(Kính tặng các ông Lê Tri Kỷ, Hoàng Dạo, những người bạn vong niên của tôi)
Ông Bảy rủ tôi đi dự một đám cưới. Tôi vừa muốn đi lại vừa không muốn đi. Tính tôi vậy, ngại giơ mặt ở những nơi lạ.
Cầm cái thiệp, vung vẩy, ông Bảy cười, giọng ông lão hơn tám mươi rồi nhưng rổn rảng: “À, hay lắm, cậu đi dự đám cưới này với tôi, rồi tôi sẽ kể cho cậu nghe một câu chuyện kỳ thú. Viết được thành sách thành báo gì không là ở cậu. Nhưng với tôi thì chà, một kỷ niệm... lạ.”
Tôi biết cuộc đời hơn bốn mươi năm làm công an của ông phong phú quá chừng. Chẳng thế mà thủ trưởng của tôi giao tôi nhiệm vụ, ngày hai buổi, có hôm ba buổi, đến nhà riêng, nghe ông Bảy kể lại gì thì ghi nấy. Mấy tháng nay chúng tôi trở thành “bạn vong niên” - như ông nói. Đúng thôi, một ông già hưu trí, sức khỏe còn tráng kiện, mọi thứ trong cuộc đời đều thành đạt, tuy không được hoàn toàn mĩ mãn, bây giờ ngồi hồi ức lại và một cậu cán bộ trẻ, được giao thu thập tài liệu viết sử Ngành, có chút máu me văn chương ti toe định viết tiểu thuyết, nghe chuyện hoạt động của ông Bảy như được coi những bộ phim tình báo ly kỳ. “Hay bác kể trước đi”. Tôi đề nghị. Ông Bảy - bản tính vui hay pha trò nữa, lắc đầu : “Không được, cậu phải chứng kiến tôi đến dự đám cưới rồi về, tôi kể ngay".
Đám cưới được tổ chức linh đình tại khách sạn Hoàng Đế. Tất cả đều sang trọng. Cũng may, tôi ý thức được tính lịch duyệt của ông Bảy nên bộ đồ giày vớ tôi mang cũng không đến nỗi nào. Chỉ có chiếc xe hơi của cơ quan tôi, chiếc Fiat cổ lỗ sĩ, tôi thoáng mắc cỡ một chút khi thấy nó đậu bên cạnh những chiếc xe đời mới. Nhưng không sao, có khi thế lại hợp với bản chất giản dị của một ông tướng công an đã nghỉ hưu.
Ông Bảy vận bộ đồ lớn, cắt khéo, có mang theo một món quà nhỏ mừng cô dâu chú rể. Quà được người nhà chuẩn bị, tôi không biết là thứ gì, chỉ được ông giao là đi sau ôm nó vào hôn trường.
Đợi quan khách hai họ vào gần hết, ông Bảy mới ra hiệu cho tôi tháp tùng vào.
Nhìn thấy ông Bảy, cô dâu xinh đẹp liền reo lên “Ông ngoại kìa!” và kéo lê chiếc váy cưới xúng xính, làm chú rể cũng như những người phụ trợ lúng túng, nhao tới.
Ông Bảy tươi cười, choàng tay ôm cả chú rể cô dâu vào lòng, hôn lên trán họ, rồi nói: “Ông chúc mừng hạnh phúc của hai cháu”. Tôi liền phát hiện một chút ngạc nhiên trên nét mặt chú rể.
Ông Bảy vừa trao quà mừng cho cô dâu thì hai người đàn bà bước tới. Họ là hai mẹ con, nhác trông tôi đoán ngay, một bà khoảng ngoài sáu mươi, một bà khoảng ngoài bốn mươi tuổi. Họ là bà ngoại và mẹ của cô dâu. Hai người đàn bà mời ông Bảy vào hôn trường. Suốt tiệc cưới, bà Tâm Thanh, bà ngoại cô dâu, ngồi tiếp ông Bảy, còn người con - bà Huyền Thanh thì đi tới đi lui, mỗi lần rời bàn lại xin phép ông Bảy và mẹ.
