Ở chân đồi, Gibson dừng lại bên cạnh tấm biển “Sân bay Dule Tree” để tính toán bước tiếp theo. Nhìn lên nhìn xuống con đường, anh chẳng thấy một dấu hiệu nào của sự sống loài người. Nếu anh nhớ đúng, và anh cũng chẳng biết rằng trí nhớ của anh là đúng thật hay không thì cái sân bay chết tiệt này khá là cô lập. Vậy phải đi theo đường nào đây? Trái hay phải? Đường bên phải dẫn trở về thị trấn Niobe. Đi bộ sẽ phải mất hơn một ngày. Sẽ chẳng ai tự nhiên cho anh đi nhờ xe với cái bộ dạng như một người rừng mất trí. Hơn nữa, ở Niobe toàn là những ký ức buồn và anh cũng không chắc rằng anh có được chào đón ở đó hay không.
Bên trái vậy. Về với nhà của anh, với con gái của anh sẽ tốt hơn, nó sẽ giúp anh đi tới chứ không dẫn anh trở lại. Có thể anh sẽ gặp may và sẽ thấy một thị trấn nào đó.
Điều kiện thời tiết khiến cho việc đi lại trở nên chậm hơn - tuyết đã được kéo sang hai bên vệ đường thành những dãy cao, tuyết ở phía trên đã tan chảy xuống và đóng băng lại thành những chiếc răng trắng sắc nhọn. Điều đó có nghĩa là nên đi dọc theo mép của con đường trơn trượt với đôi giày thể thao. Sau khi một chiếc xe đầu kéo xô anh nằm dài trên bờ tuyết để đảm bảo an toàn cho đường chạy của nó, anh băng qua đường và đi ngược lại chiều xe cộ để ít nhất anh có thể nhìn rõ chiếc xe đã suýt giết chết anh. Những cơn gió mạnh dần khi anh bước đi, luồn qua khoảng trống giữa rừng cây sang phía bên kia đường. Gibson nghiêng người về phía trước, tựa vào gió, mắt ngấn nước. Sau một phần tư dặm, anh đã không thể cảm nhận được khuôn mặt của mình nữa.
Anh dừng lại, người run lên bần bật không kiểm soát được và mặc vào từng chiếc áo có trong chiếc túi vải thô. Với chiếc áo phông của Thủy quân lục chiến, anh đã tạo ra một bộ cánh phong cách trùm đầu thật thô thiển để che cổ, miệng và mũi. Anh kéo chặt khóa áo gió lên, thụt hai tay vào trong ống tay áo và lại lên đường. Anh trông thật lố bịch nhưng nó sẽ làm chậm lại quá trình giảm nhiệt của cơ thể.
Đến đoạn đường cong, anh bắt kịp với Gấu, cô đang đứng dưới một gốc cây đọc sách. Váy áo của cô vẫn phất phơ trong gió.
“Em không lạnh sao?” Anh hỏi.
“Em ổn mà.” Cô trả lời. “Đi với em chứ?”
Họ sóng bước với nhau. Không ai nói gì, nhưng có cô ấy đồng hành, anh như được tiếp thêm sức mạnh để đi về phía trước, kể cả khi anh cảm thấy cơ thể anh đang yếu dần. Cơn đói cồn cào và cơn khát cào siết cổ họng anh. Có lẽ, nếu anh nằm lại xuống bãi tuyết, anh sẽ tỉnh lại ở trong căn khám chăng? Sẽ có đồ ăn đợi sẵn ở đó; anh đã từng mong rằng sẽ không bao giờ phải ăn lại những thứ đồ ăn đó thêm một lần nào nữa. Thật là nực cười khi ta tìm ra những thứ đã bỏ lỡ mất.
“Không được nghĩ về thứ đó.” Gấu nói, như đọc được tâm trí anh.
“Anh mệt quá.”
“Anh đã ngủ trên máy bay.” “Ý anh không phải là vậy.”
“Anh đã luôn chỉ nhắc về Ellie. Anh không được bỏ cuộc.” Khi nhắc đến tên con gái anh, anh cảm thấy hổ thẹn. So với tất cả sự phấn khích khi nghĩ đến kế hoạch trả thù Damon Washburn, chính Ellie mới là điều giữ cho anh tiếp tục sống. Mong mỏi được gặp lại con gái là niềm hy vọng duy nhất mà sự giam cầm đã không thể lấy đi khỏi anh, nhưng anh thực sự muốn tìm một lối thoát đơn giản. Anh cúi đầu và lê bước về phía trước cho đến khi anh bị thôi miên bởi sự di chuyển của đôi chân. Anh không còn cảm nhận được chúng nữa, vì thế anh tự trấn an rằng anh có thể thấy đôi chân mình đang hoạt động chăm chỉ.
