Tiếng sóng biển trầm trầm từ xa đưa lại. Gió biển như một bàn tay mát dịu, nhè nhẹ lướt trên làn da, mái tóc những con người mới về tới đất biển.
Gà đã sang canh mà câu chuyện của chúng tôi vẫn rì rào như tiếng rặng phi lao đầu nhà tâm sự.
Bốn năm nay chúng tôi mới gặp nhau, từ khi Dũng - đồng chí trung uý già, chiến sĩ cảnh vệ - được phục viên về sản xuất.
Sau bữa cơm, chúng tôi cùng nằm chung một giường. Mở đầu câu chuyện, anh hỏi lại về sức khỏe Bác, sinh hoạt của Bác lần nữa, rồi hỏi han tới tin tức anh em, bè bạn quen biết trong đơn vị cũ. Sau đó anh hỏi tới chuyện Hà Nội kiến thiết, chuyện đấu tranh trong miền Nam.
Nghe những hoạt động đầy tội ác của Mỹ - Diệm, anh nghiến răng phẫn uất, và khi tôi dừng lời, thì anh thở một hơi dài, như muốn trút đi nỗi buồn bực vẫn chất chứa trong lòng từ lâu.
Tôi có được biết về câu chuyện riêng của anh nhưng cũng không được rõ lắm, nhân tiện tôi gợi lại. Như được dịp cởi bỏ nỗi phiền, anh kể lại từ đầu với tôi:
- ... Tôi, anh đã biết, đi lính khố đỏ cho thằng Tây mười mấy năm trời, đã từng sang đóng cả trong các tô giới của Pháp bên Trung Quốc, trước thì Thượng Hải, sau về Quảng Châu Loan. Đến năm 1945, khi bên ta làm cách mạng tháng Tám, anh em chúng tôi bên đó biết tin cũng kéo cờ khởi nghĩa. Qua đấu tranh, bọn Pháp phải nhượng bộ và tới tháng 8-1946, chúng phải trao trả chúng tôi cho Chính phủ ta (Lúc ấy đang thi hành hiệp định sơ bộ). Hồi đó ai muốn về nhà thì Chính phủ cho về, ai muốn vào Vệ quốc đoàn thì Chính phủ cho vào. Tôi ở trong số xin vào Vệ quốc đoàn. Trải qua các cuộc chiến đấu, do được rèn luyện có kinh nghiệm, nên tới năm 1949 tôi được lấy về làm công tác cảnh vệ như đồng chí biết.
Trước kia vì nghèo khổ mà phải đi lính cho đế quốc, xa nhà mười mấy năm, nên tôi chỉ có hai đứa con. Một trai sinh năm 1935, vì đẻ vào mùa lạc nên mẹ nó đặt tên là Lạc. Một gái sinh vào năm 1939, vì mẹ nó đi chợ đẻ rơi dọc đường nên đặt tên là Đường. Như các cụ nói: Đặt tên con như thế nó "sái" đấy!
Tôi cũng chả được gần chúng mấy khi, một mình mẹ nó chạy vạy nuôi chúng nên người.
Trong những ngày kháng chiến, hễ có dịp là tôi vẫn gửi thư để thăm hỏi, bảo ban chúng nó. Nhưng quê tôi giặc Pháp chiếm đóng ngay từ đầu, thư từ một năm cũng chỉ được đôi lần.
Tới năm 1950, ở nhà cũng có nhiều khó khăn, địch càn quét luôn, chạy ra vùng tự do thì xa, nên mẹ nó buộc phải cho thằng Lạc ra Hải Phòng, tập làm thợ nguội và nhân tiện tránh giặc càn quét.
Thật không ngờ, đầu 1952, thằng bé chưa đầy mười bảy tuổi, không rõ bị chúng bắt hay ăn phải bả tuyên truyền của giặc mà đi lính ngụy.
Lúc được tin này, tôi tưởng như từng khúc ruột đang bị rứt ra. Xấu hổ, nhục nhã, mất mấy ngày tôi như không dám nhìn ai cả. Tôi viết thư về cho mẹ nó, cho nó, khuyên nó tìm cách trốn ra vùng tự do. Mấy tháng sau, chờ mãi vẫn vắng tin nó, lại nhận được thư của người nhà cho biết: người ta thấy nó đi với giặc về càn quét ở ngay quê nhà, cũng bắt gà, bắt lợn như mọi lính ngụy khác, ở Hải Phòng, người ta gặp nó cũng mặc những bộ quần áo bắt gà đi phố, tóc cũng chải đít vịt, răng đã bịt vàng...
