Khu Ông Tạ, Quận Tân Bình hiện nay có một con lộ “xưa thật là xưa”. Nó vốn là đường mòn (sentier) đi giữa hai bờ ruộng sau này là đường trung tâm khu Ông Tạ: (lần lượt mang tên) Hương lộ 16 (thời Pháp thuộc đến đầu thập niên 1960) - Thoại Ngọc Hầu (giữa thập niên 1960) - Phạm Văn Hai (giữa thập niên 1980 đến nay).
Nhà thờ Chí Hòa thập niên 1920, khoảng 20 năm sau khi xây dựng. - Ảnh tư liệu.
Nhiều bản đồ xưa cuối thế kỷ 19, khi Pháp mới vào vài chục năm đã ghi nhận ở khoảng giữa con lộ toàn đầm lầy, ruộng nước này có một khoảnh đất khá cao khô ráo. Cụ thể ở bản đồ địa hình (plan topographique) Sài Gòn - Gia Định 1882 “- 20eme arrondissement et ses environs”, cuối khoảnh đất đó có một công trình ký hiệu hình thập giá, ghi rõ “église” (nhà thờ). Lược sử giáo xứ Chí Hòa ghi:
“Họ Chí Hòa khởi đầu là họ nhánh của họ Chợ Quán (1771-1890) được Đức Giám mục Phêrô Bá Đa Lộc quy tụ, sau đó là họ nhánh của họ Tân Định.
Họ đạo được chính thức thành lập ngày 10-10-1890 với tên Thạnh Hòa, gồm có 100 giáo dân, do linh mục Jean Génibrel (Thượng - cha sở Tân Định) phụ trách.
Thánh đường đầu tiên cũng là thánh đường hiện tại, được Đức cha Mão (Mossard) xây vào năm 1890 (khánh thành ngày 7-10-1890) trên khu đất do ông Huyện Sỹ Lê Phát Đạt dâng cúng, khu đất này rộng tới 600 mẫu. (…) Năm 1910 đổi tên thành họ Chí Hòa…”.
Đức cha Mão người Pháp, tức Đức giám mục xứ Tây Đàng Trong (Nam kỳ lục tỉnh). Lucien Emile Mossard vốn là linh mục chánh xứ Tân Định (1881-1882), chánh xứ Chợ Quán (1891-1898).
Nghĩa là theo nguồn này, nhà thờ Chí Hòa (trên đường Bành Văn Trân hiện nay) đã có từ năm 1890. Tuy nhiên, toàn bộ những bản đồ tôi có từ 1903 trở về trước, khu vực nhà thờ Chí Hòa hiện nay không hề ghi nhận ngôi nhà thờ nào. Nhưng đến hai tấm bản đồ cùng ra năm 1904: Service Geographique de l’Indo-Chine (Phục vụ địa lý) và Environs de la place de Saigon 1904 (Ngoại vi khu trung tâm Sài Gòn năm 1904; tỉ lệ lớn 1:20.000), chúng ta thấy đã có một công trình có hình thập giá ở ngôi nhà thờ tại vị trí nhà thờ Chí Hòa hiện nay.
Và ngôi nhà thờ ở vị trí “khoảng đất khá cao khô ráo” (nay là một phần khu chợ Phạm Văn Hai) dù vẫn còn hình dáng nhưng không còn dòng chữ “église” (nhà thờ). Khi bà con Bắc di cư tới đây năm 1954, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, hầu như ít ai biết từng có một ngôi nhà thờ ở đó.
Khu vực có ngôi nhà thờ nay là chợ Phạm Văn Hai này trước 1983-1985 là khu vực có năm nghĩa địa: Thánh Minh tương tế, Trung Việt ái hữu, Vĩnh Long, Sa Đéc và Tân Định. Lúc ấy, tôi cũng như nhiều bà con Công giáo Ông Tạ những ngày lễ Các Thánh 1-11 thường đến nghĩa trang Tân Định thắp hương và dự thánh lễ do một linh mục ở giáo xứ Tân Định chủ tế. Bàn lễ đặt ở một công trình xây dựng đơn giản ở cuối nghĩa trang; không phải là một nhà thờ, nhà nguyện hay đền thánh gì.
