Chiều ba mươi Tết âm lịch (đầu năm 1956) chúng tôi nhận được nhiệm vụ bảo vệ Bác đi thăm Tết. Thực là một niềm vui, được xuất hành theo Bác. Đường đi có dịp trở lại những địa điểm của các trận đánh trong chiến dịch Trung du trước kia mà đôi khi tôi thường hay nhớ lại.
Đúng năm giờ sáng, đội xe bảo vệ của chúng tôi xuất hành trước. Bác còn chúc Tết các đại biểu ở Mặt trận Tổ quốc vào sáu giờ sáng, sau đó mới đi Việt Trì.
Xe chúng tôi tới giữa cầu Long Biên thì chân trời phía đông đã ánh lên màu hồng báo hiệu ngày đầu xuân đẹp trời. Tiếng pháo mừng xuân của Hà Nội, Gia Lâm nổ dài. Xe lướt nhanh qua cầu Long Biên, cầu Đuống. Đây rồi, Cổ Loa - Thủ đô cũ của nước Đại Việt đã hiện ra trước mắt. Từ trong những luỹ tre xanh, bóng cờ, bóng nêu như những bông hoa đỏ thắm. Chặng đường Đông Anh - Phù Lỗ hai bên đường lô cốt các kiểu, xác xe tăng, xe bọc thép còn rải rác dọc đường. Dây thép gai còn từng quãng chưa gỡ xong.
Xe chúng tôi đến thị xã Vĩnh Yên vừa tám giờ sáng. Nắng trải rộng trên vùng trung du bát ngát. Kia rồi núi Đanh, nơi diễn ra trận đánh anh hùng giữa Trung đoàn 209 với binh đoàn số một của quân đội xâm lược Pháp và giải đồi Thiện Kế nằm vắt ngang trên đường Vĩnh Yên -Tam Đảo, nơi trung đoàn 141 đã cầm cự với giặc suốt ba ngày, chịu đựng những đợt pháo tập trung đầu tiên trong tháng 1-1951, những trận pháo mà tên đại tướng Đờ-lát-đờ-tát-xi-nhi bắt đầu áp dụng ở chiến trường Đông Dương.
Nghĩa trang liệt sĩ sáng ngời gần thị xã, nhìn nghĩa trang chúng tôi bùi ngùi - Các đồng chí thân yêu ơi! Các đồng chí có biết hôm nay Bác đi thăm Tết qua đây không? Các đồng chí hãy cùng chúng tôi làm nhiệm vụ nhé!
Chúng tôi tới công trường cầu Việt Trì gần chín giờ. Mùa mưa xuân kéo bầu trời thấp hẳn xuống. Cánh đồng mặt sông, đồi núi nằm trong một màn mưa mỏng. Mồng một Tết, công trường vẫn có bộ phận làm việc. Cầu đã lao được hai nhịp. Phà qua sông vẫn nổ máy. Đồng chí chỉ huy trưởng công trường và một số cán bộ đã chờ đón khách trước công trường.
Chúng tôi thống nhất kế hoạch, rồi phân công anh em thay nhau các vị trí gác, để các anh em bảo vệ công trường được tập trung đón Bác.
Khoảng gần mười giờ, mưa tạnh. Nắng trên khoảng trời Bạch Hạc, gió ấm từ Đông Nam thổi lại. Cánh đồng, dòng sông, đồi núi bừng lên đón nắng. Công trường ngân vang tiếng reo vui. Đồng chí chỉ huy trưởng công trường đưa các đại biểu ra mặt đường đón Bác.
Tiếng còi báo hiệu xe Bác đã tới. Đoàn xe dừng lại, cửa xe mở, Bác bước ra, dáng rất nhanh và chủ động. Người bắt tay đồng chí chỉ huy trưởng và một số đại biểu và chuyên gia bạn rồi đi lại ngay đầu cầu. Vừa đi Người vừa hỏi chuyện về công việc của công trường, tình hình làm cầu. Đứng ở đầu cầu, Bác có thể thấy toàn bộ công trường và các trụ cầu đã xây xong hai nhịp cầu vừa lao.
