Sau khi đã chỉ dẫn và động viên các cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn Bông Lau trở lại xây dựng Điện Biên xong, Bác liền bắt nhịp cho toàn thể hát bài "Giải phóng Điện Biên" (Bác thường bắt nhịp cho bài hát Đoàn kết. Ở đây, lần đầu tôi thấy Bác cho hát bài hát này).
Tiếng ca cất lên từ hàng trăm lồng ngực, vang xa tưởng đến tận lớp lớp núi đồi Hưng Hoá.
Trong lúc mọi người đang say sưa với bản đồng ca, Bác vui vẻ rời khỏi hội trường ra thăm doanh trại. Nhìn những dãy nhà cửa thẳng tấp, mái tranh vàng đậm, đường sá lượn quanh các ngọn đồi kế tiếp nhau, Bác rất bằng lòng. Người căn dặn đồng chí chính uỷ Sư đoàn:
- Cần bàn giao chu đáo để địa phương có thể dùng làm trụ sở cơ quan, trường học cho các cháu.
Nhân lúc Bác vui vẻ, các đồng chí trong Bộ Tư lệnh liền mời Bác ở lại xơi cơm. Bác chưa trả lời, Người bảo đồng chí chính uỷ đưa sang thăm các đồng chí anh nuôi.
Mới đến gần bếp, mùi xào nấu đã bay ra thơm phức. Từng chồng bát đĩa men trắng lấp lánh trước sân.
Bác cười, bảo: "Cỗ to đấy!".
Vừa thoáng thấy Bác đến, các đồng chí anh nuôi đã chạy ra đón. Người vui vẻ hỏi ngay:
- Cỗ có mấy món, các chú?
- Thưa Bác, có sáu món ạ!
- Những món gì?
- Dạ, có gà quay, thịt heo rừng...
Đồng chí chính uỷ hơi đỏ mặt, đưa mắt ra hiệu.
Đồng chí tiểu đội trưởng cấp dưỡng chợt hiểu ý, dừng lại.
- Còn những món gì nữa? - Bác giục trả lời.
- Dạ... còn món rau và canh nữa ạ!
Bác cười, rồi thân mật bảo các đồng chí anh nuôi:
- Bác cảm ơn các chú đã săn sóc Bác, nhưng vì Bác bận nhiều việc nên để khi nào xây dựng Điện Biên thắng lợi, Bác sẽ tới liên hoan với các chú.
Bác bắt tay đồng chí tiểu đội trưởng và vẫy chào anh em, rồi Bác trở về phía ô-tô đang đợi.
Một đồng chí anh nuôi kêu lên:
- Chúng cháu thức suốt đêm qua để chuẩn bị đón Bác, nếu Bác không ở lại xơi cơm với chúng cháu được, xin Bác nhận cho chúng cháu một chút quà.
Mấy anh em khác, không đợi Bác trả lời, mang ngay thịt rừng, chuối đặt vào xe. Bác ra hiệu ngăn lại nhưng không kịp. Người nói đùa với đồng chí chính uỷ:
- Thế là Bác vừa được nói, lại vừa được gói lấy phần.
*
Nhân lúc Bác đang dặn dò thêm đồng chí chính uỷ Sư đoàn, đồng chí đội trưởng cảnh vệ khẽ nhắc tôi:
- Bác dặn đồng chí đi trước tìm chỗ nào "sơn thuỷ hữu tình" thì chuẩn bị ăn cơm trưa ở đó - Nói tới đây, đồng chí bỗng ngừng lại, vẻ suy nghĩ rồi hạ giọng thầm thì - Từ đây về Hà Nội chỉ độ một giờ, đồng chí cứ liệu xem... Nếu không có chỗ nào thuận tiện thì ta về thẳng nhà là tốt nhất!
Tôi lên xe.
Chiếc xe nổ máy, lượn trên những chặng đường quanh co theo ven sườn đồi, rồi lướt nhanh qua thị trấn Hưng Hoá. Thị trấn Hưng Hoá lúc này, trừ vài quãng đường nhựa, năm ba gian nhà mới dựng còn đều là những đống gạch vụn ngợp trong rừng chuối. Giữa những khu rừng chuối đó, ngôi nhà thờ lớn đứng chơ vơ, phơi ra những chỗ mái sập, tường vỡ như tố cáo tội ác của giặc Pháp ở bót Trung Hà trước kia đã không từ cả Chúa..
Qua bến Trung Hà, tôi bắt đầu tìm nơi "sơn thuỷ hữu tình" như lời Bác dặn.