Hiếm ai biết, khó ai nghĩ nơi đây từng có một nhà thờ vì lúc ấy đã không còn vết tích. Chuyện gì đã xảy ra với ngôi nhà thờ Công giáo đầu tiên ở làng Chí Hòa này?
Lật mở hồ sơ ngôi nhà thờ đầu tiên ở làng Chí Hòa
Quay trở lại ngôi nhà thờ trên đất Thạnh Hòa xưa (nay là khu trung tâm Ông Tạ). Nói về một nhà thờ, có lẽ trước hết phải tìm đến nguồn tư liệu của chính các vị linh mục đã từng là cha sở, chánh xứ nơi đó. Chúng tôi may mắn có được ảnh chụp hai bản tài liệu đánh máy trên giấy pơluya lưu ở văn khố Tòa Tổng Giám mục về Tiểu sử họ đạo Chí Hòa.
Một bản bốn trang có lẽ thực hiện khoảng năm 1980-1985 (vì vẫn ghi tên đường Thoại Ngọc Hầu chứ chưa là Phạm Văn Hai); giọng văn Nam bộ (như vẫn gọi Tân Sơn Nhứt). Bản sau gồm ba trang, tương tự bản kia, nhưng nói rõ hơn vị trí, quy cách, diện tích hai ngôi nhà thờ Thạnh Hòa và Chí Hòa. Bản này có lẽ thực hiện sau 1985, khi đường Thoại Ngọc Hầu đã đổi tên là Phạm Văn Hai và chủ quan tôi nghĩ đã được chỉnh sửa, bổ sung một vài chi tiết từ bản trước.
Tác giả hai bản tư liệu này là ai? Ý kiến cá nhân, tôi mạo muội nghĩ đó là linh mục Gioan Baotixita Hồ Văn Vui, từng là chánh xứ Chí Hòa sau 1975. Cha Vui sanh năm 1917; quê Đức Hòa, Long An; là người Việt Nam đầu tiên được bổ nhiệm là linh mục chánh sở Nhà thờ chánh tòa Đức Bà Sài Gòn (1955-1957). Cha là một nhà nghiên cứu uyên bác, từng trong nhóm 18 chính trị gia nổi tiếng miền Nam lúc ấy ký tên trong “Tuyên cáo Caravelle” 26-4-1960 cảnh báo chính quyền Ngô Đình Diệm về những chính sách độc đoán của chế độ.
Một góc bản đồ “Environs de Saïgon 1900” (Vùng phụ cận/ngoại ô Sài Gòn năm 1900). Giao lộ bên trái là ngã tư Bảy Hiền hiện nay. Giao lộ bên trên (có ghi chú “Tombeau de l’évêque d’Adran”: mộ giám mục (hiệu tòa) Adran, tức Lăng Cha Cả). Khu mộ đã bị giải tỏa giữa thập niên 1980, nay là một nút giao thông. Ngã ba giữa ảnh bên dưới nay là ngã ba Ông Tạ. Bản đồ này ghi nhận có một nhà thờ (église) ở một khu vực cao ráo nay là chợ Phạm Văn Hai. Khu vực có nhà thờ Chí Hòa (hiện nay - góc trái bên dưới) còn là một trang trại (ferme). - Ảnh tư liệu.
Trong bản ghi chép này, cha Vui có nhắc đến một tường thuật của cha Phêrô Thái. Linh mục Phêrô Đặng Ngọc Thái sanh năm 1877, vốn là chánh xứ Chí Hòa hai năm 1942-1943. Xin mạn phép trích đăng một phần (nguyên văn, chỉ chỉnh sửa vài quy cách theo chính tả hiện nay):
“1/ Thành lập: Năm 1890, một họ đạo nhỏ được thành lập nhờ công sức của linh mục bổn sở Tân Định là Génibrel (cố Thượng). Đó là nhà thờ Thạnh Hòa. Nhà thờ này bề ngang 6m00, bề dài 20m00, mái lợp ngói âm dương, vách đóng ván bố kho, ở trên một khoản đất thuộc làng Tân Sơn Nhứt, nơi đất thánh của Tân Định, bây giờ là đường Phạm Văn Hai, quận Tân Bình. (…)
2/ Dời địa điểm: Năm 1900, Đức cha Lucien Mão (Mossard) đứng ra xây cất một nhà thờ mới khác, ở một địa điểm khác, bên làng Phú Thọ Hòa kế cận, số đất này lối 600 hecta, do lòng quảng đại của ông bà Lê Phát Đạt dâng cúng cho địa phận.