Khi anh ngước nhìn lên một lần nữa, anh thấy những ngôi nhà đơn sơ lùi xa khỏi lề đường. Anh nên hỏi xin giúp đỡ, nhưng ý nghĩ gõ cửa một căn nhà bất kỳ nào đó làm anh sợ hãi. Gõ cửa tức là phải nói chuyện với ai đó, không phải là Gấu hay cha anh, những người hiểu mọi chuyện mà anh đã trải qua. Những người bên trong những ngôi nhà này sẽ chỉ nhìn thấy một gã điên được bọc trong chiếc áo gió. Hoặc thậm chí sẽ nhầm anh với một nghi can bỏ trốn, điều mà anh cho rằng cũng không khác sự thật là mấy. Đã có những khoảnh khắc lóe lên trong đầu rằng anh sẽ thuyết phục những người chủ nhà, nhưng giờ anh cũng chẳng nhớ nổi như thế nào nữa. Anh sẽ nói gì với họ đây? Anh sẽ bắt đầu như thế nào đây?
Duke Vaughn dựa vào một chiếc xe bán tải cũ hiệu Ford với tấm biển “Cần bán” dán trên cửa sổ xe. Người cha đã chết vẫy gọi anh và Gibson đi xuống lối xe vào nhà. Gấu đã biến mất một lần nữa. Cô và cha của anh đã tránh gặp mặt nhau, anh nhận thấy như vậy. Dạo này họ có vẻ không được hòa hợp với nhau cho lắm.
“Con không thể làm điều này.” Anh nói với cha mình, mắt đánh về phía cánh cửa trước của ngôi nhà.
“Con có biết là trong sự nghiệp của mình, cha đã gõ cửa biết bao nhiêu căn nhà không? Để đề nghị những người hoàn toàn xa lạ bỏ phiếu cho ứng viên của mình?”
Gibson lắc đầu. “Có giống như này không?”
Duke thừa nhận điều đó. “Ta không định nói rằng con vô trách nhiệm. Con thường thích sự thử thách.”
“Đấy không phải là thử thách. Đấy là một điều bất khả thi.”
“Đa số mọi người nói rằng Damon Washburn không thể chạm vào được. Nhưng chúng ta vẫn sẽ làm điều đó. Trước hết, con cứ gõ cửa căn nhà này đi đã.”
“Con sẽ nói gì đây?”
“Con có bao nhiêu tiền mặt trong túi?” Duke nói.
Gibson không biết. Anh lục lọi trong ví và đếm được mười tờ hai mươi đô. Anh không nhớ là mình có số tiền này từ khi anh bị bắt. Một món quà từ CIA ư? Họ thật là rộng rãi, hào phóng khi đưa anh số tiền thôi việc này cho khoảng thời gian mà anh đã phục vụ cho họ. Hai trăm đô-la đó hẳn sẽ không giúp được nhiều cho anh. Anh vẫn còn có những tấm thẻ tín dụng của mình, nhưng chắc là chúng đã bị đóng băng rồi vì đã không thanh toán từ cách đấy rất lâu. Anh nhìn đứa trẻ sáng sủa trên tấm bằng lái xe của mình, lòng dấy lên một cảm giác như nỗi nhớ nhà. Nó vẫn còn hiệu lực cho đến ngày sinh nhật của anh ở năm 2021. Anh thắc mắc liệu nó đã hết hạn sử dụng hay chưa.
Gibson nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của mình trên cửa sổ của chiếc xe tải. Anh cởi bỏ chiếc áo phông quấn quanh đầu xuống, ngắm nghía gã đàn ông đang nhìn lại anh từ trong gương, nửa lạ, nửa quen, quen mà lại lạ. Khuôn mặt của một kẻ lang thang, hoang dã và bị xa lánh. Nhưng ít nhất cuối cùng, anh cũng có câu trả lời cho câu hỏi đã hành hạ anh bấy lâu. Anh vẫn là anh. Đúng là như vậy. Nhưng đó không phải một khuôn mặt mà người ta sẽ mở cửa trước nhà mình để đón chào. Anh trông không phù hợp cho việc làm bạn với con người. Hốc mắt đỏ ngầu như màu đỏ của băng tự hoại. Bộ râu của anh tõe ra như một mớ bụi rậm rối tung thả xuống ngực anh, và mái tóc dài, dày cộm của anh rơi thõng xuống vai. Gibson đã cố gắng chải vài đường vào mớ tóc đó, nhưng tóc của anh tựa như dây thép gai quấn lên trên những ngón tay màu xanh đen của anh.