Nghe giới thiệu xong, Bác đi lại mé cầu, đứng lên chỗ cao hơn, Người nhìn ra xa phía núi Hùng vươn lên xanh thẳm và lớp lớp những dãy đồi nhỏ bao quanh, như hàng trăm con voi qui về núi chúa.
Dải Tam Đảo, Ba Vì được mây quấn quanh chỉ còn nhô những chỏm núi hệt như những Hồn đảo ngoài khơi xa. Sông Lô trong xanh, nước trôi nhè nhẹ về hợp cùng sông Đà, sông Thao tạo nên ngã ba Bạch Hạc, và đồng bằng mở ra từ đấy. Toàn bộ công trường cầu Việt Trì dựng theo ven sông. Hội trường ở một khu đất cao phía bắc công trường.
Trước hình tượng vô cùng đẹp này, anh Đinh Đăng Định, nhà nhiếp ảnh có tiếng, thích quá mở máy ảnh sẵn nhưng vì Bác quay lưng lại nên không sao chụp được, đành đứng chờ dịp tốt. Đồng chí chỉ huy trưởng công trường tranh thủ báo cáo tiếp về kết quả bước đầu của công trường. Tôi không ngờ để giải phóng lòng sông, bảo đảm tốt cho việc xây trụ cầu, các đồng chí công nhân của chúng ta đã trục, vớt lên được hàng chục các loại ca nô, xe vận tải, xe bọc thép, hàng chục tấn đạn dược và nhiều loại súng của giặc do chúng rút lui vứt lại, hoặc bị ta đánh đắm trong cuộc chiến tranh chống Pháp vừa qua. Chúng ta cũng đã trục vớt hàng trăm tấn sắt của cầu cũ bị chìm sâu trong đất cát phù sa. Chính qua lao động mà ta vừa làm vừa học, đã đào tạo được nhiều cán bộ, công nhân có tay nghề...
Bác vừa nghe báo cáo vừa rảo bước đi về phía hội trường của công trường. Thế là anh Đinh Đãng Định lỡ mất thời cơ chụp một bức ảnh mà anh rất muốn. Anh vội đề nghị Bác đứng lại để anh chụp. Bác- bật cười bảo:
- Việc chú, chú cứ làm đi, Bác có đi chụp ảnh đâu!
- Nói xong Bác rảo bước đi ngay. Anh Đinh Đăng Định đành xách máy chạy theo.
Hội trường tuy làm tạm thời, nhưng trang hoàng khá đẹp. Có thể ngồi được khoảng năm trăm người. Hôm nay chật ních người, hàng chính giữa là các cán bộ công nhân Việt Nam. Phía tay phải là cán bộ công nhàn bạn đang giúp ta xây dựng cầu. Phía trái là bộ đội công binh, bộ đội bảo vệ cầu cùng các công nhàn nguyên trước là hàng binh người Âu Phi, số có kỹ thuật xin tình nguyện ra làm việc.
Bác vừa bước vào hôi trường thì mọi người bật dậy, tiếng vỗ tay và tiếng hô: Hồ Chủ tịch muôn năm, bằng nhiều thứ tiếng nổi lên vang dội.
Bác không đi lại bàn nói chuyện, Người bước lên sân khấu để những người phía sau hội trường đều nhìn thấy rõ Bác. Tiếng hô, tiếng vỗ tay lại nổi lên. Bác khoát tay, hội trường dần dần trật tự trở lại. Chờ mọi người ổn định, Bác hỏi:
- Các cô, các chú khỏe cả?
- Dạ khỏe ạ!
- Ăn Tết có vui không?
- Dạ vui ạ!
- Mỗi người được mấy bánh chưng?
- Dạ hai ạ!
- Tốt lắm! Hoàn cảnh chúng ta còn gặp nhiều khó khăn. Các cô, các chú tổ chức được như vậy là cố gắng đấy!