(…) Năm 1903, xây cất xong nhà thờ và nhà cha sở, Đức cha ra lệnh dời họ Thạnh Hòa về Chí Hòa, và đặt Đức Mẹ Môi Khôi làm bổn mạng”.
Chí Hòa bấy giờ thuộc làng Tân Sơn Hòa, một làng mới được tách ra khỏi làng Tân Sơn Nhứt và Phú Thọ Hòa. Ngôi nhà thờ đầu tiên 1890 ở làng Chí Hòa, đầu tiên ở khu Ông Tạ như vậy đã phần nào rõ “tông tích”. Và ngôi nhà thờ ấy đã không còn hơn thế kỷ nay, sau khi một ngôi thánh đường mới được xây dựng, thay thế năm 1903.
Chí Hòa, ngôi thánh đường hơn trăm năm của Gia Định xưa
Nhà thờ Chí Hòa là ngôi thánh đường nhiều người ở Sài Gòn - Gia Định xưa đều biết này có “anh em, bà con ruột thịt” với ba ngôi thánh đường Sài Gòn xưa nổi tiếng: Chợ Quán, Tân Định, Chợ Đũi (tức Huyện Sỹ); thậm chí như “anh em song sinh” với nhà thờ Huyện Sỹ.
Nhà thờ Chí Hòa hiện nay là một trong bảy ngôi nhà thờ, tu viện xưa nhất đất Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn: Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn (1863), nhà thờ Tân Định (1876), nhà thờ Đức Bà Sài Gòn (1880), nhà thờ Chợ Quán (1896), nhà thờ Cha Tam (1902), nhà thờ Chí Hòa (1903) và nhà thờ Huyện Sỹ (1905).
Lược sử giáo xứ Chí Hòa ghi: “Họ Chí Hòa khởi đầu là họ nhánh của họ Chợ Quán (1771-1890) được Đức Giám mục Phêrô Bá Đa Lộc quy tụ, sau đó là họ nhánh của họ Tân Định”.
Cơ duyên “Đức Giám mục Phêrô Bá Đa Lộc quy tụ” là do khi đến khu vực Chí Hòa, nay là Lăng Cha Cả, lúc ấy thuộc làng Tân Sơn Nhứt, ngài đã gặp một số giáo dân ở đây. Tuy nhiên, không rõ khi là họ nhánh của Chợ Quán, khu vực này có nhà thờ chưa?
Có lẽ chưa. Kỷ yếu họ đạo Tân Định năm 2001 ghi: “Địa bàn An Hòa (phạm vi của nhà thờ Tân Định) lúc này rất rộng, gồm có những làng: Tân Định, Hiệp Hòa, Đất Hộ (Đakao), Phú Nhuận, Chí Hòa và Tân Sơn. Tại Chí Hòa có lăng Đức Cha Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine), thường gọi là Lăng Cha Cả. Cha Le Mée thỉnh thoảng đến đó dâng lễ cho các bổn đạo chung quanh tới dự, vì họ sống xa nhà thờ chánh”. Nghĩa là trước đó giáo dân xung quanh Chí Hòa, bao gồm Thạnh Hòa, dự lễ tại Lăng Cha Cả.
Chỉ biết khi trở thành họ nhánh của họ Tân Định thì 14 năm sau khi xây dựng xong nhà thờ Tân Định128 (1890), ngôi nhà thờ đầu tiên trên đất Gia Định có mặt ở khu vực nay là chợ Phạm Văn Hai (Tân Bình).