Trong tiệc cưới, câu chuyện của họ xoay quanh những lời thăm hỏi sức khỏe, người thân và một chút nhắc về những kỷ niệm ngày bé của cô dâu, rồi vài nét về gia quyến thông gia và chú rể. Tôi gần như “người thừa” trong câu chuyện của họ. Giả bộ chăm chú đám tiệc nhưng chủ tâm của tôi là để ý bà Tâm Thanh. Bà thật đẹp lão. Vẻ quý phái. Nhưng dễ gần.
Giữa tiệc thì trời đổ mưa. Mưa đầu mùa. Cơn lớn. Tôi có cớ để thỉnh thoảng ngóng ra bên ngoài, qua cửa kính một màn nước trắng xóa.
Ông Bảy và bà Tâm Thanh ăn uống ít, họ trò chuyện nhiều. Phần cuối tiệc, tôi thấy gương mặt họ trầm tư dần. Tiếng nói cũng nhỏ dần đi như chỉ đủ hai người nghe.
Khi ông chủ trò tuyên bố hôn lễ đã đến lúc bế mạc, mọi người lục tục ra về. Ông Bảy quay người nhìn ra ngoài sân và thốt lên một câu: “Mưa kìa...”
Bà Tâm Thanh gật đầu.
*
“Chiều ấy cũng mưa, cậu ạ” - Ngồi vào xe, ông Bảy vô chuyện ngay. Gương mặt ông lúc này hơi bần thần.
“Bữa đó tôi đi công tác có một mình với chiếc xe đạp Si-téc-linh. Đang đi trên đường bò lăn lối Triệu Sơn. Đoạn đường vắng tanh không có bạn đồng hành, mà thời đó thật lâu mới có một chiếc ôtô chạy qua, còn hai ven đường gần như không có nhà dân ở. Bất chợt gặp mưa. Mưa rừng cậu còn lạ gì. Phải dùng từ mưa như trút nước mới đúng. Lại gió nữa chứ. Dù có tấm nilông mang theo nhưng người tôi cũng bị ướt hết, chỉ lo giữ cái sắc cốt đen trước bụng khô ráo là được. Gắng sức đạp, tôi có cảm giác như mình đang vùng vẫy với gió với mưa. Thì cá nhân con người trước thiên nhiên cậu biết nó nhỏ bé như thế nào.
Tôi đạp dưới mưa như vậy gần một tiếng đồng hồ, không rõ là lết trên mặt đường thêm được mấy cây số, thì thấy trước mặt một cái quán. Mừng hơn bắt được vàng.
Dựa con ngựa sắt vào gốc cây phi lao hông quán, tôi bước vào. Một nếp nhà nhỏ lui cui, cột bằng luồng nứa, mái lợp lá cọ. Nửa ngoài là quán, nửa trong chắc để ở. Lúc tôi bước vô quán chẳng thấy chủ đâu, chỉ thấy chỏng chơ hai cái ghế dài đặt hai cạnh vuông góc nhau, trên chiếc bàn nhỏ lỉnh kỉnh mấy cái lọ thủy tinh, cái thì đựng thuốc lào, cái thì chè lam, kẹo vừng, bánh khảo... và có lẽ sang trọng nhất là mấy cái bát sứ Nhật đặt úp.
Cởi tấm nilông treo lên cột xà, tôi ngồi vào ghế lần xắc cốt, thấy mọi thứ khô ráo cả là mừng, liền rút gói Cô-táp, thứ xa xỉ nhất mà tôi không bỏ được, châm lửa hút.
Có tiếng lịch kịch ở nửa bên trong quán, tôi vội lên tiếng: “Cho bát nước chè xanh ông chủ bà chủ ơi”.