Sau những lời hỏi của Bác và trả lời gần như đồng thanh của mọi người với Bác, tự nhiên không khí giữa lãnh tụ và quần chúng chan hoà gắn bó. Bác vui vẻ nói:
- Nhân dịp Tết nguyên đán, Bác thay mặt Đảng, Chính phủ tới thăm công trường của các cô, các chú - Những công nhân đang làm việc không kể ngày đêm xây dựng lại cầu Việt Trì.
Bác ngừng lại, các đồng chí phiên dịch lần lượt dịch sang tiếng Pháp. Có lẽ vì quá xúc động mà có từ, các đồng chí diễn đạt không trọn ý, Bác phải sửa lại, mỗi lần Bác sửa thì cả hội trường lại bật cười. Bác liền bảo các đồng chí phiên dịch:
- Thôi, để khi nào- Bác làm nhiệm vụ ngoại giao thì các chú hãy phiên dịch. Còn giờ là nội giao, Bác sẽ tự phiên dịch lấy cho tiện.
Tiếng vỗ tay lại vang lên. Một không khí cảm động hồ hởi ở mọi người.
Bác nói chuyện với công nhân Việt Nam trước, rồi người tự dịch vắn tắt sang tiếng Pháp - Bác nói:
... Trong kháng chiến, nhiệm vụ của cả nước là đánh giặc cứu nước, nay đế quốc Pháp đã thua. Phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ. Nửa nước đã giành được độc lập. Nửa nước còn bị bè lũ đế quốc và tay sai chiếm đóng. Trách nhiệm của Đảng ta, của giai cấp công nhân, của nhân dân Việt Nam lúc này rất nặng nề, vừa xây dựng lại đất nước ở miền Bắc, vừa chi viện cho cuộc đấu tranh của quần chúng ở miền Nam. Muốn làm được nhiệm vụ trên, phải khôi phục lại nền kinh tế bị tàn phá trong chiến tranh, phải tiếp tục giải phóng nông dân khỏi sự áp bức bóc lột của giai cấp địa chủ... Cả hội trường lắng nghe lời Bác, cả khi Người dịch sang tiếng Pháp. Sau khi nói về nhiệm vụ chung của cả nước, Bác nhắc nhở nhiệm vụ cụ thể của cán bộ công nhân công trường:
... Các cô, các chú phải ra sức làm việc để góp sức mình vào việc xây dựng lại đất nước. Phải ra sức vừa làm, vừa học, tự đúc rút kinh nghiệm, học hết thẩy mọi người - Ai có gì hay ta học. Khi áp dụng phải sáng tạo. Chúng ta phải biến công trường thành trường học. Để sau này còn biết bao dòng sông của đất nước đón chờ chúng ta. Muốn làm việc được tốt, học tập được tốt, phải biết đoàn kết, biết phê bình và tự phê bình...
Cuối cùng Bác nhắc:
- Trong lao động sản xuất phải cảnh giác, vì bọn đế quốc và tay sai của chúng không bao giờ muốn chúng ta mạnh lên, có một đời sống ấm no. Chúng ta cũng không thể sớm chiều quét sạch kẻ địch mà chúng cài lại. Làm được chiếc cầu này, chúng ta phải bỏ bao tiền của, sức người và năm tháng lao động. Nhưng phá nó thì dễ. Xong kẻ địch làm được hay không là do ta.
Tới đây, Bác chuyển sang nói chuyện cùng công nhân Âu Phi. Người nói chuyện bằng tiếng Pháp. Các công nhân Âu Phi đứng cả dậy, nhiều người chảy nước mắt, tay nắm chặt thành bàn:
- ... Các bạn trước đây vì nhiều lẽ mà trở thành lính đánh thuê cho đế quốc Pháp. Có nhiều bạn đã nhận ra lẽ phải, chạy sang hàng ngũ nhân dân Việt Nam. Đó là điều đáng hoan nghênh. Trong chiến đấu các bạn đã cùng nhân dân Việt Nam chung một chiến hào. Nay trong hoà bình lại cùng nhau lao động đó là điều đáng quý. Chúng ta còn nhiều khó khăn, song Nhà nước và nhân dân Việt Nam cũng rất lưu ý tới các bạn. Rồi đây khi có điều kiện, nhân dân Việt Nam sẽ tìm mọi cách giúp các bạn thực hiện nguyện vọng trở về đất nước quê hương của mình. Bạn nào yêu mến Việt Nam muốn ở lại cũng được tuỳ ý…
Khi Bác nói, các công nhân dù là người Pháp, An-giê-ri, Tuy-ni-di hay Ma-rốc, Ấn hay Ma-đa-gát-ca, đều đứng lặng, nhiều người cúi đầu. Bác nói tiếng Pháp bằng một âm thanh ấm ngân vang.
