• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Giải thoát
  3. Trang 5

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 40
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 4
  • 5
  • 6
  • More pages
  • 40
  • Sau

Chương hai

Chiếc máy bay nghiêng về bên trái và tiếp tục lao xuống. Bên dưới cái mũ trùm, Gibson Vaughn nghe như có tiếng vỗ phành phạch trong tai. Một chi tiết nhỏ, nhưng chỉ cần một chi tiết đó đã làm anh tin rằng tất cả những điều này thực sự có thể là thật. Làm sao có thể tưởng tượng ra được sự thay đổi áp suất trong cabin cơ chứ? Anh hy vọng điều đó là không thể.

Trong suốt thời gian bị cầm tù, đã không biết bao nhiêu lần anh tưởng tượng mình được thả ra. Đó là trò lừa bịp tàn nhẫn nhất mà tâm trí anh đã “chơi” anh và giờ anh sợ rằng đây chỉ là một trong những sản phẩm của sự hoang tưởng đó mà thôi. Nó khiến anh sợ rằng anh không thể phân biệt được một cách dễ dàng sự hoang tưởng này với sự hoang tưởng khác. Bối rối với điều đó, mặc dù trong tâm tưởng, anh hiểu rằng rồi sẽ đến lúc anh mất trí, anh vẫn không thể khuất phục được sự hoang mang của mình. Ngồi trên ghế, anh ngả người về phía trước để rướn căng ra khỏi xiềng xích trói chặt cổ tay và mắt cá chân. Bàn tay anh râm ran khi những cảm giác ùa về những ngón tay. Cảm giác đó rất thật. Nó phải là thật chứ nhỉ?

Lưỡng lự trong một khoảnh khắc, anh vẫn không thể nhận ra họ đã ở trên không trung bao lâu rồi. Những kẻ bắt giữ đã cho anh một liều thuốc an thần để trấn an anh và trước khi liều thuốc hết tác dụng, họ đã ở trên không rồi. Đó quả là một ân huệ lớn, vì nó đã bảo vệ tâm trí của anh trước những tác động quá mạnh, quá sớm. Sau một thời gian quá dài bị giam hãm trong cô tịch, thế giới bên ngoài căn khám của anh đã trở thành những thứ dễ gây tổn thương – một sự quá tải của những xúc cảm tàn bạo. Nó đã khóa chặt những giác quan của anh, choáng ngợp lấy anh và lúc đầu anh đã chống lại những người canh gác như một kẻ điên loạn. Những động chạm đơn giản của con người với anh giống những ngọn lửa bỏng rát trên làn da; giọng nói của con người không khác gì tiếng máy khoan của nha sĩ trên hàm răng giòn. Trớ trêu thay, đó lại là tất cả những gì anh từng ao ước được có. Phải cần đến ba gã đàn ông khóa khớp đè anh xuống đất và trấn tĩnh anh.

Hai bàn tay chắc nịch đè lên vai anh, ấn anh ngồi xuống dưới ghế, kiểm tra sức căng ở các chỗ khóa xích và thắt chặt dây an toàn. Nhịp rung của hệ thống hạ cánh thủy lực tạo nên những tiếng ầm ầm khi máy bay hạ bánh để chuẩn bị đáp xuống đường băng. Cảm giác đó cũng thật. Nỗi sợ hãi và phấn khích quét qua tâm trí anh khi chiếc máy bay chuẩn bị hạ cánh. Anh chẳng biết đó là nơi nào và thậm chí là tại sao, nhưng là cái gì đó mới mẻ, và thế là đủ.

Duke Vaughn khịt mũi từ ghế cửa sổ. “Con tin vào những thứ đó chứ? Chỉ là một trò lừa thôi, con trai ạ. Họ cho con bay vòng tròn. Giờ con sẽ bị tống vào cái khám cũ. Để khuất phục con.”

“Con đã sụp đổ từ lâu rồi.” Tiếng Gibson thì thầm từ trong mũ trùm.

Chiếc máy bay chạm bánh xuống đường băng. Gibson ngã chúi về phía trước khi cỗ máy giảm độ cao trong tiếng gầm rú. Khi nó mới vừa dừng lại, những cánh tay nhấc Gibson khỏi ghế và đẩy anh vào lối đi. Anh lết về phía trước bằng những bước nhát gừng với đôi chân bị cùm. Một cơn gió lạnh cắt qua làn áo mỏng của anh. Gót chân anh khuỵu xuống, rên rỉ như một con chó bị đánh đập và vật lộn cưỡng lại cánh cửa đang mở, chắc rằng chúng sẽ ném anh xuống đất từ cửa máy bay. Một bàn tay kẹp lấy sau gáy anh; một giọng nói chẳng hề thiện chí bảo anh hãy bình tĩnh lại. Gibson nhớ ra rằng chiếc máy bay đã dừng lại. Làm sao anh có thể quên béng việc đó được chứ?