“Dạ, vâng ạ”. Tiếng đàn bà con gái còn trẻ, mà giọng nhẹ, trong như giọng đàng ngoài chứ không phải giọng ồm ồ của dân bản xứ. Chắc là dân tản cư. Thanh Hóa lúc bấy giờ là vùng tự do của ta, bà con ngoài Hà Nội, Nam Định, khu Ba tản cư chạy giặc vào nhiều.
Thật là bất ngờ, giữa cảnh hoang dã thế này, trước mắt tôi xuất hiện một người đàn bà quá đẹp, cái kiêu sa nàng không che giấu được. Tôi đoán nàng là thiếu phụ vì lính quýnh bên chân là một đứa bé gái chừng bốn năm tuổi bụ bẫm và có nét mặt giống nàng.
“Nước chè xanh nấu từ sáng giờ nguội rồi” - nàng nhìn tôi, ánh mắt như lóe sáng lên một cái rồi quay đi chỗ khác - “Hay ông dùng bát nước trắng cho ấm bụng”.
“Cũng được cô ạ”.
Nàng cầm chai rượu làm như vô tình lắc nhẹ, sủi tăm, rồi rót ra cái bát sứ Nhật đưa tôi. Nhấp một ngụm nhỏ, khà một tiếng khen ngon, tôi đưa mắt nhìn nàng. Đàn bà, nhất là đàn bà đẹp họ tinh lắm. Nàng tránh cái nhìn của tôi rất khéo: “À, có lạc rang, ông nhắm tạm nhé”. “Vâng, xin cô”. Miệng nói tay tôi liền cầm lọ bánh khảo đậu xanh, lấy hai cái đưa cho con bé con nãy giờ đang phụng phịu sau lưng nàng. “Ê, chú cho”. Nàng như giãy nảy lên: “Dạ không được, cháu nó vừa xơi, ông ạ”. Con bé con cũng liền ngúng nguẩy lắc đầu, tung tăng hai cái bím tóc được buộc bằng miếng vải màu hồng. Nàng bế phốc con bé vào nửa gian trong, thả ra những tiếng nựng đầy tình mẫu tử.
Tôi dân Nam Bộ, lúc chưa tới hai mươi, đang làm công nhân ở xe lửa Dĩ An, cha mẹ bắt lấy vợ, đã có một thằng con trai. Tham gia cách mạng, Tây bắt tù đày, vượt ngục ra, tổ chức bố trí ra ngoài Trung, tham gia cướp chính quyền ở Thanh Hóa. Rồi kháng chiến bùng nổ, đi lại không được, xa vợ con tính ra năm bảy năm nay rồi. Suốt ngày công việc rồi công việc, đúng là nhiều lúc chẳng nhớ gì mái ấm gia đình.
Tự dưng lúc này chạnh lòng. Nhất là sau khi đã uống hết bát rượu sủi tăm nàng rót.
Bên ngoài trời vẫn mưa, không có cảm giác sẽ dứt, sẵn chai rượu trên bàn tôi tự rót cho mình thêm bát nữa. Và cứ trầm ngâm cả tiếng đồng hồ. Bên tai thì ầm ầm tiếng mưa tiếng gió, trước mắt thì cứ hiện lên hình ảnh nhà cửa, vợ con, làng xóm...
Nàng trở ra. Nhìn đồng hồ thấy đã hơn năm giờ chiều tôi chủ động nói:
“Mưa gió thế này chắc ngoài tôi ra không có ai là khách nữa đâu cô ạ”.
“Vâng”.
“Cô tính tiền rồi cho tôi ngồi trú tạm đến khi nào ngớt mưa, tôi đi. Cô nên dẹp quán lo cơm nước cho chồng con được rồi đó”.
“Ông cứ ngồi nghỉ ạ. Quán tôi sơ lược hàng quà, dọn dăm ba phút, mà cơm chiều hai mẹ con có cái niêu nhỏ...”.
“Thế ông xã đâu?...”