128 Khánh thành ngày 16-12-1876, trước nhà thờ Đức Bà Sài Gòn bốn năm.
Nhà thờ lúc ấy mang tên Thạnh Hòa do nằm trên đất Thạnh Hòa, một thôn của làng Tân Sơn Nhứt với khuôn viên khá rộng. Tư liệu họ đạo Tân Định cho biết đất thánh (nghĩa trang) Tân Định có từ năm 1905, tức sau hai năm nhà thờ Thạnh Hòa dời về ngôi nhà thờ mang tên Chí Hòa hiện nay. Nghĩa trang họ Tân Định này tồn tại đến giữa thập niên 1980 với hơn 4.000 mộ; có hàng rào xây bao bọc xung quanh, cao hơn hai mét, tách biệt hẳn với bốn nghĩa địa khác bằng một con đường đất rộng hai, ba mét đi vào chùa Hải Quang (nay chùa vẫn còn).
Đất thánh này cách nhà tôi chừng trăm mét. Đến giữa thập niên 1980 vẫn là đất của giáo xứ Tân Định, không thuộc giáo hạt Chí Hòa của nhiều giáo xứ khu vực này. Lúc đó, cứ đến ngày lễ Các Thánh của Công giáo, các linh mục nhà thờ Tân Định đến làm lễ ở đây. Tôi vẫn thường ra đó dự lễ.
Building Đại Lợi đang xây giữa thập niên 1960 (hiện vẫn còn). Trước building là khu vực nghĩa trang Tân Định vốn có tiền thân là nhà thờ Thạnh Hòa xây dựng năm 1890. Khu nghĩa trang này đã giải tỏa năm 1984 (nay là chợ Phạm Văn Hai). Trong nghĩa trang xưa có ngôi nhà nguyện ở giữa mỗi dịp lễ Các Thánh đều có các linh mục giáo xứ Tân Định về làm lễ mà tôi thỉnh thoảng có dự. Nhà tôi lúc ấy là dãy nhà ngói bên dưới, góc trái ảnh. - Ảnh tư liệu.
Nhà thờ mới, họ đạo mới
Trước năm 2000, có một con đường ở giáo xứ Nghĩa Hòa (nay là Phường 7, Quận Tân Bình) mang tên Lê Phát Đạt (nay là đường Đặng Lộ), gần nhà thờ Chí Hòa. Không phải ngẫu nhiên, một số tư liệu hiện nay trong xã hội, sách báo lẫn văn bản của các giáo xứ cho rằng: Đất đai, nhà thờ Thạnh Hòa nằm trong khu đất 600 hecta của ông Huyện Sỹ Lê Phát Đạt dâng cúng. Riêng báo Nam Kỳ Địa Phận, số 515, ngày 26-12-1918 (trang 807) và số 516, ngày 1-1-1919 (trang 07) ghi là 480 hecta. Lý do: họ nhánh Thạnh Hòa lúc ấy là một họ đạo nghèo với khoảng 100 giáo dân. Ông Huyện Sỹ dâng cúng đất để nhà thờ cho bà con nông dân thuê trồng trọt, giải quyết chi phí sinh hoạt trong họ đạo. Chi phí xây dựng ngôi nhà thờ này cũng do ông Huyện Sỹ dâng cúng.
Ông Huyện Sỹ Lê Phát Đạt là ông ngoại của Nam Phương hoàng hậu, vị hoàng hậu cuối cùng của Nhà Nguyễn, vợ vua Bảo Đại. Ông là người giàu nhất Sài Gòn xưa, thuở Pháp mới vô. Người ta thường truyền miệng: “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Định”.
Tài liệu đánh máy lưu trong văn khố của Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn chép: “Năm 1903 việc xây cất xong. Đức cha Mão ra lịnh dời số bổn đạo từ nhà thờ Thạnh Hòa sang nhà thờ mới này để lo bề khai thác đất đai lấy huê lợi nuôi dưỡng các cha về hưu”.
