• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Gia Định là nhớ, Sài Gòn là thương
  3. Trang 20

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 27
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • More pages
  • 27
  • Sau

Người Pháp đối mặt với các thách thức về quy hoạch của Sài Gòn - Chợ Lớn buổi đầu

“Từ tháng 6-1860, quan quân An Nam có ý cô lập người Pháp với thành phố Tàu (Chợ Lớn), nơi tồn trữ gạo mà người Pháp xuất đi từ cảng Sài Gòn (...). Chúng ta buộc phải giữ vững95...” - đó là ghi chép của trung úy hải quân Pháp Léopold Pallu, sĩ quan tùy viên Tổng hành dinh của Đề đốc Leonard Charner khi nói về cục diện quân sự giữa quân Pháp và quân dân Việt trước trận đánh đại đồn Chí Hòa (24-2-1861).

95 Lịch sử cuộc viễn chinh Nam kỳ năm 1861 - Histoire de L’Expédition de Cochinchine en 1861, Nxb. Hachette, Pháp, 1864.

hinh-56

Dự án thành phố 500.000 dân của trung tá Coffyn năm 1862. Các con đường ngang dọc của thành phố hầu hết song song với bốn cạnh thành Gia Định. - Ảnh tư liệu.

Đoạn ghi chép này cho thấy rõ ngay sau khi đánh chiếm Gia Định, người Pháp đã hiểu được mối quan hệ cực kỳ chặt chẽ giữa Sài Gòn và Chợ Lớn cũng như tầm quan trọng của đường thông thương cốt tử giữa Sài Gòn - Chợ Lớn với khu vực miền Tây trù phú mà người Pháp có thể thu lợi ngay bằng cách xuất khẩu gạo.

Quy hoạch đầu tiên thất bại với tầm nhìn 500.000 dân

Sau khi Pháp hạ thành Gia Định (1859) và đại đồn Chí Hòa (1861), khu vực phòng thủ Sài Gòn - Chợ Lớn của Thống suất Nguyễn Cửu Đàm xác lập năm 1772 được người Pháp tiếp tục thừa kế và áp dụng cho quy hoạch mới. Ngày 11-4-1861, Phó đô đốc Léonard Charner ra nghị định xác định địa giới thành phố Sài Gòn (ville de Saigon) gồm phía đông là sông Sài Gòn; phía bắc là rạch Thị Nghè; phía nam là rạch Bến Nghé; phía tây từ chùa Cây Mai đến đồn Kỳ Hòa; diện tích khoảng 25km2. Đây là vùng quy hoạch tương đương với địa giới phòng thủ mà tướng Nguyễn Cửu Đàm đã xác lập 89 năm trước đó.

Ngày 30-4-1862, để triển khai cụ thể nghị định dựa trên địa giới này, Trung tá công binh Coffyn đã lập một dự án quy hoạch nổi tiếng Thành phố Sài Gòn 500.000 dân (Saigon ville de 500.000 âmes), tức khoảng 20.000 dân/km2 (50m2/người) gồm cả đường sá, công viên96... Cần lưu ý thời điểm đó dân số hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn chỉ khoảng 100.000 người. Với quy hoạch này, rõ ràng người Pháp muốn liên kết hai vùng dân cư đông đúc (nhưng cách nhau năm cây số) này để nằm dưới một bộ máy quản lý duy nhất.

96 Xem hình trang 134.

Tuy nhiên, chính quyền Pháp sau đó nhận ra quy hoạch này quá lớn so với tổng dân số của Sài Gòn - Chợ Lớn thời điểm đó. Ngày 3-10-1865, Chuẩn đô đốc Pierre Rose - quyền Thống đốc Nam kỳ - đã ban hành nghị định về một quy hoạch mới của Sài Gòn - Chợ Lớn97.

97 Xem hình trang 137.

Với nghị định này, thành phố Sài Gòn chỉ còn là khu vực bao quanh bởi rạch Thị Nghè ở hướng Bắc; sông Sài Gòn ở hướng Đông; rạch Bến Nghé ở hướng Nam và phía Tây là khu cầu Ông Lãnh ngày nay. Sài Gòn lúc này chỉ rộng khoảng 3km2, tức gần một nửa Quận 1 hiện nay (8km2) với 24 đường phố lớn nhỏ và các cơ quan công quyền. Cách thành phố Sài Gòn năm cây số là thành phố Chợ Lớn có diện tích khoảng trên 3km2 với 31 đường phố lớn nhỏ98.