Cảnh chung thì đẹp: ven theo sông Đà suốt từ Trung Hà tới dãy Tản Viên, đồi núi thoai thoải. Dãy "Năm Voi" như một đàn voi theo nhau đủng đỉnh đi về phía núi Tản. Phía sông Hồng, từ Trung Hà trở xuống, bóng tre xanh đang vươn lên trùm lấy những mái rạ vàng vừa được dựng lên sau chiến tranh. Ven đường, gió vờn những cánh đồng ngô, lúa tạo thành những lớp sóng xanh từ chân trời xô lại.
Cảnh là vậy, nhưng tìm cho ra một nơi "sơn thuỷ hữu tình" nào gần đường, bảo đảm yên tĩnh để Bác nghỉ trưa thì thật là khó! Chỉ còn cách Sơn Tây chừng dăm cây số mà tôi vẫn chưa tìm ra nơi nghỉ. Tôi suy tính:
- Từ đây về Hà Nội toàn đồng bằng, làng mạc, nhân dân đông đúc. Thấy Bác, nhân dân sẽ đến, làm sao mà bảo đảm được trật tự, huống chi còn ăn cơm, nghỉ ngơi... Thôi cứ theo kế hoạch của đội trưởng, về nhà là tốt nhất.
Quạy lại, thấy xe Bác cách xe chúng tôi chừng bốn trăm thước. Tôi quyết tâm thực hiện ý nghĩ của mình nên bảo đồng chí lái xe:
- Thẳng đường về Hà Nội thôi! Tăng tốc độ lên bảy mươi cây số giờ.
Đồng chí lái xe hiểu ý, mỉm cười, dận ga. Núi, đồi, thôn xóm đua nhau chạy về phía sau. Mấy cô gái Sơn Tây áo trắng nõn, chạy tạt sang bên đường. Đôi mắt cười nhìn theo xe, lắc đầu chỉ trỏ - Chắc là các cô ấy đang kêu: "Xe anh bộ đội chạy nhanh quá!".
Chừng được ba cây số, tôi quay lại thì không thấy xe Bác, tôi vội bảo đồng chí lái xe:
- Chậm lại, xe Bác cách xa quá! Thị xã Sơn Tây kia rồi mà vẫn chưa thấy xe Bác!
- Đúng rồi, Bác tự tìm lấy nơi nghỉ ăn cơm rồi - Đồng chí lại xe nhanh trí nghĩ ra, vừa nói vừa quay xe lại.
Đúng vậy, khi xe chúng tôi quay lại chừng vài cây số, chúng tôi đã thấy xe Bác đỗ ven đường. Bác và đồng chí đội trưởng của chúng tôi đang cùng nhau lên một ngọn đồi cách đường chừng năm mươi thước. Chúng tôi dừng xe, chạy theo. Thấy tôi, Bác liền hỏi:
- Nơi này đẹp thế sao chú không chọn? Chú định tìm "sơn thuỷ hữu tình" ở Hà Nội hay sao?
Tôi đáp:
- Thưa Bác, chỗ này gần làng quá, cháu sợ không yên tĩnh.
Nói xong tôi chạy đi giúp đồng chí cấp dưỡng già bày thức ăn.
Bàn ăn, chúng tôi chọn khoảnh đất tương đối bằng, giữa đỉnh đồi, dưới gốc mấy cây thông, cây trám, cành lá loà xoà như những chiếc tán xanh che nắng ban trưa. Ghế ngồi, chúng tôi lấy được một ít gạch ở cái lô cốt cũ vỡ của giặc Pháp bên đường xếp lại. Trong lúc cùng nhau bày món ăn, đồng chí cấp dưỡng già thủ thỉ tâm sự:
- May quá, các đồng chí anh nuôi của Sư đoàn lại cho được miếng thịt luộc, chút rượu mùi, thành ra bữa cơm hôm nay có chất tươi đây!
Nhìn nét mặt rạng rỡ của người đồng chí già tận tụy phục vụ Bác, đủ biết đồng chí ấy sung sướng tới mức nào khi thấy bữa ăn có thêm chất tươi để Bác ăn ngon miệng.
Đồng chí tâm sự: Bác ăn thì dễ lắm! Cá kho sao cho khô đanh và thơm thịt. Canh cua đồng nấu sao cho vừa, đừng vỡ gạch, có chút nước màu vàng béo, điểm chút rau thơm, rau ghém, quả ớt đỏ. Cơm sao cho dẻo, nóng sốt. Thế là được Bác khen rồi. Nếu đổi món thì rau muống luộc cho xanh, trứng luộc hơi lòng đào, thêm mấy quả cà pháo muối kiểu Nghệ... Bác thì mỗi tuổi một già, trăm công nghìn việc: từ lúa thiếu phân, trẻ em chưa đủ trường học, đến công việc nội trị, ngoại giao, chiến đấu của cả nước... Bác đều lo. Vậy mà ăn uống cứ như vậy, sao mà bảo đảm sức khỏe được!
