Ngày chuyển về ngôi nhà đang ở hiện nay, việc đầu tiên mình làm là tu sửa gian thờ và đặt ban thờ Đức Phật, Tổ tiên và Thần linh Thổ địa. Phòng thờ chỉ nhỏ vài mét vuông nhưng mình muốn đó không chỉ là nơi thờ tự mà còn là một góc tâm hồn của mình. Nơi đó đủ ánh sáng để soi rõ mặt người nhưng cũng đủ bóng tối để giữ vẻ bí ẩn, thâm u. Nơi đó cần đủ rộng để mình cùng cả nhà có thể sum vầy bái lạy thành kính trước anh linh tiên tổ nhưng cũng đủ hẹp để chạm vào được từng món đồ vật thân thuộc cũ kĩ nhuốm màu thời gian nơi ban thờ. ... Mỗi lần lên đó mình thấy lòng nhẹ nhõm biết bao nhiêu. Mình thường nán lại nơi góc phòng thờ thả tâm hồn về với quá vãng xa xưa, về với những dấu yêu của cuộc đời tưởng đã lùi xa mờ dấu chim tăm cá.
Nên mình yêu thương lắm từng chi tiết nhỏ trên ban thờ.
Nơi đó có ảnh của anh Ba. Gần bốn chục năm rồi, tấm ảnh cũ mờ loang vệt ố. Đây là tấm ảnh hiếm hoi lưu giữ kỷ niệm từ thời anh nhập ngũ. Trong ảnh anh cười hiền khô. Vậy mà, mỗi lần ngắm ảnh, mình cứ đọc thấy đằng sau nụ cười hồn hậu ấy là ánh mắt anh loang loáng nước. Nụ cười hiền mà buồn đến không thể buồn hơn ấy như dự cảm về cuộc đời ngắn ngủi mà quá đỗi trong sáng thánh thiện của anh. Nỗi buồn không giấu được cứ chạy dọc theo khuôn mặt, theo điệu nheo mày, theo từng vệt nhăn. Mình chỉ muốn ôm ấp cái tấm ảnh bé nhỏ ấy như ôm chặt anh vào lòng. Nhiều đêm hốt hoảng giật mình mơ thấy anh từ ảnh bước ra. Anh lại gần mình, xoa đầu và dịu dàng hỏi: Ôi, thằng Thảo có ối tóc bạc rồi này. Vất vả lắm phải không em? Rồi anh móc ví lấy cho mình mấy hào, anh bảo: Đầu hai thứ tóc nhưng vẫn thèm bánh rán, anh biết mà! Cầm lấy tiền anh cho ra hàng thím Thuân mà mua bánh. Đừng thèm bánh quá đến mức thức cả đêm “ủ mưu, liệu kế” móc trộm tiền anh mà tội nghiệp... Vai mình rung lên từng đợt. Anh ơi, anh vẫn thương em như ngày nào hả anh. Anh không hề giận em đâu, anh nhỉ. Anh lẳng lặng gật đầu rồi thoắt cái anh tan vào cõi hư vô như ảo ảnh... Mình ngồi lại thẫn thờ...
Tấm ảnh của anh còn được mình cẩn thận dán vào bìa một cuốn sổ cũ mèm. Cuốn sổ cũ đến mức nếu giở mạnh, giấy sẽ bở ra, rơi thành những vụn tan tác. Vậy nên mỗi lần cầm đến, mình run chừng như không dám thở. Gượng mở từng trang sổ thấy dần hiện lên từng nét chữ con trai thẳng thớm, những bức ảnh tự họa, những lá thư từ chiến trường... Kỉ vật thân thương này ban đầu do bố cất giữ sau chuyển sang chị gái và rồi chuyển đến tay mình. Và mình hiểu nó đã thấm đẫm nước mắt, của bố, của chị và của mình. Nó nặng trĩu những yêu thương chi chút. Nó chất chứa biết bao nhiêu là đau đớn, hi sinh, mất mát. Nó ăm ắp nỗi lòng, kẻ ở người đi dằng dặc cách xa. Mỗi lần chạm tay vào cuốn sổ nghe tim mình lặng những xót xa.
Nơi đó còn có di ảnh của anh trai cả. Bức ảnh vừa nghiêm nghị vừa hiền lành dịu dàng quá đỗi. Ngày anh còn sống, tuy mình và anh trái tính nhau nhưng anh thương mình lắm. Là người chỉn chu và sâu sắc đến từng chi tiết, anh lặng lẽ dõi theo từng bước trưởng thành của mình. Nhớ đận mới ra trường, mình và Tuấn Anh được phân ở một gian nhà lá dột nát, anh hì hụi cả ngày mua rơm về nhào bùn trát vách, mua giấy dầu về dọi lại mái nhà, kê giường, đóng giá sách. Đoạn anh lôi quần áo của mình ra vá lại những chỗ rách. Đường kim mũi chỉ đều tăm tắp... Trong cư xử, anh nghiêm khắc uốn nắn cho mình từng li từng tí. Anh dặn dò. Anh chiêm nghiệm. Thật kì diệu, những điều anh chiêm nghiệm, tiên đoán, mình thấy phần đa đều đúng. Anh tiên đoán về bổn phận của mình với đại gia đình, về tương lai hậu vận của từng người và cái cách từng thành viên trong gia đình cần ứng xử với nhau ra sao cho trong ấm, ngoài êm... Cứ như thể anh được cử đến trong cuộc đời để dạy mình lớn khôn và trưởng thành. Cho đến khi hoàn thành sứ mệnh, anh nhẹ nhàng rời cõi tạm như một cuộc thiên di...