Kết thúc buổi nói chuyện, Bác bắt nhịp khúc hát kết đoàn. Đôi tay Bác vừa hạ xuống - Tiếng hát ngân lên. Cái điệu nhạc dân ca từ bên dòng Hoàng Hà kia, nhưng ở đó nó làm sao có sức sống nổi, nhưng nó lại được phổ cập sâu rộng ở Việt Nam, do người nhạc trưởng tuyệt vời là Bác bắt nhịp - Và nhịp hát ấy lại được cất lên bên dòng sông Lô - Trong công trường Việt Trì thì làm sao mà mỗi con người hát chẳng say sưa, tiếng hát thực sự từ trái tim.
Bác rời hội trường. Cán bộ công nhân hội trường ngồi lại để tiếp tục chương trình. Bác vừa đi vừa căn dặn thêm đồng chí chỉ huy trưởng về cách làm việc sao có năng suất cao, phải đề phòng tai nạn lao động, vì sông sâu, nước chảy xiết, công việc lao động nặng kỹ thuật đòi hỏi tính chính xác cao v.v...
Rời khỏi công trường, chúng tôi nghe vang vang bên tiếng máy nổ, tiếng động cơ phà. Công trường lao vào làm việc ngay giữa ngày mồng một Tết.
*
Đoàn xe về gần tới thị xã Vĩnh Yên thì rẽ tay phải. Xe đi chậm trên con đường đất cũ. Thôn xóm nơi đây đã phải chống càn quét ác liệt nhiều lần. Hố bom lớn nhỏ còn rải rác quanh làng. Những cây cổ thụ và các luỹ tre không còn. Các mái nhà đều mới dựng lại, chỉ có ba gian, hoặc một gian hai chái. Mái rạ vừa lợp lại còn vàng nguyên và lờm sờm gốc rạ. Đầu thôn, góc vườn đây đó những nhánh tre vừa vươn lên, buông lá xanh như những cánh tay gầy đang ve vuốt những mái ấm vừa nhen.
Các vườn quanh nhà xanh rờn các loại rau cải, hành, xu hào, và những gốc chuối đã vươn ba, bốn lá. Đoàn xe dừng lại ở đầu thôn. Một số bà con đi chúc Tết thấy đoàn xe, tò mò dừng lại xem. Chợt thấy Bác đi vào trong thôn - Những người già ngẩn người, bàng hoàng như không tin vào mắt mình. Mấy em nhỏ trong những chiếc áo hoa tươi sáng, ríu rít chạy ra. Chúng nhận ra Bác rất nhanh và cùng nhau reo lên:
- Bác, Bác Hồ về làng ta.
Một số em chạy lại gần Bác và đi theo đoàn, người lớn cuống quít giữ các em lại. Bác nhắc:
- Các cháu hãy tập trung lại trước, Bác sẽ lại thăm.
Các cháu sung sướng đi tìm nhau để họp lại đón Bác. Bác lướt thăm một số gia đình. Người dừng lại một ngôi nhà nhỏ. Trong nhà có chiếc bàn cao, dùng làm bàn thờ, có hai chiếc giường ở hai gian bên. Bảng vàng danh dự sáng ngời bên vách gian giữa. Bà chủ nhà thấy khách đông vào chúc Tết, vội ra đón. Thấy Bác, bà chững người lại rồi cố gắng mãi, bỗng bật lên lời: "Bác ạ, cháu lạy Bác". Bác cười, cầm tay bảo:
- Chúng tôi tới chúc Tết bà mẹ chiến sĩ. Sao bà lại chào thế?