Tức những giáo dân đầu tiên của họ đạo sau này là Chí Hòa này vốn ở khu vực hiện nay là chợ Phạm Văn Hai, đường Bùi Thị Xuân… chuyển sang. Sở đất và chi phí xây dựng nhà thờ Thạnh Hòa mới chắc chắn được dâng cúng trước khi ông Lê Phát Đạt qua đời năm 1900. Các tài liệu ghi nhận việc xây dựng này thống nhất: Khi chuẩn bị xây dựng nhà thờ Huyện Sỹ, nghe thông tin nhà thờ Thạnh Hòa xuống cấp mà họ nhánh Thạnh Hòa này nghèo quá, không làm gì được, ông Lê Phát Đạt quyết định giảm quy mô thiết kế ban đầu của nhà thờ Huyện Sỹ từ năm gian, cắt bớt một gian còn bốn gian và dùng số tiền dư ra để xây nhà thờ Chí Hòa.
Nhà thờ Huyện Sỹ khá phức tạp, cầu kỳ nên mãi năm 1905 mới khánh thành. Trong khi đó, tính cấp bách lẫn đơn giản của ngôi nhà thờ mới khiến trước đó hai năm, năm 1903, nhà thờ Thạnh Hòa đã xây dựng xong. Hai bản tài liệu đánh máy trong văn khố lưu ở Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn ghi rõ điều này.
(Thực tế nhà thờ Huyện Sỹ khởi công năm 1902, vậy khó có thể hình dung nhà thờ Chí Hòa hiện nay xây xong trước đó 12 năm: 1890 - như hầu hết các thông tin hiện nay về năm xây dựng xong nhà thờ Chí Hòa).
Tư liệu trong văn khố của Tòa Tổng giám mục Sài Gòn ghi: “Nhà thờ mới này xây theo kiểu nhà thờ trong nhà thương Đồn Đất, bây giờ là bệnh viện Nhi Đồng 2, Quận 1. Sở phí xây cất lên tới 30.000 đồng, lấy bớt ra trong số tiền xây cất nhà thờ Chợ Đũi, vì thế nhà thờ này mất đi một căn. Nhà thờ Chí Hòa có diện tích ngang 18m, dài 40m, cao 18m”.
Và vị trí ngôi nhà thờ mới này, dù vẫn tên Thạnh Hòa nhưng lúc đó đã không ở thôn Thạnh Hòa (thuộc làng Tân Sơn Nhứt) mà giờ đã thuộc làng Phú Thọ Hòa.
Về tổng thể, nhà thờ Chí Hòa không hoành tráng, cầu kỳ như một số nhà thờ xưa của Sài Gòn cùng thế hệ; cũng theo phong cách kiến trúc Gothic Pháp như nhà thờ Huyện Sỹ, nhà thờ Tân Định… nhưng đã được giản lược nhiều. Dễ hiểu thôi, sở phí xây dựng nhà thờ Chí Hòa chỉ bằng một phần mười sở phí xây dựng nhà thờ Huyện Sỹ.
Tuy nhiên, bù lại, khuôn viên nhà thờ Thạnh Hòa rất rộng. Xung quanh nhà thờ còn là hàng trăm hecta đất thuộc sở hữu nhà thờ. Số giáo dân tăng mạnh, từ 100 lên 700 người, do giáo dân xung quanh tìm đến thuê đất canh tác.
Linh mục Phêrô Nguyễn Thông Lý nhận bài sai (quyết định bổ nhiệm) làm linh mục chánh xứ tiên khởi của giáo họ mới này. Ban quới chức (ban chức việc) của giáo họ Chí Hòa với các ông trùm (đứng đầu ban quới chức), câu (phụ tá của ông trùm, lo đốc xuất công việc), biện (người đứng đầu một địa sở, một sở biện, một khu vực trong giáo họ; tương đương giáo khu) đa số là những gương mặt giáo dân từ Thạnh Hòa (cũ) sang.