“Chắc đôi trăm đồng là đủ để con có được thứ này, cưng ạ.” Duke nháy mắt và vỗ nhẹ vào chiếc xe tải. “Nhưng ai mà biết được, có lẽ họ đang có tâm trạng tốt và vui vẻ đàm phán. Chỉ cần đưa họ cái thứ ma lực đó là được rồi.”
“Ồ, con chắc là cái đó sẽ có hiệu quả.”
“Tinh thần phải thế chứ.” Gần đây, người cha của anh chỉ đưa ra những lời mỉa mai trong tình huống phù hợp với anh.
Gibson đi lên lối vào dẫn tới cửa trước, phân vân không biết là anh sẽ tạo ra ấn tượng tệ hơn với một chiếc áo phông quấn quanh đầu hay với kiểu Sasquatch1 đúng bộ. Cuối cùng, anh gỡ chiếc áo phông xuống, mở cánh cửa chắn bão bằng kính ra và bấm chuông. Một cậu bé không quá tám tuổi đã mở cánh cửa bên trong. Một luồng nhiệt lớn tựa bức tường phả ra chào đón Gibson, khiến khuôn mặt anh râm ran. Cậu bé mặc áo phông sát nách và quần soóc, ngước nhìn Gibson từ dưới chiếc mũ bảo hiểm của hãng Cincinnati Bengals.
1 Bigfoot, chân to hay Sasquatch, là tên được đặt cho một loại sinh vật giống như khỉ mà một số người tin rằng sống ở rừng, chủ yếu ở Tây Bắc Thái Bình Dương của khu vực Bắc Mỹ.
“Trông chú không ổn cho lắm.”
Từ miệng thằng bé.
Gibson há miệng, nhưng không nói được lời nào. Anh chỉ tay vào chiếc xe bán tải. Cánh cửa đóng lại và Gibson nghe thấy cậu bé ríu rít gọi ai đó.
“Con sẽ phải làm gì đó tốt hơn là chỉ tay vào mọi thứ theo kiểu như vậy, Tarzan ạ.” Duke nói.
“Con đang cố làm đây.”
Một người phụ nữ ngoài 50 tuổi, nắm cổ chiếc áo choàng tắm và đi ra cửa. Chị ta đang trang điểm dở. Chị ta mở cánh cửa với một tiếng kêu khẽ, ném cho anh một cái nhìn chóng vánh từ trên xuống dưới và hỏi anh có việc gì. Gibson đứng đó trong nỗi hoảng loạn câm lặng, đầu óc trống rỗng. Bất chấp cái lạnh, mồ hôi lăn dài sau gáy anh. Người phụ nữ nheo mắt lại, đang chuẩn bị đóng cửa thì mắt chị ta lại rơi xuống chiếc áo phông trên tay anh.
“Cậu là lính Thủy quân Lục chiến à?” Chị ấy hỏi. Anh gật đầu.
“Mở miệng ra xem nào.” Duke nói.
“Hát tôi nghe bài Hành khúc Thủy quân lục chiến,” chị ấy nói.
“Thật sao, thưa chị?”
“Cậu nghe tôi nói rồi đấy. Và đừng hát từ đoạn mở đầu
Halls of Montezuma, bỏ qua đoạn đó tới khổ thứ ba luôn.”
Anh biết rõ điều đó. Bất kỳ người lính Thủy quân Lục chiến nào cũng đều biết. Họ có thể để anh trong căn khám chết tiệt đó cho đến khi não của anh chỉ còn là một món trứng khuấy nhão nhoét, cho đến tận khi anh chẳng thể nhớ nổi tên mình nữa, nhưng anh vẫn sẽ nhớ rõ từng câu từng chữ trong bài thánh ca của lực lượng Thủy quân lục chiến. Nhưng ý nghĩ phải nói quá nhiều đã biến thành nỗi sợ hãi, làm anh hóa đá. Anh mở miệng ra rồi lại ngậm vào.
“Tôi không có nhiều thời gian đâu.” Người phụ nữ nói. “Con có thể làm được mà.” Duke khích lệ.
Gibson hắng giọng và thốt ra khô khan: “Hiến thân này cho nhân dân và cho Quân chủng chúng ta. Chúng ta tự hào được phục vụ; trong mỗi trận chiến chúng ta chiến đấu vì sự sống. Chúng ta không bao giờ đánh mất lòng dũng cảm của mình. Nếu…”
“Được rồi, thế là đủ.” Lời nói của người phụ nữ dịu lại. “Cậu cần gì hả, con trai?”
“Nhà...” Anh lúng búng.