Bà mẹ chiến sĩ cũng nhận ra lời chào buồn cười của mình, bà chữa:
- Chúng cháu quen chào các cụ già trong làng, xin lỗi Bác. Xin mời Bác vào thăm nhà cháu.
Bác bước lên hè nhà, rồi ghé ngồi ngay trên ngưỡng cửa hỏi chuyện làm ăn, sản xuất của các tổ, đội đổi công của thôn xóm và của gia đình. Nhân dân trong thôn hay tin Bác về cùng kéo lại. Các cháu cũng tập hợp ở sân nhà bên. Bác liền lấy kẹo ra chia cho các cháu. Các cháu sung sướng được Bác tận tay chia kẹo, đứa bạo tay thì cầm, miệng nói: Cháu xin Bác. Đứa nhát thì kéo tay mẹ cầm hộ.
Chia kẹo cho các cháu rồi, Bác bảo bà con quây lại quanh Người. Bác hỏi chuyện về ăn Tết, về tình hình địa phương. Nhân dân kể lại những chuyện đã qua. Cuối buổi nói chuyện Bác hỏi:
- Chúng ta đã đánh thắng giặc Pháp, đánh đổ bọn địa chủ, giành ruộng đất về tay. Vậy còn cần làm gì nữa?
Bà con đưa mắt nhìn nhau, có người mạnh dạn trả lời:
- Thưa Bác, bây giờ thì thật là yên tâm làm ăn rồi. Chỉ cần làm sao cho thật khỏe. Sao cho có nhiều gạo, nhiều thịt thôi ạ.
Có người khác bổ sung:
- Thưa Bác, còn phải đề phòng bọn địa chủ ngóc đầu dậy. Bọn tề ngụy cũ ngoan cố không chịu cải tạo ạ!
Lắng nghe ý kiến mọi người, Bác bảo:
- Bà con mỗi người một ý hợp lại đều hay, nhưng ta phải thấy bọn đế quốc còn chiếm đóng nửa nước ta. Chúng đang cùng bè lũ tay sai đàn áp, khủng bố đồng bào ta. Chúng ta phải nghĩ cách sao quét sạch chúng nó đi, để đồng bào miền Nam cũng có những ngày Tết thực sự tự do hạnh phúc.
Nghe Bác nói, bà con nhận ra cái lẽ đơn giản bấy lâu vẫn canh cánh bên lòng, nhưng khi Bác hỏi lại quên không nói ra được. Bác nói tiếp:
- Để làm ăn tốt hơn, bà con ta phải biết cách tổ chức nhau lại. Đánh giặc phải tổ chức giỏi mới thắng. Thì chống giặc đói, giặc dốt, xây dựng làng, xã ấm no, giàu có càng phải biết tổ chức, tổ chức giỏi chúng ta mới thắng được thiên tai, bắt đất làm ra của cải để nuôi ta.
Bác nhìn ra cánh đồng và những giải đồi trọc xa xa, Người chậm rãi nói với các cụ già:
- Xóm làng, núi đồi của ta, trước kia sầm uất cây cối xanh tươi, bây giờ giặc nó phá đi cả. Vậy giặc phá thì ta xây, ta trồng lại. Đất không những nuôi ta, mà còn phải giúp ta làm lại nhà cửa, trường học có phải không các cụ?
Như được một tia sáng chỉ đường, các cụ đều đồng thanh thưa:
- Phải ạ, Bác dạy chí phải ạ.
Bác thân mật nói tiếp:
- Nhân ngày xuân ấm áp này, cứ mỗi Tết, các cụ hướng dẫn con cháu trồng vài ba cây chăm sóc cho tốt, thì ta sẽ tạo ra một phong tục mới - Tết trồng cây. Cứ như vậy qua mươi mùa xuân thì xóm thôn, đồng ruộng, đường xá, đồi núi sẽ thắm màu xanh. Thôn xóm sẽ có nhiều nhà cửa khang trang.
