Hồ sâu, Tây để bùn lầy
Ta thương kính Bác ta xây dựng hồ.
Đã mấy năm rồi, hôm nay tôi mới có dịp về thăm những người bạn cũ của tôi đang làm công tác bảo vệ tại Chủ tịch phủ.
Thấy tôi, các đồng chí niềm nở chào đón và hỏi thăm chuyện biên phòng. Sau đó đồng chí đội trưởng cảnh vệ đưa tôi đi thăm vườn của Bác.
Khoảng vườn phía trước, vẫn những cây to bóng mát trước kia, nay có thêm từng hàng, từng hàng nhãn Hưng Yên đã tươi cành, xanh lá, hứa hẹn dăm năm nữa, mùa về sẽ cho hàng tấn quả ngọt.
Hai khu vườn phía sau nhà khách được Bác cho trồng cam Bố Hạ. Tuy không phải là đất trồng cam Bố Hạ nhưng nhờ có sự chăm bón, nên cam vẫn vươn lên, cành non mơn mởn.
Đồng chí đội trưởng chỉ cây cam to nhất và nói:
- Cây cam kia năm ngoái sai lắm! Quả to và khá ngon, không kém gì cam trồng trên đất chính của nó. Hồi phái đoàn quân sự Liên Xô tới thăm Bác, Người đã đưa ra xem vườn và Người bảo mỗi đồng chí hái lấy một quả. Nhưng các đồng chí bạn, vì trông cây cam đang trĩu quả, đẹp quá nên chẳng đồng chí nào nỡ đưa tay hái. Bác liền tự tay bứt cho mỗi người một quả. Các đồng chí bạn hứa sẽ đem về nước làm kỷ niệm. Bác lại lấy cho mỗi người một quả khác để thưởng thức hương vị cam ngay bên gốc của nó.
Thật là vườn cây, chậu cảnh ở đây chẳng những phục vụ sự giải trí của Người mà còn làm cho tình đoàn kết quốc tế thêm đậm đà ngon ngọt.
Nhìn những gốc cam, rặng nhãn cùng những cây ăn quả khác đang đua nhau vươn lên dưới sự chăm sóc của Bác, tôi bỗng nhớ tới ngày Bác mới về khu này - khu Phủ Toàn quyền cũ, một khu đất tốt, rộng ngót nửa cây số vuông mà trừ một số muỗm, nhãn, trồng từ trước, tụi Tây chẳng biết trồng lấy một cây ăn quả nào cả. Chúng trồng toàn cây có bóng mát. Bên dưới thì chỉ trồng một loại cỏ gianh ăn xác hết đất và mỗi ngày mất trên bốn mươi người làm vườn mà không xuể. Cả vườn sau, phía sát Bách Thảo, cỏ tốt như rừng, rắn rết ẩn nấp ở đó rất nhiều.
Năm ấy Bác đề ra cho chúng tôi: cuốc nhặt sạch cỏ, rồi trồng khoai, trồng rau để vừa cải thiện, vừa phục hồi đất. Nghe đâu khi Bác đề ra như vậy, có đồng chí thuộc vào loại giỏi về mỹ thuật trong việc xây dựng các công viên đã đề đạt lại:
- Phủ Chủ tịch trừ phía trước cửa, cửa sau trồng hoa ra, còn nên để cỏ hết. Trên cây, dưới cỏ hài hoà cùng ngôi nhà khách thành một bức tranh mỹ thuật. Nếu đem bỏ cỏ đi, trồng các thứ khác vào sẽ mất vẻ đẹp!
Nhưng ý Bác: mỗi người có một quan niệm về đẹp. Mỗi ngày mất bốn mươi người cắt xén cỏ, trong lúc mỗi tấc đất là một tấc vàng.
Lĩnh ý Bác, toàn đoàn chúng tôi cùng một số đồng chí trong cơ quan tới cuốc đất, nhặt cỏ ngót nửa tháng mới xong. Sau đó Sở ươm cây Hà Nội theo ý Bác trồng nên những rặng nhãn, vườn cam này.
Lúc mới trồng, nhãn còn nhỏ, cam trơ cành mới chiết đất phơi màu trắng xác, có người đã tiếc thảm cỏ cũ.