Nàng không nói. Linh tính tôi đoán mình vừa đụng đến một cái gì rất riêng tư của nàng. Cả hai như hụt hẫng. Rất nhanh nàng lên tiếng:
“Ông cứ ngồi nghỉ, tôi vào trong xem cháu...”
Tôi “chà” một tiếng. Đường rừng hiu quạnh thế này. Hai mẹ con thiếu phụ trẻ đẹp mỏng mảnh thế kia. Dẫu biết an ninh ở vùng tự do là tuyệt vời, không khí kháng chiến và uy thế chính quyền cách mạng non trẻ đè bẹp ý chí bọn tội phạm hình sự rất ghê. Nhưng... ai mà biết được, có khi kẻ phạm tội không có ý định trước, sắc đẹp của thiếu phụ dễ là nguyên cớ của một trọng tội.
Chưa hết cái lo âu vô cớ, tôi chợt tỉnh sang một khía cạnh khác. Hay nàng là cơ sở của bọn gián điệp, việt gian. Đằng sau nàng có một rào chắn vững chắc? Có thế nàng mới dám ở giữa vùng đèo heo hút gió này chứ?
Tôi đứng dậy, chẳng cần ý tứ nữa, bước đến ngưỡng cửa nhìn vào nửa căn nhà bên trong. Hai mẹ con vừa hú hí với nhau vừa trông lửa nồi cơm trên bếp.
Con bé con thấy tôi bỗng nín cười. Mắt mở tròn, nhìn đăm đăm.
“Cháu lên mấy?” - Tôi hỏi.
“Thưa với ông đi, cháu lên năm” - Nàng nói thay con.
“Cháu tên gì?”
“Huyền Thanh” - Lần này thì tự con bé con trả lời.
“Mẹ cháu tên gì?”
“Tâm Thanh”.
Tôi để ý nàng vụt quay mặt đi.
“Sao lúc nãy chú cho bánh không nhận?”
Con bé lắc đầu:
“Mẹ không cho Huyền Thanh nhận quà của ai cả!”
“Nhưng với chú, chú quý Huyền Thanh lắm.”
“Cháu không biết”
“Thế bố cháu đâu?”
“Cháu không biết”.
“Sao lại không biết?”
Mặt con bé phụng phịu, nó lắc đâu quầy quậy. “Đi hỏi già về nhà hỏi trẻ”, tôi giả bộ chọc tiếp con bé con:
“Hay bố cháu đi làm xa, khuya mới về .
“Không phai... ải...” - Giọng con bé như gào lên.
Cũng lúc ấy thiếu phụ đứng vụt dậy xoay lưng lại phía đứa bé và xấn lại bên tôi, tiếng nhỏ nhưng như gió rít, chắc nàng không muốn cho con bé con nghe thấy: “Bố nó ông giết chết rồi!”
“Ơ... ơ...” Tôi ngớ ra, hỏi lại : “Cô biết tôi là ai mà nói gì kỳ vậy”
“Ông không biết tôi, nhưng tôi biết ông quá, ông là Bảy trưởng ty công an tỉnh này!
Cô ta nói trúng phóc. Tôi liền hỏi: “Thế ông nhà bà?”
“Hoàng Hữu H.”
Tôi khẽ gật.
*
Nghe đến đây cậu tài xế không kìm được nữa liền hỏi: “Sự thật vậy sao bác Bảy?”
Ông già ngả lưng ra ghế đưa hai tay chuốt lại mái tóc quá ít sợi bạc so với tuổi tám mươi của ông.
“Đúng vậy”. Ông Bảy kể tiếp. Hoàng Hữu H. là trí thức, con một viên quan huyện vùng biển Thanh Hóa. Tên này chống phá Cách mạng rất quyết liệt, nhất là khi tụi chúng thành lập lực lượng liên tôn chống cộng, hoạt động dưới sự bảo trợ của Phòng Nhì Pháp và đám linh mục phản động vùng Ninh Bình-Nam Định. Tỉnh ủy và ủy ban Hành chính kháng chiến tỉnh giao nhiệm vụ cho Công an phải triệt quét bọn này, đảm bảo trong sạch vùng tự do của ta. Tôi trực tiếp chỉ đạo phá án. Hoàng Hửu H. bị bắt, Tòa án kháng chiến xử tử hình.