Chị ta gật đầu như thể biết chính xác nơi mà anh muốn nói đến. “Tôi sẽ cho cậu vào… cậu có làm điều gì ngu ngốc không đấy? Vì tôi sẽ cho cậu một phát súng vào sọ đấy?”
Anh lắc đầu.
“Vậy thì cởi giày ra và vào trong nhà cho ấm người đi.”
“Con đã làm được.” Duke nói, vui mừng tột độ. “Đây là bước đầu tiên, con trai ạ. Cha tự hào về con.”
Anh không có chung niềm hứng khởi với cha mình và đang cảm thấy giống như một đứa trẻ vừa giành được món quà thưởng vì đã thể hiện tốt.
Chị ấy dẫn anh theo lối đi qua sảnh xuống bếp, anh ngồi xuống một cái bàn nhỏ ở đó, sung sướng thưởng thức hơi ấm của căn nhà. Chị ấy mang cho anh một cốc nước và một quả chuối. Anh uống hết chỗ nước trong một ngụm và nuốt chửng quả chuối; mùi thơm từ vỏ chuối khiến anh muốn khóc, đó là thứ đồ ăn thật đầu tiên mà anh được ăn trong bao nhiêu lâu rồi thì có trời mới biết được. Chị ấy lấy lại cái cốc và rót thêm nước vào. Cậu bé nhảy nhót trong bếp, chiếc mũ bóng bầu dục lắc lư trên đầu. Cậu ta quăng một quả bóng tưởng tượng rồi lao ra.
“Tôi cần phải cho thằng bé trở lại trường rồi.” Người phụ nữ cười thầm. “Thằng bé nghịch như tăng động vậy.”
Gibson gật đầu – một vấn đề mà anh biết rõ ngọn ngành. Anh đã từng là một đứa trẻ như vậy khi anh ở tuổi thằng bé. Ellie đã được thừa hưởng điều đó từ anh. Với con bé, ngồi im tức là chạy theo vòng tròn.
“Hôm nay là ngày mấy, thưa chị?”
Người phụ nữ nheo mắt. “Chà … chắc hẳn cậu đã có một trận quá chén rồi. Không biết ngày tháng luôn. Hôm nay là hai mươi sáu tháng Mười hai.”
Anh muốn biết năm nay là năm mấy rồi nhưng sợ rằng điều đó có thể đẩy mọi chuyện đi quá xa. Anh đã lỡ mất ngày lễ Giáng sinh cùng Ellie vào ngày đó. Một cú chơi đểu cuối cùng của lũ CIA. Chà, Ellie và anh vẫn có thể tổ chức lễ cùng nhau. Vẫn chưa quá trễ để làm việc đó. Có đứa trẻ nào mà không nhảy dựng lên vào buổi sáng thứ hai của kỳ nghỉ lễ Giáng sinh đâu chứ?”
“Tôi là Cheryl.”
Gibson ngập ngừng. “John.” Anh nói. Anh không biết tại sao anh lại phải nói dối chị ấy.
“Vậy nhà cậu ở đâu, John?”
“Virginia. Gần Thủ đô. Tôi có đủ tiền để mua vé xe, nếu tôi có thể đến được Morgantown.”
Chị ấy rót đầy nước thêm lần nữa trong lúc suy nghĩ. “Không thể chở cậu đến Morgantown được. Tôi có ca làm lúc mười một giờ.”
“Tôi hiểu. Tôi rất biết ơn…”
“Nhưng tôi có thể thả cậu xuống điểm dừng xe tải ở trên cao lộ I-79. Cậu có thể đi nhờ từ đó.”
Gibson gật đầu đầy biết ơn. Chị ấy để anh lại một mình trong bếp và quay trở lại hoàn thành nốt việc sửa soạn đi làm. Anh đứng dậy để rót thêm nước, đứng cạnh bồn rửa, uống cạn nước rồi rót thêm lần thứ tư. Đồng hồ trên lò vi sóng chỉ “9:42”. Vậy là chín giờ bốn mươi hai phút sáng ngày hai mươi sáu tháng Mười hai. Chỉ là một thông tin đời thường như vậy, nhưng nó là cánh cổng quan trọng đứng giữa chốn địa ngục giam hãm anh bấy lâu với nơi này. Định gọi đó là đời thực, nhưng anh ngưng lại, ít nhất là trong lúc này. Anh vẫn còn chất đầy những hoài nghi.
Trên bức tường phía xa trong căn phòng có treo một tấm ảnh đóng khung cẩn thận của một người phụ nữ đang đứng chào trong bộ lễ phục màu xanh. Anh nâng cốc nước hướng về phía người phụ nữ trong hình.
Semper Fi – Luôn Trung thành.