Được tin này, tôi uất lên không ăn uống được. Thà nó chết ngay từ ngày nhỏ, thì có bao giờ tôi lại đến nỗi khổ vì nó như vậy đâu!
Nhớ hồi tôi từ Quảng Châu Loan về nước, nó mới mười một tuổi, đứng trong hàng thiếu nhi, trống ếch, khăn đỏ, rước ảnh Bác Hồ. Nhìn con mà tưởng như thấy cả ngày mai của chúng nó.
Có bữa tôi bảo nó:
- Tao mười mấy năm làm lính cho đến quốc, cầm súng giặc giúp giặc bóc lột, đàn áp dân mình. Bây giờ được cầm súng của dân, để bảo vệ dân thì già rồi..
Nó bảo tôi:
- Bố đừng lo, bố già đã có con.
Có ai ngờ! Nó thay tôi cầm súng không phải vì dân, mà là thay tôi cầm súng của giặc. Cái đau này còn đau gấp trăm nghìn Tân khi tôi bị giặc bắn bị thương.
- Cái gì đã làm cho lớp lính khố đỏ chúng tôi lúc ấy, từ những tên lính già đời cầm súng của đế quốc Pháp, trở thành người lính cách mạng? Cái gì đã làm cho con tôi từ một em thiếu nhi lớn lên sau Cách mạng tháng Tám, mắt thấy tội ác giặc trong kháng chiến mà lại thành tên lính đánh thuê cho đế quốc?
Đành là do đế quốc Pháp mà ra cả, nhưng tôi không muốn trả lời một cách chung quá như vậy! Phải chăng chính vì hàng chục năm ôm súng giặc mà chúng tôi mới thấm thìa được bài học mất nước, thấm thìa cái nhục làm lính đánh thuê cho giặc để đàn áp lại dân mình, Tổ quốc mình? Còn con tôi nó như con gà con vừa rời cánh mẹ đang ngơ ngác kiếm mồi, thì đã bị diều hâu đến cắp mất! Hình ảnh này chưa thật đúng! Chao ôi! Một ví dụ tuy là cay đắng nhất, nhưng mà đúng nhất: có đánh đĩ mười năm mới thấy cái chán chường làm đĩ! Khi đêm vắng, khóc mà thương thân. Do đó đĩ già lại hoàn lương. Còn con tôi như đứa trẻ vừa lớn lên gặp con bợm già, nên lại làm đĩ!
Nhưng giá nó làm đĩ thì chỉ hại thân nó, nhục cái thân tôi, chứ nó cũng chả làm hại được mấy người. Nhưng bây giờ hai cha con tôi trên hai trận tuyến cầm súng bắn nhau. Họ nhà tôi chả có mấy người, đời cha, đời ông đều cần cù lao động, bây giờ lại phải chịu cái nhục này với dân với xã.
Càng nghĩ càng đau. Càng đau càng uất. Tôi viết thư cho nó, sỉ vả hết lời, tôi thề nếu bắt được nó sẽ tự tay cầm súng bắn chết nó để rửa cái nhục cho dòng họ tôi. Tôi lại viết thư cho chi bộ xã tuyên bố cắt đứt tình cha con, và viết thư cho nhà tôi dặn cách bí mật liên lạc với huyện đội tìm cách dụ nó bắt lấy mà trừ đi, không sẽ có hoạ về sau. Tôi biết nó vẫn mến mẹ nó, và em nó. Nhà tôi rất thương con nhưng cũng không chịu nhục làm mẹ một tên ngụy binh!
Bức thư chưa gửi đi thì các đồng chí trong chi bộ rõ chuyện. Đồng chí đại đội trưởng hết lời khuyên ngăn tôi, bảo tôi viết thư cho đúng chú trương, chính sách của Đảng. Các đồng chí nói đã nhiều, tôi vẫn không chuyển.
Một buổi chiều, thấy Bác đang tăng gia tôi tới giúp Bác chăm bón khóm mướp và luống ớt trước nhà. Hai Bác cháu đang làm, Bác chợt hỏi tôi:
- Sao chú trông người không được vui.
Người hỏi xong, dừng tay lại dịu dàng nhìn tôi. Cử chỉ đó như một lời động viên: "Chú có điều gì cứ nói với Bác!".
Đã hai phần ba đời người rồi, nước mắt tưởng đã cạn, mà rồi vẫn không sao ngăn được. Tôi cố nén và đã kể lại với Bác câu chuyện đau lòng, éo le của tôi.
