G
IỜ LẠI LÀ BAN NGÀY. Là rạng đông bình thường, an toàn – thời khắc những thứ dường như to lớn và hãi hùng vào ban đêm rút ngắn như những vũng nước dưới ánh nắng mặt trời.
Tôi xuống bãi biển với Sadie. Mẹ đã đi làm, nhưng hôm nay là thứ Bảy nên tôi không phải đến trường. Tôi vừa chà xong phòng vệ sinh và hút bụi phòng khách nên rảnh rỗi.
Sadie giống như ánh sáng mặt trời. Khi tôi chạm vào bộ lông vàng ruộm ấm áp của nó, mọi u tối biến mất. Nó ngẩng lên nhìn tôi đầy thắc mắc, đuôi vẫy vẫy. Chúng tôi đang đứng ở bậc thang thấp nhất dẫn xuống bãi biển Polquidden. Tôi có định thả rông nó không ấy hả?
Có chứ. Qua đầu tháng Mười, lũ chó được phép chạy rông trên bãi biển, mà giờ là giữa tháng Mười Một. Dẫu vậy, Sadie có trí nhớ rất siêu, đấy là lý do vì sao nó đang chần chừ. Nó nhớ hồi chúng tôi mới đến St. Pirans vào tháng Chín, chó vẫn bị cấm thả ra bãi biển. Hàng năm, từ tháng Tư đến tháng Mười, khi có du khách ở đây, lũ chó phải tránh xa. Theo tôi, điều đó thật bất công, nhưng mẹ nói phân chó không được phép xuất hiện trên bãi cát mọi người tắm nắng.
Cả tháng Chín vừa qua tôi phải giải thích với Sadie thế này: “Tao rất tiếc, tao biết mày muốn chạy nhảy trên cát, nhưng không thể.” Càng gắn bó với Sadie, tôi càng thấy nó cực kỳ thông minh. Nó không cần dựa vào ngôn ngữ. Chỉ dõi theo cách tôi bước vào phòng là Sadie đã đoán được tâm trạng của tôi.
Giờ đây, tuy đang hưng phấn tới phát run, nó vẫn kiên nhẫn đợi trên bậc thang.
“Đi đi, Sadie! Được mà; hôm nay mày tha hồ mà chạy.” Sadie duỗi mình nhảy một cái – hoàn toàn vì vui thích, sau đó nghiêm túc chạy ngoằn ngoèo say mê rượt đuổi một con mòng biển trên cát. Chưa bao giờ Sadie tóm được mòng biển, và tôi dám chắc con mòng biển này thừa biết điều đó. Nó dẫn dắt chú chó của tôi, trêu đùa nó, bay là là trên cát để kích thích Sadie, đoạn sải cánh vút lên cao khi con chó nhào đến.
Tôi muốn Sadie cứ chạy mãi, chạy mãi thật thỏa thích. Tôi biết khi mình gọi thì nó sẽ quay về. Hơn nữa, tôi muốn nó được tự do.
Kể từ lúc đến St. Pirans, tôi luôn nằm mộng thấy những giấc mơ này. Không phải hằng đêm hay hằng tuần đâu, nhưng khá thường xuyên, thi thoảng đủ làm tôi sợ phải ngủ tiếp. Trong giấc mơ, tôi bị nhốt vào lồng. Ban đầu, tôi chẳng lo mấy, vì chấn song khá rộng và dễ dàng chui qua. Tuy nhiên, hễ tôi tới gần thì chúng sít lại. Tôi thử di chuyển chậm hơn, ngẫu nhiên thôi, để cái lồng không đoán được mưu tính của mình, nhưng lần nào nó cũng nhanh ra phết. Cái lồng như một sinh vật sống, biết tôi đang muốn bỏ trốn.
Tôi vẫn không thể tin chúng tôi đang sống ở St. Pirans. Có thật chúng tôi đã vĩnh viễn rời bỏ mái ấm xưa kia? Cả Senara, vũng và tất tần tật những chốn thân thương? Nhờ ơn trời, Conor và tôi được sinh tại căn nhà đó, trong phòng ngủ của bố mẹ. Làm thế nào bạn có thể không đoái hoài tới nơi mình sinh ra?
Mẹ cam đoan sẽ không bao giờ, không đời nào bán nó, nhưng mẹ đang cho những người xa lạ thuê. Tiền thuê đủ để chúng tôi thuê một căn nhà tại St. Pirans, nơi chẳng hề có chút hồi ức.
Với tôi, điều đó thật vớ vẩn. Cực kỳ vớ vẩn – trong khi người lớn lại tin làm thế là hoàn toàn hợp lý.
Nếu sống tại một thị trấn, con sẽ làm quen được nhiều bạn mới!
Con có thể đi xem phim và tới hồ bơi.
St. Pirans có các cửa hàng tuyệt lắm, Sapphy.
Dù sao thì có ai sống gần biển lại muốn tới hồ bơi cơ chứ? Các hồ bơi nhạt nhẽo, vô vị, nước xanh giả giả, chưa kể tới mùi clo rất khó chịu. Nước đục đục – do tất cả các hóa chất người ta đổ vào. Biển lại giàu sinh khí, mỗi giọt nước tràn đầy sức sống. Bạn thử lấy nước trong bể bơi đặt dưới kính hiển vi mà xem, sẽ chẳng có gì. Họa chăng là vài con vi khuẩn, nếu họ chưa đổ đủ hóa chất.