Bàn tay ghì ở cổ dẫn anh xuống sân bay. Anh vấp ngã ở bậc thang cuối cùng, dù đã cố gượng dậy nhưng rồi vẫn nằm sóng soài trên đường nhựa. Cách máy bay một quãng ngắn, một giọng nói ra lệnh cho anh quỳ xuống, dúi anh khuỵu gối xuống một cách thô bạo khi anh chậm làm theo. Trong gió, anh nghe thấy tiếng cạch. Anh chuẩn bị đón nhận viên đạn sẽ chấm dứt cuộc đời anh. Nhưng thay vào đó, xiềng xích rời ra. Giọng nói kia lại bảo anh nằm úp mặt xuống đất và luồn những ngón tay ra sau gáy.

Đường băng là một khối lạnh băng giá, đến nỗi làm cho xương khớp anh đau đớn. Nhưng đó là sự đau đớn đầy sung sướng, nỗi đau còn được sống. Bên ngoài. Không xiềng xích. Một phép màu. Cánh cửa đã mở ra. Cơn gió thổi lạnh buốt vào tang áo mỏng của anh và anh cười điên dại trong cơn lạnh đó. Động cơ máy bay gầm lên một tiếng rồi bắt đầu mất hút ở phía xa.

“Có ai không?” Anh gọi với ra. Không lời đáp.

Anh gọi toáng lên lần nữa, rồi thêm lần nữa. Gibson loạng choạng đứng dậy, hất cái mũ trùm ra khỏi đầu. Ánh sáng ban ngày, hắt lại từ đống tuyết bị gạt ra rìa đường băng, đốt cháy đôi mắt anh. Anh giơ tay che mặt, nheo mắt từ từ để thích nghi với ánh sáng chói lòa ấy. Anh nháo nhác nhìn xung quanh, kiếm tìm những kẻ cai ngục, nhưng chẳng thấy một ai. Ở cuối xa đường băng, một chiếc máy bay đang vút cao dần trong bầu trời buổi sáng. Bầu trời. Ơn Chúa, bầu trời. Anh choáng váng chao đảo khi cố gắng định hình nó. Những chiếc kính vạn hoa nổ tung trước mắt anh. Tim thắt lại. Anh ngã khuỵu và quỳ xuống trước sự hùng vĩ của buổi sáng mùa đông xám xịt, chắc rằng cái chết đã cận kề.

Khi cơn buồn nôn đi qua, tầm nhìn rõ hơn rồi, anh mạnh dạn mở mắt ra. Cách đó trăm thước, có một căn nhà mái tôn và phía bên ngoài, có một căn phòng. Tuyết trên mặt đất có lẽ phải dày đến sáu mươi centimet, màu vàng muối. Sân bay nhìn có gì đó quen thuộc, nhưng tâm trí anh đang rối tung và anh không thể trấn an được chính mình. Dưới chân, anh thấy chiếc túi vải thô cũ của mình, chiếc túi mà anh đã mang theo khi bị CIA tóm cổ. Rùng mình, anh quỳ xuống, mở khóa chiếc túi và quờ qua mớ quần áo bẩn thỉu. Tất cả đều là những quần áo mùa xuân mỏng manh mà anh đã mang đến West Virginia từ cả thế kỷ trước. Rất ít khi dùng được vào mùa đông, nhưng anh khoác lên cái áo gió vì tất cả những gì tốt nhất mà nó có thể giúp được lúc này.

Mũ lưỡi trai của Gấu bị mất, anh đâm ra hoảng hốt cho đến khi anh nhớ ra được rằng anh đã để nó lại ở chỗ Gavin Swonger. Anh ước gì nó ở đây lúc này; anh nghĩ nó nhất định sẽ có thể cho anh biết liệu điều này có phải thật hay không. Điều này có phải là thật hay không? Có thật là anh đã đi qua lối đi bí mật mà anh cũng chẳng nhận ra việc đó? Anh mò tay vào trong túi xách lần nữa nhưng chỉ thấy một cái túi nhựa. Bên trong là ví, chìa khóa và điện thoại của anh. Chiếc điện thoại đã hết pin từ lâu cũng chẳng được sạc thêm. Anh cất điện thoại vào túi, chỉ để thấy giống bình thường.