Nhưng thật không ngờ mấy năm sau tôi lại có cuộc gặp mặt “định mệnh” với vợ H .
Thật thà mà nói, sau khi Tâm Thanh nhắc tên chồng tôi hơi choáng váng. Tôi không sợ cô ta trả thù, nhưng bối rối vì chưa tìm ra cách xã giao tiếp. (Lúc này tôi tự trách mình, nãy giờ vui miệng có uống hơi nhiều rượu, đầu óc có phần mụ đi).
Đúng là Tâm Thanh ở thế chủ động, cô ta nói ngay:
- Làm chính trị là thế! Ông thắng thì anh H. chết. Nếu anh ấy thắng thì chắc ông không sống được đến giờ.
Tôi như tỉnh hẳn khỏi cơn mê. Người đàn bà này không vừa đây. Tôi lấy lại thế chủ động:
- Nhưng chắc cô thấy được, chúng tôi là những người chính nghĩa, mục đích tranh đấu của chúng tôi là vì dân tộc, vì lợi ích của đa số nhân dân.
- Các anh làm chính trị, ai chẳng nhân danh dân tộc, đại chúng...
- Nhưng bản chất việc làm ai trúng, ai trật?
- Tôi là người không quan tâm đến chính trị, xin ông miễn cho tôi bình luận.
- Cô sinh ra lớn lên ở cái đất nước này, người như cô chắc được học hành nhiều, chẳng lẽ cô không nhìn thấy những gì xảy ra chung quanh mình?
- Cụ Hồ có được lòng dân chúng hơn!
- Đấy là một lời xác nhận rồi.
- Thì tôi nói, tôi, gia đình tôi không quan tâm đến chính trị. Nghề của chúng tôi là dạy chữ...
Cuộc đối đáp đầy bất ngờ mà lại khá gay gắt như vậy, phần nào cho tôi hiểu hơn về con người cô ta.
Sau một hồi tranh luận, Tâm Thanh tỏ ra mệt mỏi. Gương mặt, dáng điệu bải hoải. Lúc này tôi mới để ý chung quanh, con bé con như chú mèo ướt, ngồi thụp ôm lấy chân mẹ. Bên ngoài trời mưa cũng đã bớt hạt.
Đốt một điếu thuốc lá, phả khói đầy căn buồng nhỏ, tôi đi đi lại lại một hồi.
- Tại sao mẹ con cô lại chọn nơi này sinh sống? Gia đình cô bây giờ ở đâu? - Tôi hỏi, giọng dịu hơn.
Nàng chắc cũng vừa hết cơn xúc động, trở lại bình thường.
- Cậu mợ tôi, anh chị em tôi vẫn ở Hà Nội. Trước Cách mạng, anh H. ra học ở Hà Nội, tôi mê anh ấy nên vào đây làm dâu. Từ ngày anh H. chết, gia đình chồng tôi đối xử với mẹ con tôi quá tệ. Tôi dắt con bỏ quê chồng tính tìm đường ra Hà Nội, nhưng... không đi nổi. Tạm dạt ở đây, vốn liếng ít, không lao động chân tay, tôi mở quán nước ven đường, mẹ con sống qua ngày, đợi đến khi nào Tử thần đến rước thì đi.
- Cô không nên bi quan như thế. Tất cả mọi công dân đang đem sức lực phụng sự cho công cuộc kháng chiến... Mà cô biết ngày thắng lợi đã đến gần.
- Tôi không biết gì cả. Nhưng tôi cũng mong ngày đó lắm. Nếu sống được tôi sẽ về đoàn tụ với gia đình, xin cậu mợ tôi xá tội cho tôi vì tôi đã không nghe lời khuyên của các cụ, bỏ nhà theo trai.