Trên bàn thờ có bức tượng Phật được mình nghiêm cẩn đặt chính diện. Phía góc trái cạnh bộ lư hương là bức thư pháp Hán tự với hai chữ VÔ SỰ (無事). Bức tượng Phật và bức thư pháp này mình mang về từ bên Nhật, do Giáo sư Tomita Kenji, một người bạn vong niên thân thiết tặng. Ngày ấy, mẹ Nam ốm, hai mẹ con phải về nước chữa bệnh, mình ở lại Nhật Bản một mình. Biết mình buồn và đang rất cô đơn, mỗi buổi chiều sau giờ dạy, Giáo sư Tomita thường cùng mình đi dạo, ăn tối và trò chuyện. Và một lần Giáo sư đã tặng mình hai món quà quý giá đó. Cái cách ông tặng quà mới dễ thương làm sao. Ông mời mình lên chùa, thưởng thức trà đạo, mời sư trụ trì cầu AN cho mình rồi đích thân sư thỉnh quà tặng mình. Thực sự, chỉ có những người bạn thấu hiểu và thấu cảm nhau đến tường tận mới có những việc làm tinh tế dường ấy. Bởi thế mình luôn nâng niu bức tượng cùng bức thư pháp như trân quý gìn giữ tình bạn trong sáng thủy chung với người bạn Nhật yêu thương. Mỗi năm, vào dịp 23 tháng chạp, cùng với nghi lễ cúng Táo Quân, mình lại tắm cho bức tượng Phật bằng nước ngũ vị với lòng thành kính vô biên...
Vậy là những đồ vật thân thương tọa trên ban thờ đã khiến nơi đó không chỉ để thờ cúng mà còn là chốn riêng cho mình tìm đến mỗi khi lòng buồn hay gặp chuyện gì gập ghềnh trắc trở.
Đó cũng là nơi mình mong muốn truyền đến cho tất cả các thành viên trong gia đình những bài học chân thực về nguồn gốc gia tộc, về đạo lễ, về chữ hiếu.
Mỗi năm một lần, vào dịp cúng Tất niên, dù bố mẹ giờ đã già yếu, mình vẫn cố gắng dìu các cụ lên để được đứng trước ban thờ thắp hương lễ Phật.
Mình yêu những giây phút hiếm hoi ấy vô cùng.
Bởi khi đó, mình lại được trở lại làm cậu bé con như năm nảo năm nào chồn chân đứng cạnh bố chăm chú dõi xem Người thắp hương đêm trừ tịch.
Ôi chao, mùi hương, mùi khói pháo, mùi đất trời lúc ấy sao mà hiền lành và quyến rũ, sao mà mộng mị và mê đắm đến vậy.
Bố lẩm rầm khấn vái, mình chắp tay vái theo mà hồn để ở phương trời nào mông lung huyền ảo. Nhiều lần, bố quay sang hỏi: Con đang mơ gì thế, có hiểu bố cầu khấn gì không. Mình lúng búng gật gật, lắc lắc. Bố cũng chẳng nói gì, chỉ nhìn mình âu yếm. Nhiều năm sau mình mới hiểu, cái nhìn của bố như một thông điệp mạnh mẽ rằng: Con ơi, chẳng cần con nghe được những gì bố khấn chỉ cần con hiểu: Làm người điều căn cốt là phải có tổ tông, luôn phải biết sợ, biết tin vào một điều gì đó. Có như thế người ta mới lành mới thiện con à.
Cứ thế, cho đến tận bây giờ, đầu đã hai thứ tóc, mình mới ngộ ra rằng, đến với Phật có nghĩa là đến với Bố Mẹ. Khi ấy lòng mình luôn trong sáng, hạnh phúc, thanh tân. Khi ấy, trái tim mình sẽ đập cùng những nhịp mõ khoan thai buông bỏ bình an...
Yêu cái không gian ấy đến nỗi, thậm chí nhiều khi chỉ là cãi cự với vợ mình cũng chạy lên đó. Mình ngồi phịch xuống nền gạch mát lạnh, ngóng làn gió từ vuông cửa be bé ùa vào, lắng tiếng leng keng từ cái chuông gió treo hờ ngoài cửa chính. Tất cả hòa âm ấy làm lòng dịu dàng trở lại. Tâm mở cho mộng bình an dâng ngập khắp phòng...
Và sau tất cả, mình lặng lẽ bước ra ngoài sân thượng. Vuông sân be bé chan hòa những lá cùng hoa và miên man nắng. Với mình, khoảnh sân ấy như một mảnh thiên đường. Nơi đó có mênh mông sương ướt nhượt rợp đêm hè. Nơi đó có sóng sánh gió và ngào ngạt trăng thu. Nơi đó có đàn sẻ lích cha lích chích sà xuống nhặt nắng, có những đêm thanh nghe ngan ngát mùi hoa dạ lan hương thần bí…
Nơi đó còn ngồn ngộn hơi thở cuộc sống. Một cái áo của con trai vò mãi vẫn không sạch hết những vệt ố loang lổ ngoằn ngoèo. Một chiếc quần gụ của mẹ. Một đôi tất của cha. Một mảnh khăn của vợ... Tất cả treo ngăn nắp trên dây phơi như minh chứng cho một đời sống thường nhật bình dị giản đơn mà quá đỗi thân thương.
Bước ra từ nơi đặt ban thờ đến khoảng sân vuông, mình như lẫn hai bờ hư thực. Bờ nào cũng ăm ắp những thương yêu.
Tất thảy là nguồn động viên an ủi lớn lao của mình.
Như mưa dào dạt buông cho những ngày khát cháy, như nắng ban mai cho khắc khoải những đêm dài... mình luôn tìm lại được hạnh phúc sau rất nhiều mỏi mê với gió bụi dọc đường xa trập trùng gian khó.
... Và lại có niềm vui để bước tiếp, dẫu phía trước còn lắm nhọc nhằn...