Trong lúc chúng tôi đang trò chuyện, chợt thấy đồng chí đội trưởng lại bảo tôi:
- Bác hỏi tình hình chiến đấu ở đây trước kia, mình không chiến đấu trên chiến trường này, nên không rõ. Cậu đã chiến đấu ở đây, cậu đến báo cáo với Bác đi.
Tôi đến cạnh Bác và thưa:
- Cháu cũng không còn nhớ được mấy ạ.
Bác nhủ:
- Được, nhớ đâu nói đấy!
Tôi lần lượt kể về các trận đánh của Sư đoàn Đồng Bằng trong chiến dịch Trung du đã tiêu diệt gần một tiểu đoàn của giặc, thu cả đại bác 105 ly và hàng trăm súng các loại trên chặng đường này. Rồi chiến dịch Hoà Bình, trận phục kích trên đường 57 dưới chân Ba Vì, tiểu đoàn 115, tiểu đoàn 428 thuộc Sư đoàn Sông Lô đã tiêu diệt gọn hai đại đội địch, trong đó toàn là hạ sĩ quan da trắng và hai xe tăng. Tới trận kỳ tập điểm cao 600 trên sườn núi Ba Vì thì tôi hứng khởi hẳn lên. Tôi kể lại khá tỉ mỉ trận đánh trong điều kiện ta chỉ có vũ khí bộ binh, địch có pháo binh và phi cơ tới thả pháo sáng yểm hộ mà chỉ trong vòng non hai tiếng đồng hồ, quân ta đã dũng cảm, tiêu diệt gọn hai đại đội địch. Trong lúc vui miệng, tôi kể cả hành động dũng cảm của đồng chí Nguyễn Văn Thuần, Lê Văn Bệ, Lê Văn Tý trong trận đánh cao điểm 600 ấy.
Nghe tới tên đồng chí Thuần, Bác hỏi:
- Chú Thuần sau này được Đảng, Chính phủ tặng anh hùng quân đội phải không?
- Dạ.
- Hiện nay làm gì? Có vợ con chưa?
- Cháu được biết là đồng chí ấy đang học và đã có vợ con rồi ạ.
Bác gật đầu tỏ ý hài lòng và hỏi thêm:
- Chú có biết những trận chiến đấu hoặc đấu tranh của nhân dân địa phương đây không?
Tôi lớn lên ở Sư đoàn Sông Lô, nên thường mê các trận lớn của Sư đoàn. Còn các trận chiến đấu của nhân dân ta trong các địa phương thường ít lưu ý. Trước câu hỏi của Bác tôi chưa biết trả lời ra sao thì mâm cơm đã bày xong, đồng chí cấp dưỡng già đã đến mời Bác lại. Trong lúc tới chỗ ăn cơm, Bác thân mật bảo chúng tôi:
- Chiến sĩ cảnh vệ chẳng những làm công tác cảnh vệ, còn phải biết lịch sử chiến đấu của nhân dân ta trong kháng chiến, lịch sử đấu tranh của cha ông mình trước kia và hiểu được cái giàu đẹp của đất nước thì trong công tác cảnh vệ của mình mới hứng thú.
Tới bàn ăn - tạm gọi như vậy - Bác bảo chúng tôi cùng ngồi quây xung quanh, Người nói đùa:
- "Sơn thuỷ hữu tình" thế này, có "tửu", có nhắm tốt, nếu có thơ nữa thì thật là tuyệt.
- Tiếc quá, anh Tố Hữu mà cùng đi, chúng cháu lại được nghe thơ.
Bác mỉm cười, nhìn đồng chí vừa nói.
Tôi nhủ thầm: Bác khéo chọn thật! Mình đã nhìn vào ngọn đồi này, nhưng không thấy ra. Bây giờ ngồi trên đỉnh đồi mà ngắm cảnh mới thấy là đẹp: sóng lúa ở đây như sóng lượn ngoài khơi khi gió nhẹ. Đầu các thôn xóm, những mái trường, ngồi xa trông như những chiếc phao đỏ, lập lờ bên những Hồn đảo xanh. Những mương máng ở chân đồi, mía xếp hàng tăm tắp. Dãy Tản Viên, dãy Tam Đảo hướng về xuôi như hai pháo đài khổng lồ bảo vệ đồng bằng. Hai câu tập Kiều bỗng đến với tôi:
Lúa ngô xanh rợn chân trời
Mái trường đỏ thắm, lòng người nở hoa.