Nét mặt của bà con tươi hẳn lên trước bức tranh mà Bác vừa phác hoạ. Và khi Bác chia tay bà con ra về, mọi người như chợt nhớ ra điều gì. Có người than thở:
- Chết, chưa kịp hứa với Bác điều gì!
- Bác về thăm, mà không có quà tặng Bác!
Bác nghe tiếng, Người dừng lại nói:
- Bà con hãy làm tốt những điều vừa bàn là lời hứa và quà tặng tốt nhất đấy.
Bác lên xe, mọi người lưu luyến đi theo hai bên. Chợt chiếc xe thứ ba của đoàn bị trượt bánh lao xuống ruộng cày ải không sao lên được, trong xe có mấy cán bộ, vừa mở cửa xe ra chưa biết tính sao, bà con đã reo ầm lên, mỗi người một tay nhấc phăng lên đường cái. Các nhà báo vừa mừng, vừa bật cười bảo nhau:
- Ý Bác, lòng dân có một sức mạnh phi thường!
Đoàn xe về gần tới thị xã Vĩnh Yên thì trời mưa nặng hạt. Bác cho dừng lại nghỉ ăn trưa. Mọi người đều đã chuẩn bị sẵn, nên ngồi ngay vào trong xe. Các xe đều đóng kín cửa để tránh mưa. Nhìn qua khung kính, đất trời trong một màn trắng mỏng. Anh Chiến khoác áo đi mưa, đi lại các xe, phân bánh chưng, chuối, cam của Bác cho mọi người. Anh nói:
- Bác bảo trời mưa, các chú chịu khó chỗ nào ngồi chỗ ấy không liên hoan chung được. Nhưng mưa thế này thì tốt khoai, tốt lúa. Chúng ta xuất hành như thế này là được may đấy.
Nghe Bác nói, chúng tôi nhớ lại Tết năm ngoái cũng ngày mồng một (Tết âm lịch 1955) Bác đi thăm công trường sửa lại đập nước sông Cầu - Đập Thác Huống - Nghỉ ăn trưa ở một ngọn đồi thông, thuộc huyện Phổ Yên, rất đẹp. Bữa nay ngồi trong ồ tô chật hẹp, nhưng Bác lại nghĩ ngay tới thuận lợi - Mưa xuân nặng hạt sẽ tốt khoai tốt lúa. Trong khi ăn, một đồng chí kể:
- Sáng nay, khi xe tới gần cầu Phù Lỗ, Bác nhìn thấy các dân quân nam nữ cầm ngang súng đứng gác trên nóc lô cốt Boong-ke, Bác rất vui bảo: "Các chú xem nhân dân ta nắm chính quyền có vững không". Câu chuyện làm ai cũng thú vị. Vừa hay, mưa ngừng, đoàn xe chuyển bánh về Hà Nội.
Chặng đường chúng tôi lưu ý ngắm các anh chị em du kích cầm súng gác bên cầu, trên nóc các lô cốt, cảnh bóng cờ đỏ sao vàng quả là đẹp thực, nhất là những lô cốt Boong-ke nào có nòng đại bác chĩa ra. Trên nóc lô cốt một nữ dân quân quần đen xắn ngang bắp chân, khăn vuông trùm trên đầu, trông càng có một vẻ đẹp mà chỉ có cháu chắt Bà Trưng, Bà Triệu mới có được.
*
Đoàn xe qua gầm cầu Đuống, rẽ theo đê sông Đuống rồi bắt vào đê sông Hồng. Đèn điện Gia Lâm, Hà Nội đã sáng. Chúng tôi xem giờ đã mười tám giờ.
Đoàn xe rẽ vào một cơ quan có cổng chào khá đẹp. Trường bổ túc văn hoá cho các cán bộ, chiến sĩ miền Nam. Đoàn xe dừng lại trước cổng trường. Ban giám đốc và một số cán bộ nhà trường thấy đoàn vào liền tới đón. Khi thấy Bác mọi người rất xúc động. Bác hỏi ngay:
- Bác tới thăm Tết nhà trường. Các cô, các chú đang làm gì?
- Dạ, toàn trường đang chuẩn bị liên hoan ạ.