Nhà thờ Chí Hòa còn gọi là Chí Hòa Nam, như một khẳng định sinh hoạt, lề lối tôn giáo theo phong cách miền Nam, cho tới nay vẫn là cách hành lễ, đọc kinh, sinh hoạt tôn giáo… rất riêng, rất Nam bộ, rất Sài Gòn - dù từ 1954, hàng loạt cộng đoàn giáo dân Bắc 54 tràn ngập khu vực. Thậm chí hàng ngàn giáo dân mới của giáo xứ Chí Hòa là dân Bắc 54. Và những giáo dân Bắc 54 này hoàn toàn hòa nhập một cách vui vẻ, thoải mái với cách hành lễ rất Nam bộ, rất Sài Gòn này, đến tận hôm nay. Nhà thờ cách Trường Tiểu học Mai Khôi tôi học hồi đầu thập niên 1970 dăm chục mét. Cứ sau giờ học, đám học trò chúng tôi lại kéo nhau vào đây chơi, Noel thì rủ nhau đi ngắm hang đá bên hông nhà thờ.
Ông bà Huyện Sỹ và cha mẹ, con cái được chôn cất, dựng tượng ở một số nhà thờ khu Sài Gòn - Gia Định
Con trai ông Huyện Sỹ là Lê Phát An cũng là người dâng cúng đất, toàn bộ chi phí xây dựng và bàn ghế, vật dụng trong nhà thờ Hạnh Thông Tây (1921). Để nhớ ơn, các giáo xứ Huyện Sỹ, Hạnh Thông Tây, Chí Hòa đều có chôn gia đình, thân nhân ông Huyện Sỹ ngay ở gian cung Thánh nhà thờ.
Nhà thờ Huyện Sỹ chôn cất vợ chồng ông Huyện Sỹ (1841-1900) phía sau gian cung Thánh, với hai bức tượng điêu khắc tinh xảo trên mộ. Tượng toàn thân ông Huyện Sỹ kê đầu trên hai chiếc gối bằng đá cẩm thạch, đầu đội khăn đóng quay về cung Thánh nhà thờ, mình mặc áo dài gấm hoa văn tinh xảo, hai tay đan vào nhau trước ngực, chân đi giày. Đối diện bên kia là tượng vợ ông, bà Huỳnh Thị Tài (1845-1920), tóc búi, cũng dựa trên hai chiếc gối, hai tay nắm trước ngực, mặc áo dài gấm, chân mang hài.
Qua cổng sắt nhỏ là hai bức tượng bán thân bằng thạch cao của hai ông bà đặt trên vách đối diện nhau. Phía trong cùng là hai tượng bán thân bằng thạch cao của vợ chồng người con trai ông Huyện Sỹ là Jean Baptiste Lê Phát Thanh (1864-1948) và vợ là Anna Đỗ Thị Thao (1865-1922). Vợ chồng người con ông Huyện Sỹ được đặt tượng ở đây do dâng cúng hai quả chuông đồng (trong số bốn quả chuông trong nhà thờ này), đặt đúc bên Pháp.
Nhà thờ Hạnh Thông Tây chôn vợ chồng ông Lê Phát An ở hai bên cánh nhà thờ. Cả hai pho tượng điêu khắc kỳ công, đậm chất “Nam bộ”. Trước mộ ông Denis Lê Phát An là tượng người vợ mặc áo dài Nam bộ, cầm bó hoa quỳ gối ôm choàng bia mộ. Ngược lại, trước mộ của bà Anna Trần Thị Thơ có tượng người chồng đang quỳ cầu nguyện và thương tiếc. Cả hai bức tượng đều được điêu khắc sống động, chi tiết trên đá cẩm thạch trắng. Riêng bia mộ bằng đá hoa cương, trên bia mộ ghi tên hai người thực hiện: kiến trúc sư người Pháp Paul Ducuing (cũng là người thực hiện hai pho tượng ở lăng vua Khải Định ở Huế) và nhà điêu khắc người Pháp A. Contenay.
Trong nhà thờ Chí Hòa cũng có mộ bà Mađalêna Phạm Thị Tin, thân mẫu ông Huyện Sỹ, mất năm 1886, thọ 69 tuổi và mộ cô Maria Lê Thị Hòa, con gái ông Huyện Sỹ, mất năm 1891, hưởng dương 10 tuổi.