98 Hiện là khu vực Quận 5 và một phần của Quận 6 - rộng 4 km2.

Ngày 8-1-1877, Tổng thống Pháp Mac Mahon ra Sắc lệnh về tổ chức Thành phố Sài Gòn (Décret concernant l’organisation municipale de la Ville de Saigon) có hiệu lực từ 16-5-1877. Với sắc lệnh này, Sài Gòn rộng thêm về phía tây nam đến khu vực cầu Ông Lãnh, phía đông bắc đến đường Điện Biên Phủ, khu vực công viên Lê Văn Tám hiện nay99.

99 Xem hình trang 138.

Ngày 17-12-1894, một nghị định mới mở rộng địa giới thành phố Sài Gòn về phía Bắc đến khu vực Hòa Hưng hiện nay. Diện tích Sài Gòn rộng thêm 4km2 bao gồm diện tích Quận Nhứt cũ100 và Quận 3 ngày nay. Nghị định mới này cũng mở rộng Sài Gòn về hướng Bắc gần sát với lũy Bán Bích mà Nguyễn Cửu Đàm xây dựng năm 1772.

100 Sau 1975, Quận Nhì sáp nhập vào Quận Nhứt trở thành Quận 1 hiện nay.

Năm 1899, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ra nghị định thành phố Sài Gòn nằm trong tỉnh Gia Định, còn thành phố Chợ Lớn nằm trong tỉnh Chợ Lớn. Lúc này, Sài Gòn và Chợ Lớn thuộc hai tỉnh với hai hệ thống hành chính và nền kinh tế khác nhau.

a1

Bản đồ thành phố Sài Gòn 1867 khi phía Tây chỉ đến đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (lúc này mang tên Impératrice). - Ảnh tư liệu.

hinh-58

Bản đồ thành phố Sài Gòn 1878, khi này ranh giới phía Bắc gần sát rạch Thị Nghè. - Ảnh tư liệu.

Thành lập Khu Sài Gòn - Chợ Lớn

Sau khi duy trì địa giới hành chính này được 11 năm, có lẽ người Pháp nhận thấy rằng khó có thể tách rời Sài Gòn và Chợ Lớn vốn luôn bổ trợ cho nhau không chỉ an ninh, quốc phòng mà cả kinh tế. Vì vậy, năm 1910, hai thành phố lại được mở rộng thêm diện tích bằng cách sáp nhập các xã thôn nằm giữa (vốn trước đó thuộc hai tỉnh Gia Định và Chợ Lớn), và dần tiếp giáp nhau tại vị trí mà nay là đường Nguyễn Văn Cừ và Nguyễn Thiện Thuật101. Trong khi đó, địa giới của thành phố Sài Gòn cũng được mở rộng về phía Nam, bao gồm Quận 4 và một phần Quận 7 ngày nay.

101 Hiện nay, khu vực này các món ăn Việt - Hoa chung sống bên nhau rất thú vị, chẳng hạn quán cháo tiều Cô Út và tiệm giò chả Nghĩa khá gần nhau, cả hai đểu đông khách.

Kết quả, vào ngày 27-4-1931, tổng thể Sài Gòn - Chợ Lớn đã chính thức sáp nhập với một sắc lệnh của Tổng thống Pháp lúc đó với tên Khu Sài Gòn - Chợ Lớn (Région de Saigon - Cholon), đứng đầu là Khu trưởng, do Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm. Cuối năm 1941, các Tòa Thị chính của hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn bị giải thể. Thời điểm này, toàn Khu Sài Gòn - Chợ Lớn chỉ có năm quận, rồi lên sáu quận (1948) và cuối cùng thành bảy quận (1952).

Kinh thắt lưng102 cho Sài Gòn và tham vọng bị bỏ dở

Sau khi hạ đại đồn Chí Hòa (1861) và sau đó chiếm ba tỉnh miền Đông (1862), người Pháp cho đào ngay con kinh rất dài và rộng phía bắc Sài Gòn, gần như tương ứng với chiều dài của lũy Bán Bích trước đây. Kinh đào này là một phần trong dự án Thành phố Sài Gòn 500.000 dân năm 1862 của trung tá công binh Coffyn. Số dân công được huy động để đào con kinh này là 40.000 người - một lực lượng rất lớn trên tổng dân số Nam kỳ lúc đó - cho thấy người Pháp đã kỳ vọng ra sao với dự án này.

102 Người Pháp gọi là kinh Ceinture (canal de Ceinture) nghĩa là kinh Thắt Lưng. Dân Sài Gòn vào thập niên 1960, 1970 vẫn gọi là kinh Vòng Thành hoặc kinh Bao Ngạn.