Bên kia đường băng, một người đàn ông đội mũ trùm đầu khác cũng đang bò lổm ngổm trên đôi chân của gã. Người đàn ông cũng đang nằm úp mặt trên đường băng, nhưng bộ đồ màu xám của gã ta là sự ngụy trang hoàn hảo. Gibson nhìn hắn kéo mũ trùm đầu ra và bối rối nhìn xung quanh. Ngay cả dưới mái tóc dài ngang vai và bộ râu xồm xoàm, Charles Merrick vẫn không thể bị nhầm lẫn với một ai khác. Người cuối cùng mà Gibson mong đợi, nhưng, khi nhìn thấy gã ta, Gibson biết rằng đó không thể là ai khác. Kẻ đã kết án anh vào buồng giam chết tiệt đó.

Hai người đàn ông, đứng trên đường băng độc đạo, mái tóc hoang dã bay như múa trong gió, hẳn là một cảnh tượng kỳ lạ. Tuyết rơi thưa thớt trên đường băng khi họ nhìn nhau như những tay súng vô hại. Trong những ngày đầu bị giam cầm, Gibson đã nghĩ về những điều anh sẽ làm nếu gặp lại gã. Nhưng khi thời gian trôi qua, cảm quan của anh về Charles Merrick ngày càng ít đi. Cha của anh đã lập luận rằng người đàn ông đó là một con vật và đã làm những gì mà một con vật sẽ làm khi bị dồn vào đường cùng. Sẽ thật ngu ngốc khi mong đợi bất cứ điều gì khác biệt; sự đổ lỗi thuộc về nơi khác. Với những người lẽ ra phải biết nhiều hơn. Với CIA và người đàn ông tự xưng là Damon Washburn.

“Mày!” - Giọng Merrick vọng lại từ những tán cây xung quanh sân bay.

Cây…Gibson nhận ra nơi anh đã bị mang tới. Lần cuối cùng anh nhìn thấy nơi này là vào mùa xuân, giờ anh đã không còn nhận ra nó nữa. Anh trở lại West Virginia – Sân bay Dule Tree. CIA đã ném hai người xuống nơi đã bắt họ, và đã bao lâu rồi thì chỉ có Chúa mới biết. Sáu tháng chăng?

Hay một năm rưỡi? Hay lâu hơn? Điều gì đã bảo đảm cho họ được thả ra? Tâm trí anh cảm thấy như không đủ khả năng để giải câu đố đó. Hơn thế, anh cũng chẳng thèm quan tâm. Anh được tự do và có thể nghĩ tới những nơi sẽ tới hơn là cứ đứng ở trên đường băng với Charles Merrick, suy tính về việc được thả ra.

Thực sự, chỉ có một nơi anh muốn đến. Chỉ có một người anh muốn gặp. Ellie. Con gái anh giờ bao nhiêu tuổi rồi? Anh đã bỏ lỡ bao nhiêu dịp sinh nhật của con bé? Câu hỏi đó đã kéo anh ra khỏi vòng quán tính. Không nói một lời, anh xách chiếc túi vải thô lên vai và quay lưng lại với Charles Merrick. Anh chẳng có mối bận tâm gì với gã đó. Ở rìa đường băng, anh leo qua bờ tuyết và khởi hành qua bãi đất trống nhắm tới văn phòng sân bay, có lẽ là để gọi một cuộc điện thoại. Tuyết dày đến đầu gối và phải mất những sải chân dài để phá vỡ lớp vỏ băng giá. Với cơ thể rệu rã, anh khó nhọc vượt qua bãi đất phủ đầy tuyết với tiếng thở hổn hển và nhịp tim đập thình thịch nghe rõ bên tai. Duke đi phía sau theo lối mà Gibson đã cắt qua tuyết. Cha anh bắt đầu hát.

“Đức ngài, đêm đã tối hơn rồi,

Gió đã mạnh thêm nữa,

Trái tim lạc lối, không biết tại sao

Chân không thể bước...”1

1 Ca từ trong bài Good King Wenceslas - một bài thánh ca Giáng sinh kể về hành trình của vị vua xứ Bohemia.

“Dừng lại, cha.”

Thỉnh thoảng, Duke sẽ hát. Nếu Gibson không ngăn ngay từ đầu, bài hát sẽ kéo dài mất một lúc, mà anh thì không có tâm trạng nghe những bài thánh ca Giáng sinh. Anh cần phải đi khỏi nơi này. Đi khỏi Charles Merrick. Anh cũng không nghĩ rằng Charles Merrick có cảm giác khác.