Nghĩ vậy, nhưng tôi vẫn cứ nấn ná không dám đọc.
Cuối bữa, đồng chí cấp dưỡng già toan đặt chuối vào mâm, Người ngăn lại:
- Khoan chú, ta dành món chuối cho các chú ở nhà, để các chú ấy cũng được cùng chúng mình hưởng chút quà cho vui. Còn các chú ở đây Bác thưởng mỗi người một điếu thuốc lá...
Nhận điếu thuốc từ tay Bác, lòng tôi nao nao. Bác thật là thương anh em mình, ở Hà Nội, sau những bữa tiệc ngoại giao, Bác cũng nghĩ tới anh em. Nhiều thì ai nấy đều có phần, ít thì đồng chí cận vệ, đồng chí lái xe được hưởng. Giờ đây, chút quà nhỏ vậy, Người cũng nghĩ đến các đồng chí ở nhà.
Thấy một đồng chí toan thôi, Bác bảo:
- Bác đã dặn nấu cơm cả xuất của các chú rồi đấy. Còn quà của Sư đoàn cho, không phải "ăn trông nồi, ngồi trông hướng" đâu!
Chợt như nhớ ra điều gì, Bác quay lại hỏi đồng chí đội trưởng:
- Chú có báo cáo cho các chú ở sư đoàn là chúng ta đã mang cơm theo chứ?
- Dạ, có ạ!
Đoán được câu hỏi của Bác, một đồng chí đỡ lời:
- Thưa Bác, các đồng chí trong sư đoàn cũng muốn nhân dịp Bác tới thăm, mời Bác ở lại xơi cơm để trong khi ăn cơm, còn có thể tranh thủ xin ý kiến Bác.
Bác lắng nghe đồng chí đó rồi chậm rãi trả lời:
- Bác hiểu, và cũng muốn thế, nhưng bây giờ mình còn phải tiết kiệm mọi điều. Bác đến, anh em quý Bác, chả lẽ dọn mâm cơm thường. Nhiều anh em cũng muốn ăn cơm với Bác Hồ cho vui, thế là có chuyện.
Bác ngừng lại, mỉm cười nhìn chúng tôi một lượt rồi Người nói đùa:
- Cán bộ về xã mà không khéo giữ gìn thì thành cán bộ "thịt gà lá chanh". Còn Bác mà không khéo giữ, thì Chủ tịch ra lệnh không được lạm sát trâu bò, nhưng Chủ tịch tới đâu, bò non, lợn béo bị lạm sát tới đó!
Nói xong, Người cười thú vị.
Lời nói vui của Bác đã xoá tan sự suy nghĩ giản đơn của tôi: Bác đã cả đời gian khổ, sao bây giờ còn tằn tiện quá vậy? Bây giờ tôi mới rõ: việc làm của Bác tuy bình thường mà ý nghĩa của nó thực lớn.
Anh em có lẽ cũng như tôi, cười xong ai nấy đều im lặng, suy nghĩ nhiều về lời Bác.
Bác còn dặn thêm đồng chí đội trưởng:
- Từ nay tới Tỉnh uỷ hay cơ quan nào, nên tính thời gian mà làm việc. Nếu phải ăn cơm thì ta báo là mình đã mang cơm. Nếu các cô các chú ấy muốn cùng ăn với Bác thì mang cơm tới, vừa ăn, vừa bàn việc nhân thể.
Điều này mỗi khi đi công tác đâu, Người thường vẫn dặn. Hôm nay Bác nhắc lại lần nữa, trong hoàn cảnh chúng ta bắt đầu bước vào kế hoạch khai hoang, nó càng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Tự nhiên chúng tôi cùng cất tiếng cười vang: vâng. Tiếng "vâng" nghe nhè nhẹ tưởng như không bay ra khỏi cửa miệng, mà nó thấm ngọt vào trong trái tim mình.
Hiểu ý nghĩ chúng tôi, Bác nhủ:
- Hồi cách mạng mới thành công, Lênin sống và làm việc trong những điều kiện hết sức gian khổ. Khẩu phần của Người được chia cũng giống như mọi người. Nếu ai muốn tặng thêm, Người rất không bằng lòng. Nhân dân Nga lúc ấy cũng phải chịu đựng hết sức gian khổ để xây dựng đất nước. Nhờ vậy mà có ngày nay. Nước mình bây giờ có cả phe xã hội chủ nghĩa giúp đỡ, tuy có khó khăn, nhưng cũng có nhiều thuận lợi. Bác, cháu mình giữ gìn là để tránh lãng phí thôi.