Kinh Vòng Thành nối đoạn đầu rạch Thị Nghè và đoạn cuối của rạch Chợ Lớn để tạo một đường nước bao kín vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, có nhiệm vụ tương tự như lũy Bán Bích năm 1772. Như vậy, với bốn mặt đều là sông nước, Sài Gòn - Chợ Lớn bỗng trở thành vùng cù lao.

Theo học giả Vương Hồng Sển, con kinh này theo kế hoạch “bề ngang hai mươi thước, bề sâu sáu thước (...). Nhưng công việc dở dang thất bại, và Đô đốc Bonard đành bỏ nửa chừng công tác ấy”103. Cụ Vương Hồng Sển không nói lý do tại sao thất bại. Nhưng trong Chuyên khảo tỉnh Gia Định năm 1902 (Monographie de la Province de Gia-Định, 1902) thì có hé lộ chi tiết rằng, kinh Vòng Thành đã được đào nhưng toàn kinh chưa được đem vào sử dụng vì bùn đất lên quá nhanh, ghe thuyền không đi được. Việc bỏ dở này có lẽ do quy mô con kinh thực tế nhỏ hơn nhiều so với ý định ban đầu là rộng tới hai mươi mét. Cũng theo Chuyên khảo tỉnh Gia Định: kinh dài bảy cây số, rộng mười mét, sâu ba mét, nhưng đến năm 1902, kinh chưa hề được sử dụng vì vùng Phú Thọ đáy sông bùn lên cao hơn mực thủy triều104.

103 Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, 2004, trang 124.

104 Hội Nghiên cứu Đông Dương, Chuyên khảo tỉnh Gia Định, Nguyễn Nghị và Nguyễn Thanh Long dịch, Nxb. Trẻ, 2017.

Tuy bị bỏ dở giữa chừng nhưng con kinh này vẫn tiếp tục tồn tại cho đến năm 1975. Khi chúng ta xem trên các bản đồ của Pháp và Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn thấy sự hiện diện rất rõ ràng. Đầu thập niên 1990, tôi vẫn còn thấy nhiều đoạn kinh này dọc đường Bắc Hải (Quận 10) nằm bên dãy tường sát công viên Lê Thị Riêng nhưng chỉ nhỏ như rãnh nước (hiện nay là những dãy nhà nhỏ và không sâu).

Hinh-59

Cầu Kinh nơi ngã ba kinh Lò Gốm và rạch Bãi Sậy năm 1918. - Ảnh tư liệu.

Tại sao người Pháp giảm nhiệt huyết với con kinh hoành tráng có thể thông thủy, thông vùng kinh tế cho cả khu vực phía bắc, phía tây Sài Gòn? Cũng như vậy, về phía nam Sài Gòn, con đường Nguyễn Tất Thành chạy ra Quận 7, Nhà Bè, Cần Giờ hiện nay đến 1954 vẫn như một vùng đầm lầy?

Qua thực tế, nhiều thế hệ kiến trúc sư, nhà quy hoạch người Pháp gửi nhận định của mình cho nhà cầm quyền ở Nam kỳ rằng: Sài Gòn - Chợ Lớn phát triển mạnh theo hướng đông tây do gắn với nguồn nguyên vật liệu dồi dào, thị trường tiêu thụ cũng như nguồn nhân công. Theo đó, khu vực phía bắc và nam Sài Gòn không có những ưu điểm này cùng với nguồn nước ngọt thiếu thốn, thậm chí phía nam là vùng bị xâm nhập mặn nặng nề.

Mở rộng các tuyến đường thủy, đường bộ và đường sắt từ Sài Gòn đi về hướng tây

Những ngày đầu chiếm Sài Gòn, người Pháp thật ra không phải không có những sai lầm trong quy hoạch thiết kế Sài Gòn. Không chỉ kinh Vòng Thành mà nhiều con kinh khác ngay trung tâm Sài Gòn cũng đã được đào lên và lấp lại ngay sau đó như: kinh Lớn đào năm 1867 và lấp 1887 (thành đường Nguyễn Huệ ngày nay); kinh Coffyn105 lấp năm 1892 (nay là đường Lê Lợi)... Nhưng quan trọng hơn, người Pháp đã nhanh chóng nhận ra một điều rằng không phải ngẫu nhiên mà trước đó người Việt tập trung phát triển Sài Gòn theo hai hướng đông tây. Thế là sau đó, chính quyền thành phố cho thành lập hàng loạt đường phố, kinh rạch, cầu... trải dài từ đông sang tây.

