp đỡ. Giao cả nhà cửa cho mình. Có gì ngon cũng tặng. Đêm đêm, dân quân tuần tra là để tập dượt, nhà nhà mở cửa, có mất mát gì đâu! Cách sống đơn giản, trong sáng thực!
Cơm xong, thấy đồng chí Bạch Thành Phong có vẻ băn khoăn chỗ nghỉ trưa, Bác hiểu ý, liền bảo:
- Đã đi chơi đồi núi thì phải lấy trời làm màn, lấy đất làm chiếu. Đồi cỏ sạch thế này, ta nằm nghỉ ngay đây, có khoái không!
Nói xong, Bác cởi áo làm gối, nằm luôn xuống đồi cỏ và bảo đồng chí Phong, đồng chí Kiệt nằm gần để trò chuyện. Còn các cán bộ khác đều được anh Kháng bố trí ở xa, để Bác được hưởng sự tĩnh lặng của đồng quê.
Một lát, đồng chí Bạch Thành Phong bỗng nói lên suy nghĩ của mình:
- Thưa Bác! Mấy chục năm nữa, cây đa này lớn lên. Ai qua tránh nắng, tránh mưa là nhớ đến Bác. Còn các nhà văn, nhà thơ ngồi tựa gốc đa nhìn lên Ba Vì, Tam Đảo tha hồ mà sáng tác thơ văn, nhạc, hoạ...
Đồng chí Phạm Kiệt cũng hứng khởi:
- Cháu chỉ mơ ước miền Nam giải phóng, mời Bác về thăm Quảng Ngãi, Người trồng giữa thị xã một cây đa, xung quanh làm vườn trẻ để các cháu thiếu nhi vui chơi thì hay biết mấy.
- Ồ! Mấy chú này sắp thành nhà văn, nhà thơ cả rồi đó! Bác chỉ muốn ghi nhớ nơi nhân dân đã giúp đỡ, bảo vệ mình! À hai chú có biết thành Đa Bang ở đâu không? Có còn dấu tích gì không?
Cả hai đồng chí Bạch Thành Phong và Phạm Kiệt đều ngơ ngác nhìn nhau, Bác giải thích thêm:
- Trong cuộc kháng chiến của nhà Hồ chống Minh, được chuẩn bị kỹ. Lực lượng quân sự ta không kém địch là mấy. Phòng ngự được chia nhiều tuyến. Thuỷ quân lại rất mạnh. Thành Đa Bang là căn cứ lớn nằm gần ngã ba Bạch Hạc nghĩa là gần vùng này. Mất Đa Bang quân nhà Hồ tan rã từ đó. Nhà Hồ thay nhà Trần chính sách tiến bộ, kháng chiến chính nghĩa. Thế mà không được lòng dân. Kháng chiến thất bại, đó là bài học đắt giá.
Lúc này đồng chí Bạch Thành Phong, Phạm Kiệt mới hiểu rõ ý Bác Hồ, chưa biết trả lời Bác ra sao, thì Bác đã bảo:
- Thôi, ta nghỉ trưa...
Vừa nói xong, Người nhắm mắt, yên tĩnh, tiếng thở đều đều.
Mây Ba Vì bồng bềnh trôi. Ngọn Tam Đảo vẫn lửng lơ trong mây, xa xa mấy cánh ngỗng trời nhẹ nhàng bay về phương Bắc.
(Ghi theo lời kể của đông chí PHẠM KIỆT)