Sau đấy Người kể cho chúng tôi nghe chuyện Người ở Xiêm. Hồi ấy, mỗi khi bị đói, Người thường tới các chùa kiếm xôi ăn, vì các vị sư ở đây hàng ngày thường được dân dâng thức ăn rất hậu. Ăn không hết, các vi ấy nắm lại để trên mâm ở cổng chùa, ai đói thì đến lấy mà ăn, người không ăn thì chim ăn. Bác kết luận: Đời sống trước so với bây giờ có phải là đã được cải thiện nhiều rồi phải không?
Bác cháu cùng cười.
Cơm xong, chúng tôi trải vải bạt để Bác nghỉ trưa ngay trên đồi.
Nằm ngả mình dưới gốc thông, gối đầu lên trên một rễ cây thông nổi cao hơn mặt đất, Bác lắng nghe đồng chí cán bộ văn phòng báo cáo về chương trình xây dựng các nông trường của quân đội ta, và những thuận lợi, khó khăn trong việc thực hiện...
Tôi ngồi gần đó, thoáng nghe những lời báo cáo, lòng suy nghĩ miên man.
Những hình ảnh Điện Biên, Mộc Châu, Than Uyên v.v... lần lượt hiện ra trong óc. Những trận chiến đấu trong các chiến dịch Lý Thường Kiệt, Tây Bắc, Điện Biên cũng nổi lên theo...
Tôi đang suy nghĩ, bỗng một làn gió mạnh thổi tới. Trong tiếng lá thông reo, tôi nghe thấy đồng chí cán bộ văn phòng nói to hơi một chút:
- Anh em, về nhận thức đều nhất trí với Đảng là phải xây dựng Tây Bắc. Nhưng tới khi hành quân thì có hàng trăm sợi dây vô hình của đồng bằng giữ lại. Có đồng chí chưa thông nhưng vẫn lên đường. Có đồng chí ra đi mà lòng đầy oán trách...
Có tiếng Bác:
- Rồi không lâu đâu, chính các đồng chí ấy sẽ nói: "Đảng chủ trương rất đúng" và còn phê bình ta chậm đặt vấn đề củng cố Tây Bắc là khác!
Nghe Bác nói, tôi bỗng nhớ lại lời Người ban sáng khi nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn Bông Lau:
- ... Nhiều nước đã biến sa mạc thành vườn cây xanh tốt, đồng lầy thành nông trường lúa mênh mông. Người ta làm được như vậy, thì chúng ta cũng làm được như vậy...
Tôi càng suy nghĩ, càng thấy rõ tầm quan trọng của việc Bác tới thăm Sư đoàn và ý nghĩa của việc các đồng chí mình trở lại Tây Bắc. Chắc là từ nay trên tấm bản đồ trong phòng làm việc, dấu chì đỏ của Người sẽ theo sát bước đi của quân ta trên chiến trường mới.
Đồng chí cán bộ văn phòng đã báo cáo xong, Bác nằm im lặng, tay chống đầu, mắt hướng về những khoảng đồi trọc mênh mông phía Tây của tỉnh Sơn Tây. Có lẽ Người đang nghĩ cách làm sao biến được những đồi núi trọc kia thành đất đai trồng trọt, thành rừng cây ăn quả, cây công nghiệp hoặc tre, gỗ... Có một đồng chí vứt mẩu thuốc lá ra sườn đồi, khói nhè nhẹ theo gió cuốn lên. Bác ngồi dậy và nhắc:
- Kìa dập đi chú, tàn lửa có thể làm cho cả đồi cỏ bị cháy đấy!
Nhìn theo đồng chí ấy dập lửa, Bác quay lại, bảo chúng tôi:
- Nếu không biết giữ, một đốm lửa có thể phá cả một khu rừng. Đồi trọc nhiều cũng là do nạn cháy rừng mà ra cả.
Kim đồng hồ đã chỉ một giờ chiều, chúng tôi theo Bác xuống đồi.
Mặt trời từ từ ló ra khỏi màn mây. Đỉnh Tản Viên ánh lên dát một lượt vàng. Một dải mây trắng vắt ngang sườn núi, cắt đỉnh Tản Viên ra thành một Hồn đảo lưng chừng trời. Bác dừng lại ngắm cảnh đó, Người khen:
- Phong cảnh nước mình thật là đẹp!
Người dừng lại một lát rồi mới lên xe.