105 Lấy tên trung tá công binh Coffyn - người lập quy hoạch Sài Gòn 500.000 dân năm 1862.

Về đường bộ, ngoài đường Trên106 và đường Dưới107 vốn đã có sẵn từ lâu, người Pháp đã mở thêm một số con đường khác nối dài Sài Gòn và Chợ Lớn như Stratégique/Chasseloup-Laubat (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) vốn khi xưa là con đường từ cổng Đoài Duyệt nối với đường thiên lý; và Legrand de la Liraye (nay là Điện Biên Phủ) chạy song song với Nguyễn Thị Minh Khai.

106 Đường Cái Quan, tức Nguyễn Trãi ngày nay.

107 Ven theo rạch Bến Nghé, nay là đại lộ Võ Văn Kiệt.

Ngoài ra, chính quyền còn mở thêm một loạt con đường nhằm kết nối với khu vực phía bắc thành phố mà nay là: Hoàng Văn Thụ, Lý Thường Kiệt, Lạc Long Quân, Âu Cơ... chạy theo hướng tây bắc - đông nam, trong khi các con đường trước đó đa số theo hướng đông bắc - tây nam.

hinh-60

Khánh thành tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho ngày 20-7-1885. Vị trí ga đầu tiên tại đường Hàm Nghi. - Nguồn: Maison Asie-Pacifique (MAP).

Sau khi chợ Bến Thành khai thị vào năm 1914, chính quyền thành phố đã có quyết định quy hoạch đột phá, đó là san lấp khu vực đầm lầy rộng lớn giữa Sài Gòn và Chợ Lớn, đồng thời hình thành một đại lộ quan trọng là Galliéni (nay là Trần Hưng Đạo). Từ đây, giao thông giữa Sài Gòn và Chợ Lớn đã vô cùng tiện lợi vì có thể đi từ nhiều hướng khác nhau với nhiều loại phương tiện vận chuyển, việc này giúp gia tăng lượng hàng hóa giữa chợ Bến Thành - Chợ Lớn - miền Tây.

Hai bên rạch Bến Nghé - kinh Tàu Hủ cũng hình thành một loạt bến bãi chạy dài từ Sài Gòn ra Chợ Lớn, không chỉ đơn thuần dành cho khách vãng lai mà còn đóng vai trò là tuyến vận chuyển hàng hóa giữa Sài Gòn - Chợ Lớn - miền Tây, bao gồm các con đường như Bến Bạch Đằng (nay là Tôn Đức Thắng), Hàm Tử - Bến Chương Dương (nay là đại lộ Võ Văn Kiệt), Bến Vân Đồn (Quận 4), Bến Bình Đông (Quận 8)…

Về đường sắt, tuyến đầu tiên chạy từ ga Sài Gòn về miền Tây: Sài Gòn - Mỹ Tho, do nhà thầu Joret xây dựng và khai thác dài 70 km bắt đầu hoạt động từ 1885. Sau ba năm (1888), hành khách và hàng hóa Sài Gòn - Mỹ Tho đi tuyến này nhiều đến mức Thống đốc Nam kỳ phải quyết định lấy lại quyền khai thác và đền bù cho nhà thầu 315.755 francs. Năm 1896, tổng lãi thu được từ tuyến đường sắt là 3,22 triệu francs, năm 1912 lãi 4 triệu francs108 (để dễ hình dung, năm 1880, toàn bộ chi phí xây dựng, trang trí nội thất nhà thờ Đức Bà hết 2,5 triệu francs).

108 Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Ký ức một thời xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho, http://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3096/13090/ky-uc-mot-thoi-xe-lua-sai-gon-my-tho.html

Dù chính quyền tập trung nhiều nguồn lực để phát triển về hướng tây nhưng bên cạnh đó cũng có những công trình giúp Sài Gòn kết nối về hướng đông. Điển hình như cầu Bình Lợi - cây cầu đầu tiên vượt sông Sài Gòn - được đưa vào sử dụng từ năm 1902 giúp rút ngắn quãng đường và thời gian đi Thủ Đức, Biên Hòa và các tỉnh miền Trung, miền Bắc. Con đường thiên lý bắc-nam của Sài Gòn lúc này đã hoàn toàn thông suốt giúp cho việc đi lại thuận tiện hơn rất nhiều.

hinh-61

Cầu Bình Lợi đầu thế kỷ 20. - Ảnh tư liệu.

hinh-62

Xe chạy bằng hơi nước năm 1905, đang dừng tại trạm Chợ Lớn. - Ảnh tư liệu.

hinh-63

Xe điện tramway tuyến Sài Gòn - Chợ Lớn chạy trên đường des Marins, lúc này đã chạy bằng điện. - Ảnh tư liệu.