Thấy câu chuyện nên dừng ở đây, tôi nói:
- Dù ngẫu nhiên thì tôi cũng đã gặp cô và biết hoàn cảnh hiện tại của mẹ con cô. Với tư cách là người lớn tuổi hơn, tôi chỉ khuyên cô hai điều, một là phải khách quan nhìn nhận sự việc đã xảy ra, hai là nên quan tâm đến tương lai của mình và con gái. Cô còn trẻ lại xinh đẹp, hãy quên dần chuyện cũ, tìm niềm vui trong cuộc sống. Trước mắt cô nên chuyển về ở những phố thị đông vui, đừng nên ở nơi hiu quạnh như thế này. Bất tiện lắm!
Tôi rút ví lấy tiền đặt lên bàn trả tiền rượu, nói thêm một câu nữa với nàng:
- Con bé Huyền Thanh ngoan lắm, dễ thương lắm, cô phải lo cho nó có một tương lai.
Rồi tôi lại bên bé Huyền Thanh, ôm nó vào lòng, nó không phản ứng gì. Tôi thơm lên mái tóc, lên má nó:
- Khi nào tiện bác ghé qua thăm cháu, nhưng nhớ là phải nhận quà bác cho.
Con bé khẽ gật.
Tâm Thanh đứng lặng nhìn tôi, chắc là cho đến khi tôi mất hút trong bóng tối đang buông dần xuống.
*
Mấy tháng sau nhờ một người quen của tôi giúp đỡ, mẹ con Tâm Thanh chuyển xuống thị trấn Rừng Thông, tuy vẫn bán quán nước lặt vặt vậy nhưng không khí phố xá nhộn nhịp làm cuộc sống tinh thần và vật chất của hai mẹ con đỡ hơn. Những lần đi công tác có dịp là tôi ghé vào thăm, chủ yếu là cho quà và chơi đùa chốc lát với con bé Huyền Thanh. Con bé quý mến tôi lắm.
Rồi một hôm Tâm Thanh chủ động nói với tôi:
- Em phải về Hà Nội thôi. Cả tuần nay ruột gan em như đốt. Sốt ruột lắm.
- Về bằng cách nào?
- Em quen với mấy chị buôn hàng xén lâu vẫn ra Hà Nội chuyển hàng, họ hứa giúp...
Tôi im lặng không nói gì. Tâm Thanh cũng im lặng. ít ngày sau người quen của tôi báo cho tôi biết, mẹ con Tâm Thanh đã bỏ đi rồi. Tôi đành thầm mong chuyến đi của họ chót lọt.
Hai năm sau thì giải phóng thủ đô, tôi được cấp trên điều về Hà Nội. Một hôm tôi đang đi dạo bộ quanh Bờ Hồ Hoàn Kiếm nghe có tiếng gọi “Anh Bảy, anh Bảy”, quay lại thì đúng là Tâm Thanh. Cô nàng thay đổi nhiều so với hồi ở Thanh Hóa. Khỏe mạnh hơn, linh hoạt hơn và có vẻ như trẻ trung hơn. Cô cứ nằng nặc bắt tôi phải đến nhà cô ngay. Tôi rất ngại, lấy lí do là đang đi làm nhiệm vụ. Tâm Thanh hỏi nơi ở, xin tối nay được gặp. Cũng chết, tôi lại kiếm cách chối. Tâm Thanh tinh ý biết tôi ngại không cho biết địa chi, nên chủ động nói: “Em đang ở một hoàn cảnh rất căng thẳng, cần ý kiến giúp đỡ của anh.” Giọng và điệu bộ của nàng tỏ ra hệ trọng. “Hay là anh cho em được quấy phiền anh ít phút. Chúng ta vào Bô-đê-ga ngồi, em thưa chuyện với anh”. Tôi đành chấp nhận.