Trong lúc tôi kể, Người rất lắng nghe. Khi tôi nói tới đoạn cháu Lạc đi lính ngụy, đôi lông mày Người hơi nhíu lại, vẻ suy nghĩ. Khi nói đến nỗi đau lòng của chúng tôi, Bác hơi cúi xuống nhìn thấy chân tôi run run vì cảm động, Bác cầm tay tôi chỉ vào cán cuốc để dưới đất nói:
- Ngồi xuống đây, chú!
Cử chỉ của Người như san sẻ với tôi nỗi khổ tâm. Nghe tới những ý nghĩ của tôi về cháu Lạc, và những lời trong thư tôi viết, bác khe khẽ lắc đầu. Đôi mát Bác đăm đăm nhìn tôi vẻ không bằng lòng.
Để tôi nói hết lời, Người mới nhẹ nhàng nói:
- Sao chú lại nghĩ vậy? Chú có tuyên bố cắt đứt thì cháu Lạc vẫn là con của chú thím. Tình cha nghĩa mẹ, làm sao cháu nó lại không có lúc nghĩ tới.
Ngừng lại như để cho tôi suy nghĩ, Người nói tiếp:
- Nước chảy đá còn mềm, huống chi là lời răn của cha mẹ. Sao chú không cùng với thím ấy đem tình thương mà làm cho cháu Lạc nó tìm ra đường đi? Chú ạ! Nắng chiếu thì sương tan, lời khuyên bảo của cha, của mẹ, chắc chắn sẽ giúp nó tìm ra lẽ phải.
Lời Bác như cơn mưa rào tưới lên cánh đồng lúa khô cằn nứt nẻ. Như cơn gió nam nhè nhẹ thổi vào cái đầu nóng bỏng của tôi.
Tôi hứa xin vâng lời Bác.
Từ đấy, qua nhiều thư của tôi. Mẹ nó cũng nhiều lần tới thăm hỏi, bảo ban. Như mưa dầm ngấm lâu, dần dần nó cũng hiểu ra. Nó đã liên lạc được với cán bộ ta, tìm bắt liên lạc được với một số nhân mối khác. Chúng tôi đã mừng thầm.
Nhưng, thật chẳng may cho chúng tôi. Cháu nó lại bị giặc điều vào Nam Trung Bộ. Hồi hoà bình lập lại, nó không có đường về. Thế là tên lính đánh thuê cho đế quốc Pháp trở thành tên lính đánh thuê của đế quốc Mỹ.
Suốt từ bấy cho tới 1960, không một tin tức về nó. Nhiều lúc tôi nghĩ: Liệu nó có biết nghe lời bố nó trước kia, để tìm lấy con đường mà đi không?
Hay là đã chết thay cho Mỹ - Diệm trong các trận đánh nhau với các giáo phái hoặc trong các chiến dịch càn quét nhân dân ta trong đó!
Thương con, giận con, mẹ nó cũng sinh ốm đau, quặt quẹo mãi. Tới hồi phục viên về, em nó lấy chồng, có cháu, mẹ nó mới nguôi nguôi.
Tới năm ngoái tôi mới nhận được bưu thiếp của nó. Có lẽ nó cũng sợ bè lũ tay sai của đế quốc Mỹ, phải suy nghĩ lắm mới dám gửi được vài dòng này...
Nói tới đây, không nén được, anh ngồi dậy bật diêm châm lửa vào chiếc đèn dầu nho nhỏ, rồi rút từ quyển sách gối đầu giường ra cho tôi xem tấm bưu thiếp, và chỉ cho tôi những dòng chữ:
Thưa thày mẹ,
Chúng con nhận được bưu thiếp của thày mẹ rồi. Những lời thày dặn trước, dù xa con vẫn nhớ, vẫn tìm.
Thày ơi! Con vẫn làm ăn như trước, nhưng bệnh mờ mắt đã đỡ rồi, con mừng quá! Vì mắt có sáng mới tìm thấy đường đi.
Nhà con cũng người di cư, chúng con lấy nhau vì cùng cảnh ngộ.
Cháu Việt, cháu An kính chúc ông bà, cô mạnh khỏe.
Huế ngày 8-10-1962.
Chờ tôi xem xong, anh nói thêm:
- Đây là bưu thiếp thứ hai đấy! Tám năm nhận được hai lần tin con. Có mấy dòng chữ ngắn ngủi. Cái trước chỉ báo tin khỏe mạnh, cho địa chỉ. Cái này mới nói ý của mình. Suy ra thì cũng có thể tin là nó biết nghĩ. Xem cái việc đặt tên con của nó cũng vậy, đứa lớn lấy tên là Việt - có lẽ nó nghĩ tới một Tổ quốc Việt Nam chân chính trong lòng nó. Đứa nhỏ lấy tên là An. An là Kiến An, là quê hương nó. Nó vẫn nhớ đến quê hương nó trên miền Bắc.