Bác liền cầm tay đồng chí giám đốc đi ngay vào trong hội trường. Thấy Bác, cả hội trường bật dậy. Tiếng vỗ tay, tiếng hô vang dậy. Bắt tay một số anh chị em, xoa đầu các cháu đứng gần, rồi ra hiệu cho mọi người ngồi xuống ghế, khi trật tự đã ổn định, Bác hỏi:
- Các cô, các chú tổ chức Tết có tốt không?
- Dạ tốt ạ.
- Có cô chú nào không quen lạnh, bị cảm trong ngày Tết không?
- Dạ không ạ.
Bác hỏi và từ từ nhìn khắp hội trường. Mọi người nhìn Bác, nhiều đồng chí từ lâu ước mơ được gặp Bác, nhất là từ khi tập kết ra Bắc lại ở gần Hà Nội, nhưng nay mới được gặp, cố nghển cao đầu để ngắm nhìn Bác.
Hiểu rõ tâm tình của mọi người, nên trong bài nói chuyện Bác đã chỉ rõ con đường tất yếu: Pháp sẽ giải tán Bộ tư lệnh viễn chinh Đông Dương, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm sẽ thay chân đế quốc Pháp và bù nhìn Bảo Đại. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta, nhất là đồng bào miền Nam sẽ trải qua nhiều gian khổ. Để thực hiện tốt cho nhiệm vụ cách mạng mới, trách nhiệm nhà trường là phải bổ túc văn hoá cho được nhiều cán bộ, phải thật lưu ý anh chị em cán bộ dân tộc, để đáp ứng yêu cầu cách mạng của hai miền. Nhà trường cần phải lưu ý các anh chị em học tập yếu để sao tiến kịp anh chị em nói chung. Sau đó Bác hướng về phía các anh chị em phục vụ của nhà trường căn dặn:
- Cùng tập kết ra Bắc, có cô chú được học tập chính trị, văn hoá hay học nghề. Có cô chú lại được phân công phục vụ ngay trong các trường đó. Có cô chú thông suốt, có cô chú chưa thông, Bác có một câu chuyện, kể các cô chú nghe.
Bác móc túi lấy chiếc đồng hồ quả quít ra giơ cho mọi người xem, rồi Bác từ từ kể:
- Chiếc đồng hồ của Bác nó cũng giống như mọi đồng hồ khác chạy rất đúng giờ, giúp Bác đã nhiều năm. Bỗng một hôm những chiếc kim kêu lên: - Tôi chạy lâu ngày mệt quả, xin cho đứng lại nghỉ một chút, để hàng chữ số đứng nghỉ lâu ngày hãy chạy giúp. Bộ phận máy móc ở trong cũng than thở: Làm việc mệt nhọc, không ai biết đến, xin cho ra ngoài để ai nấy đều nhìn thấy. Chiếc vỏ cũng xin phép lần vào trong vì ở ngoài phải chống đỡ nóng lạnh, sương gió nhiều bề...
Bác nói tới đây mọi người như đã hiểu ra, có nhiều tiếng cười. Bác ngừng kể chuyện và nói:
- Các cô chú hãy phân xử giúp Bác.
- Thưa Bác, nếu làm theo yêu cầu của các bộ phận đồng hồ thì sẽ không còn là đồng hồ nữa ạ.
Bác cháu cùng cười. Cả hội trường vang lên tiếng vỗ tay tán thưởng.
Các cháu lúc này mới có dịp mang hoa lên tặng Bác. Bác đỡ lấy, trao tặng lại đồng chí giám đốc nhà trường. Và khi tràng pháo Tết của nhà trường nổ vang cũng là lúc xe chuyển bánh, đưa Bác về Hà Nội.
Khi xe về tới Phủ Chủ tịch, kim đồng hồ chỉ đúng tám giờ tối.
Một đồng chí cảnh vệ lẩm nhẩm: Cơm chiều mồng một Tết của Bác muộn quá.
Bác đi chúc Tết khắp nơi, nhưng chưa ai kịp chúc Tết Bác.