Nghĩ tới đây tôi bật cười hỏi đồng chí đội trưởng:
- Thế nào, bây giờ còn ai tiếc thảm cỏ không?
- Những tay tiếc thảm cỏ hồi ấy, bây giờ lại là những tay đang tính khi nào cam chín, nhãn sai, tới xin Bác một ít về cho cháu ấy chứ...
Tới khu hồ, nước hồ trước kia đặc sệt rêu xanh. Trên mặt nước từng đàn muỗi bay loạn xạ. Nay khu hồ đã xanh mát, gió khẽ vuốt là đã gợn lên từng đợt sóng nhè nhẹ, làm cho bầu trời dưới đáy hồ cũng xao động.
Bên những cây tùng, cây liễu soi bóng, những gốc dừa lá vươn cao. Quanh hồ, con đường nho nhỏ chạy theo một bức tường xanh bằng dâm bụt được cắt xén rất mỹ thuật. Chiếc cầu xi măng cũ bắc qua lạch nước, nối giữa hai hồ, nay được thay bằng chiếc cầu gỗ màu nâu hồng, uốn cong trên mặt nước. Bóng cầu dưới nước hắt lên làm cho khu hồ càng có cái đẹp dịu dàng đầy màu sắc quê hương.
Nhìn vào gốc dừa trổ lá dài tới ba, bốn thước tôi ngạc nhiên hỏi:
- Dừa trồng bao giờ mà tốt vậy?
- Bốn năm thôi nhưng Bác rất chăm bón nên tốt vậy.
Nói xong đồng chí đội trưởng như nghĩ ra điều gì, chợt hỏi tôi:
- Đồng chí nhớ 601 chứ?
- Quên sao được!
Câu hỏi của đồng chí đội trưởng đã gợi cho tôi nhớ lại những hình ảnh sâu sắc trong những ngày lao động bên Bác. Hồi ấy vào khoảng tháng tư năm một nghìn chín trăm năm mươi bảy. Chúng tôi theo sự hướng dẫn của đồng chí phụ trách cơ quan đã khẩn trương tát nước hồ, vét bùn lên phơi ải để bón cho cam và nhãn.
Sau ba ngày tát nước bắt cá, chúng tôi bắt đầu lấy bùn. Sáu dây chuyền người vừa sắp ra chuẩn bị vét chuyển bùn từ dưới đáy hồ lên, thì Bác đến.
Anh em reo mừng chào Người. Bác hỏi thăm công việc làm rồi nói chuyện với anh em. Tôi nhớ đại ý:
- Các chú làm việc giúp Bác, nhưng nó cũng là việc chung. Vì các khách của Nhà nước tới thăm Bác, cũng cần có phong cảnh hữu tình để đón họ.
Nói tới đây, Người ngừng lại một chút rồi tiếp:
- Đáng lẽ Bác cùng làm với các cô, các chú. Nhưng vì Bác bận nhiều việc Đảng, việc Chính phủ nên mỗi ngày Bác sẽ cùng các cô, các chú làm việc một giờ vào ban chiều. Có đồng ý không?
Chúng tôi chưa biết trả lời ra sao, thì một chiến sĩ đã thưa lại:
- Thưa Bác, chúng cháu xin làm nốt cả phần việc của Bác. Để Bác dành thời giờ ấy vào công việc chung cả nước...
Bác dặn thêm:
- Lao động thì phải hò hát mới vui. Đừng ngại ở đây gần nơi làm việc của Bác mà giữ im lặng, năng suất lao động sẽ kém đấy!
Sau khi Người về làm việc, chúng tôi bắt tay vào công việc rất say sưa.
Tiếng hò, tiếng hét vang lên. Có những câu hò anh em sáng tác:
Hồ sâu, Tây để bùn lầy
Ta thương kính Bác ta xây dựng hồ.
Hoặc:
Đất hồ ta đắp gốc cam,
Cam sai trĩu quả, hoa thơm bốn mùa.
....................................
....................................
Và đúng bốn giờ chiều hôm ấy, Bác gọn gàng trong bộ quần áo nâu, xuống hồ cùng mọi người chuyển đất.