Tới đây anh thở dài nhè nhẹ, rồi tiếp:
- Nghĩ thì nghĩ vậy nhưng vẫn lo - sống với giặc mà muốn làm người thì thật là khó!
Như muốn phá nỗi buồn u uất trong lòng, anh rít một hơi thuốc lào, rồi nhả ra làn khói dày đặc cuồn cuộn trước mặt. Anh im lặng nhìn theo làn khói như cố hình dung khuôn mặt của đứa con đang sống trong hàng ngũ binh lính của Mỹ - Diệm. Anh lẩm bẩm nói lại câu ban nãy:
- Sống với giặc mà muốn thành "người" thật là khó!
Tôi góp ý:
- Thực tế vẫn có nhiều người bị chúng bắt phải sống trong nanh vuốt chúng!
Anh gật gù:
- Tôi cũng nghĩ như vậy. Tôi đã làm và tin theo những điều Bác dặn. Làng tôi có nhiều gia đình có con em bị giặc cưỡng bức vào Nam cũng tin như vậy... Nhưng còn họ? Họ sống trong hàng ngũ giặc, họ muốn làm người họ phải hành động thế nào chứ?
Anh Dũng còn muốn nói nữa, nhưng chị Dũng từ trong buồng ngó ra hỏi:
- Ông thằng Lúa nói chuyện khuya quá vậy? Để bác nghỉ đỡ một chút!
- Đốt đèn hút điếu thuốc thôi, ngủ đây! - Anh cười, tắt đèn đặt mình nằm xuống, tôi hỏi anh:
- Sao lại đặt tên cháu là Lúa?
Như tan hết nỗi buồn, anh phá lên cười, cái cười rất cởi mở.
- Cái gì cũng có lịch sử của nó chứ! Chả là dạo ở Việt Bắc, tôi theo Bác đi thăm một cơ quan. Đồng chí phụ trách cơ quan đó có lẽ là một nhà văn. Chị ấy đưa hai cháu ra chào Bác, Bác hỏi:
- Tên các cháu là gì?
Đồng chí đó thưa:
- Cháu trai là Lê Thu Sơn, cháu gái là Lê Thu Thuỷ.
Khi các cháu đã theo mẹ ra ngoài rồi, Bác vừa cười vừa nói đùa:
- Nhà văn nên lấy núi mùa thu, nước mùa thu làm đẹp. Còn nông dân thì lại lấy việc thu nhiều thóc, thu nhiều khoai làm vui.
Tôi cứ nghĩ về câu nói vui của Bác mãi. Bây giờ về làm hợp tác xã, mới thấy nó chí lý. Vì có nhiều quan niệm về đẹp. Nhưng anh nghĩ xem với nông dân ta, cái đẹp và vui nào bằng cánh đồng lúa tốt, khoai tốt; xã viên ta thu được nhiều lúa, nhiều khoai - Anh hạ giọng - Ngoài ra tôi cũng có ý khác. Các con tôi đã là Lạc, Đường thì các cháu tôi sẽ là Lúa, Khoai. Như vậy nó cũng phá được cái "sái" trước kia đi.
Dù khuya, chúng tôi cũng không sao nén được cười, bởi câu chuyện vui khi anh Dũng nhắc tới Bác, và cái ý đặt tên của anh - từ Lạc, Đường chuyển sang thành Lạc, Đường, Lúa, Khoai thì hay thật.
- Thôi ngủ nhé! - Anh Dũng nói như giao hẹn và anh nhắm mắt lại.
Tôi cũng nằm yên nhưng không sao ngủ được! Hình ảnh những người như Lạc, những cuộc tàn sát, chém giết, đàn áp nhân dân; những đám mây mù hoá học, những khu rừng trui lá; những đồn bốt cháy trụi lần lượt diễn ra trước mắt tôi.
Bỗng anh Dũng thầm thì: "Bác bảo: Nước chảy đá còn mòn, huống chi lời răn của cha mẹ. Sao chú không cùng với thím ấy đem tình thương mà làm cho cháu Lạc nó tìm ra đường đi". Nói xong anh nức nở gọi: "Con ơi! Lạc ơi! Bao giờ con về với nhân dân". Theo sau tiếng gọi, là những tiếng nấc trong cổ họng.
Tôi nhìn anh, thấy mắt anh vẫn nhắm, hai tay nắm lại.
Ngoài trời sóng biển vẫn dạt dào như lòng cha mẹ thương con. Rặng cây phi lao vẫn rì rầm như tiếng ru xa xưa của người mẹ. Tiếng gà đầu thôn đã báo sáng.
Tháng 4-1963