Merrick túm lấy anh từ phía sau và làm cho anh ngã sóng soài. Hai gã đàn ông vật lộn với nhau trong đống tuyết, Merrick gằn giọng: “Mày…mày…mày…” Như thể hắn có nhiều điều để nói hơn nhưng không biết bắt đầu từ đâu. Sự giận dữ trong giọng nói của hắn cho thấy rõ điều đó. Gibson luồn lách thoát khỏi sự kìm kẹp của Merrick và cố đứng dậy trong đống tuyết dày. Merrick bò theo, túm lấy và kéo anh ngã ngược trở lại theo kiểu cầm chân túm giật. Hai gã đàn ông lại vật lộn với nhau một trận nữa – một trận chiến yếu ớt như giả vờ. Sau hồi lâu giằng giữ lấy nhau, cả hai gã đều kiệt sức nhanh chóng. Họ đình chiến và nằm vật ra bãi đất đầy tuyết, thở hổn hển và túm lấy nhau như những kẻ đang bị sóng cuốn trôi đi.

Gấu đứng ngay cạnh, một tay cầm quyển The Fellowship of The Ring, đầu nghiêng sang một bên, nhìn Gibson. Cô ấy mỏng manh đến nỗi lớp tuyết dưới chân chẳng hề lún xuống mà chỉ chạm vào chỏm tuyết nổi lên, lơ lửng trên không như một thiên thần. Ống tay áo bằng sợi tơ hồng bay phấp phới trong gió và đôi chân cô đang để trần. Gibson lo rằng cô sẽ chết cóng mất. Cô đặt cuốn sách nằm thăng bằng ở trên đầu và chìa hai bàn tay ra như thể cô ấy đang được treo trên một sợi dây cuốn quanh cổ.

“Đến lúc về nhà rồi,” cô nói. “Ellie đang đợi.”

Gibson gật đầu hạnh phúc, nước mắt chảy ra từ khóe mắt: “Anh đã không biết rằng anh có thể gặp em lần nữa hay không.”

“Anh ngốc quá,” Gấu trả lời.

“Mày sẽ ước thà rằng đừng gặp còn hơn.” Merrick nói, hắn không thấy Gấu và tưởng rằng Gibson đang nói với mình.

“Anh sẽ về chứ?” Gấu hỏi.

Gibson đẩy Merrick ra. Merrick vật ngửa mặt lên, thở khò khè. Gibson đứng lên và rũ tuyết khỏi người. Anh đảo mắt xung quanh tìm Gấu, nhưng không thấy bóng dáng cô ấy đâu cả. Cô đã đi trước rồi. Tốt. Anh hy vọng cô ấy sẽ tìm được nơi nào đó ấm cúng. Gibson với lấy cái túi của mình, mắt nhìn Merrick đầy cảnh giác, đề phòng hắn có thể túm được anh lần nữa.

“Mày đã làm vậy.” Merrick rền rĩ.

Gibson đã chẳng còn hơi sức hay ý định để tranh luận với hắn nữa. Merrick chẳng là cái gì với anh lúc này. Thứ quan trọng bây giờ là trở về nhà với con gái anh. Anh bỏ lại Merrick và lê bước về phía văn phòng sân bay. Anh xem cánh cửa – đã khóa. Không có giờ làm việc ghi trên cửa. Gibson nhìn lách qua cửa sổ nhưng không thấy một cái đồng hồ nào trong bóng tối. Nếu nhìn mặt trời thì có thể đoán là mới qua lúc bình minh. Trời quá lạnh nên không thể đứng đó đợi xem có ai đến làm việc hay không. Nếu hôm nay là Chủ nhật thì anh sẽ phải đợi dài dài. Ánh mắt anh tìm đến cái điện thoại trong văn phòng; anh có thể gọi cho người vợ cũ và báo cho cô ấy biết rằng anh đang trên đường về. Nhưng muốn làm vậy thì phải đột nhập vào trong. Anh mới được trả tự do mà thôi và hành động phạm tội như một kẻ lang thang hè phố, gây nguy hại cho sự tự do đó quả là một việc làm ngu ngốc. Anh còn có hẳn một tội lớn hơn nhiều. Một tội lỗi mà cha anh và anh đã lên kế hoạch với nhau từ trước.

Anh nhìn về phía Charles Merrick lần cuối, hắn ta đang nằm bất động trong đống tuyết. Có lẽ hắn bị trụy tim. Gibson hy vọng không phải vậy. Anh muốn tên tỷ phú thất sủng đó phải sống một cuộc đời dài với hai bàn tay trắng. Đó có lẽ là sự trả thù tốt hơn tất thảy.

Anh mang theo ý nghĩ phấn khích làm anh thấy ấm lòng đó và bắt đầu bước xuống con đường lầy lội của sân bay để trở về nhà.