Vào nhà hàng, tôi gọi hai ly rượu, đề nghị nâng cốc chúc cuộc tao ngộ. Cụng ly nàng nhấp một chút sâm banh và vào chuyện ngay.
“Lúc nào rảnh em sẽ dành một buổi để kể anh Bảy nghe chuyến hành hương từ Thanh Hóa ra Hà Nội. Còn bây giờ em xin kể hoàn cảnh hiện tại của em.” - Nàng nói, có cảm giác như phải tranh cướp thời gian. Nhưng quan sát thái độ, cử chỉ tôi thấy yên tâm đoán chắc thời gian xa nhau vừa rồi nàng có nhiều ưu ái khi đánh giá về tôi. “Sở dĩ lúc mới gặp em đã mời anh Bảy về nhà em ngay vì cậu mợ em là người cực kỳ mê những cán bộ kháng chiến như anh. Lúc em mới ở Thanh ra, em phát hiện hai cụ là cơ sở ngầm của kháng chiến.
Chính vì vậy thời gian sau em kể hết cho hai cụ nghe về chồng em và về anh. Các cụ phục anh lắm. Bây giờ mà gặp chắc mừng lắm.” Nàng nói, tôi chợt nhớ thái độ thận trọng của nàng trước đây ở Thanh Hóa đã biến mất. Bây giờ dẫu đang ở “hoàn cảnh rất căng thẳng” nhưng nàng có vẻ hồ hởi hơn.
“Anh Bảy ạ, em tin anh nên xin anh một lời khuyên, đi hay ở”. Tôi hơi giật mình nhưng nín để nghe nàng nói. “Em sắp có hạnh phúc mới. Anh ấy là bạn học cũ, yêu em từ hồi nhỏ, biết rõ cả chuyện em bị Hoàng Hữu H. “thôi miên tình ái”. Anh ấy chấp nhận hết và rất thương bé Huyền Thanh. Chính ra Tết này chúng em làm đám cưới. Nhưng bây giờ đang trục trặc vì suốt ngày tranh cãi, di cư vào Nam hay ở lại. Gia đình anh ấy thì chắc chắn đi. Em nhớ lại những ngày tao loạn ở Thanh Hóa sợ quá rồi, không dám đi đâu nữa. Cậu mợ em lúc đầu cũng không đồng ý cho em đi. Nhưng gần đây anh ấy viện cớ, nếu ở lại em và bé Huýền Thanh sẽ bị rầy rà vì liên quan đến Hoàng Hữu H. Cậu mợ em đâm ra nghiêng ngả. Hôm nay gặp anh, em mừng quá. Chỉ có anh mới giúp em quyết định được việc này." Tất nhiên là tôi khuyên Tâm Thanh ở lại. Và suốt những năm sau này, với khả năng của mình, tôi đã cố gắng để cuộc sống của cô ấy không bị ám ảnh bởi mấy chữ “có liên quan đến Hoàng Hữu H.” Nhất là với cháu Huyền Thanh, và vì thế khi lớn Huyền Thanh vào Đại học Bách khoa một cách bình thường...
Ông Bảy kể đến đây có vẻ mệt.
Ngẫm một lúc, tôi mạnh dạn hỏi ông Bảy:
“Cho đến khi nào thì chị Huyền Thanh biết sự thật về bác và Hoàng Hữu H.?”
“Nhìn nhận quá khứ cũng cần phải có trình độ và tuổi tác nhất định. Phải sau khi Huyền Thanh có chồng con rồi bà Tâm Thanh mới kể hết sự thật cho Huyền Thanh biết về những điều mà hồi nay nó hiểu lơ mơ. À, cậu có để tai không? Lúc nãy trong bàn tiệc bà Tâm Thanh và tôi có thống nhất là sẽ không cho Kim Thanh biết chuyện cũ ấy nữa. Dĩ vãng chốt lại ở thế hệ tôi - bà nó - mẹ nó là đủ."
Sài Gòn Mùa Mưa 1993