Cứ vậy, suốt ba ngày vét bùn dưới đáy hồ, Bác đều tới cùng chúng tôi làm việc một giờ vào ban chiều.
Chiều ngày thứ ba, công việc nạo vét hồ đã xong, Bác cháu quây quần bên nhau. Bác hỏi:
- Bây giờ trời mưa xuống là có hồ nước trong rồi, vậy có cần làm thêm gì nữa không?
- Dạ, cần làm thêm con đường quanh hồ để chiều mát đi dạo ạ!
Tất cả đều đồng ý với ý kiến đó, Bác hỏi thêm:
- Có đường, phải có tên đường, các chú đặt hộ Bác!
Mỗi người một ý vẫn không chọn được tên nào vừa lòng. Cuối cùng Bác bảo:
- Các cô, các chú có sáu trăm người đều làm giúp Bác. Vậy nên đặt là "Con đường sáu trăm".
Đã có nhiều tiếng đồng ý. Chợt có một đồng chí nói:
- Thưa Bác còn cả Bác lao động nữa ạ!
Bác cười nói:
- Ừ phải, thế thì đặt tên là "Con đường sáu trăm linh một" vậy.
- Đồng ý ạ! - Tất cả chúng tôi reo ầm lên. Bác cháu cùng sung sướng với cái tên đơn giản ấy. Cái tên tuy có vẻ con số, nhưng nó lại nói lên hình ảnh chúng tôi cùng với Bác lao động mấy ngày qua.
Bác lại hỏi:
- Ven theo con đường nên trồng gì?
Hoa ạ!
- Nên trồng hoa gì?
- Huệ ạ, nó có hương thơm, bông lại trắng trông rất tinh khiết.
- Hoa hồng có nhiều màu sắc, trông vui mắt hơn ạ.
- Để chúng cháu ra bàn với Sở ươm cây Hà Nội chắc sẽ có những thứ hoa dẹp.
Chờ cho những ý kiến tham gia đã dịu đi, Bác mới nhẹ nhàng nói:
- Nên trồng hoa dâm bụt, quanh năm xanh tốt, khi có hoa trông cũng đẹp, mà dễ kiếm, dễ trồng.
Nhiều anh em chưa được biết những ngôi nhà hồi kháng chiến của Bác đã trồng nhiều dâm bụt xung quanh, nên khi nghe Bác nói đều rất ngơ ngác, không sao hiểu được ý nghĩa của lời Bác vừa nói.
Nhưng chúng tôi đã rõ được phần nào nên vâng lời Bác ngay.
Bác còn dặn thêm:
- Mai chủ nhật, mỗi cô, mỗi chú ra ngoại thành chơi, nên xin lấy mỗi người dăm cành dâm bụt. Chiều về Bác với các cô, các chú ta cùng trồng là xong.
Giàn dâm bụt được trồng. Chúng tôi còn theo ý Bác làm một chiếc cầu tre để ngồi câu cá.
Giàn dâm bụt quanh hồ nay đã xanh tốt, được cắt xén như một bức tường xanh soi bóng xuống mặt nước.
Một đàn cá nổi lên rồi lại lặn xuống. Đồng chí đội trưởng như chợt nhớ ra, bảo tôi:
- Cá quen ăn rồi, cứ thấy bóng người là nổi lên đòi ăn đấy.
Rồi đồng chí đó chạy đi lấy thức ăn ném xuống cho cá. Hàng đàn cá nổi lên tranh nhau mồi. Những con cá gáy, cá mè tinh khôn chỉ nổi lên cái đầu. Còn cá rô phi thì tíu tít tranh nhau quẫy lộn.
Tôi báo đồng chí đội trưởng:
- Giá là cá vàng, cá bạc thì trông còn đẹp nữa.
Hồ cá này cứ đến những ngày như Tết nguyên đán, Tết quân đội, Tết lao động là Bác gọi cơ quan, cảnh vệ đến cho mỗi cô, mỗi chú một con. Ngay cả khi đi xa, Người cũng không quên dặn chia cá ăn Tết... Anh nhớ hôm ấy mà về nhận phần cá nhé!
Chúng tôi cùng cười dắt tay nhau dạo theo "Con đường sáu trăm linh một".
Tháng 3-1963