Thậm chí biển ở St. Pirans cũng đông đúc. Hiện giờ ngoài đó yên ắng vì đã hết mùa, nhưng mọi người luôn kể với chúng tôi rằng, Hãy đợi đến các tháng hè. Tìm được chỗ trống bỏ khăn tắm trên bãi cát vào tháng Tám là may lắm đấy. Có bốn bãi biển, một bến tàu và hàng ngàn, hàng ngàn khách du lịch – những người di chuyển thành tốp tỏa khắp thị trấn như ong vỡ tổ. Trước kia, lúc còn sống ở Senara, thỉnh thoảng Conor và tôi lại ghé St. Pirans chơi một ngày. Chỉ để thay đổi không khí. Một ngày là đủ. Hễ xuống nước bơi là va phải ván trượt của người khác. Đôi lúc còn xảy ra xô xát giữa các nhóm lướt ván – bao gồm dân địa phương và những người từ nội địa đến đây bằng xe tải. Họ tranh cãi những vấn đề to tát như là trong lúc lướt ai đó đã lấn sang đường đi của một tay lướt ván khác. Cứ như biển thuộc về một cá nhân rồi họ cãi cọ về những con sóng. Đấy chỉ là phần nào về sự điên rồ của St. Pirans. Tôi phải kể Faro nghe mới được. Cậu sẽ cười phá lên cho xem.
“Sadie! Sadie!” Bỗng tôi thấy Sadie chạy sang phía bên kia bãi biển, lao tới chỗ một con chó nhỏ xíu đang lượn lờ quanh mép nước – tôi nghĩ là giống chó sục Yorkshire. Sadie sẽ không tấn công con Yorkie1; nhất định nó sẽ không làm thế. Nhưng tôi vẫn bắt đầu chạy. Cùng lúc ấy, một cô gái cỡ tuổi tôi nhìn thấy cảnh tượng kia. Đang đào hố cát với một đứa bé, cô bạn đứng bật dậy.
1. Tên gọi khác của giống chó sục Yorkshire.
“Sa-die!”
Nó sẽ vâng lời chứ? Hiện tại Sadie có tin tôi là chủ nhân của nó không? Câu trả lời là có! Lúc còn cách con chó sục vài mét, Sadie chạy chậm lại rồi dừng hẳn. Từ cơ thể nó, bạn có thể nhận ra nó khao khát được phi ngay tới mục tiêu. Nó ngoảnh lại nhìn, thắc mắc tại sao tôi làm hỏng sự kiện đáng lẽ đã có thể trở thành một chuyến phiêu lưu thú vị.
“Chó ngoan. Mày là con chó biết nghe lời, Sadie.”
Thở muốn hụt hơi, tôi khuỵu gối xuống bãi cát ướt và thâu dây buộc Sadie. Chủ con chó sục bế nó lên. Nó nhỏ xíu, như một đứa bé con.
“Tớ tưởng chó của cậu sắp ăn mất Sky2 tới nơi,” bạn ấy nói. Cô bạn có mái tóc vàng ngắn mọc lỉa chỉa, nụ cười nở trên gương mặt rạng rỡ như ánh mặt trời.
2. Bầu trời.
“Sky. Cái tên kỳ cục cho một chú chó.”
“Tớ biết. Nó không phải chó của tớ mà là chó nhà hàng xóm, nhưng chủ nó mắc chứng đa xơ cứng3, nên tớ dắt nó đi dạo. Nó không đi xa đến thế. Ý tớ là Sky, không phải hàng xóm của tớ,” cô gái liến thoắng, như vừa trình bày một việc ngượng ngùng. “Xin lỗi cậu,” bạn ấy nói thêm, “tớ thật nhiều chuyện.”
3. Một chứng rối loạn não bộ và tủy sống với chức năng thần kinh bị giảm sút kết hợp với việc hình thành sẹo trên lớp phủ ngoài của các tế bào thần kinh.
Tôi chẳng biết chứng đa xơ cứng là gì, nên chỉ nói. “Ồ. Tớ biết rồi.”
“Đây là chó cậu nuôi hả?” Cô bạn tò mò hỏi.
“Ừ.” Lúc khẳng định như vậy, tôi vẫn có cảm giác đấy là lời nói dối. Âu cũng là chuyện thường khi mọi người bảo những việc quá tốt đẹp thường khó thành sự thật. Mỗi lần nói Sadie là chó của mình, trong lòng tôi lại xuất hiện cảm giác đó. Quá ư là tốt đẹp để biến thành thật. Tôi đã lo ngay ngáy nhiều tuần, rằng gia đình anh Jack sẽ đòi nó về, nhưng họ không làm thế. Nó là chó của cháu, mẹ anh Jack nói. Những chú chó biết mình thuộc về ai, và chắc chắn Sadie chọn cháu, Sapphire. Hãy nhìn cái đuôi ngoáy tít của nó. Bác chưa bao giờ được nó chào đón giống vậy.
“Nó rất đẹp.” Như biết Sadie sẽ thích mình, cô bạn mạnh dạn vươn tay, và Sadie tỏ ra thế thật. Nó hài lòng ngửi ngửi tay bạn ấy. Tôi giật nhẹ dây buộc.
“Chúng tớ phải đi,” tôi nói.
“Tớ cũng phải đưa Sky và River4 về. Ở đằng kia là River, trong hố cát ấy. Thằng bé luôn thích đào hố. Nó là em trai tớ.”
4. Dòng sông.
River. Tên con trai gì kỳ ghê, tôi suýt thốt thành tiếng. Tuy tôi kịp nhịn lại, song cô bạn mỉm cười.
“Mọi người nghĩ tên chúng tớ hơi kỳ,” bạn ấy háo hức nhìn tôi. “Cậu không muốn biết tên tớ ư? Hay cậu muốn đoán hơn?”
Tôi lắc đầu, thoáng mất tự nhiên. Cô gái quá đỗi thân thiện này khiến tôi lúng túng.
“Rainbow5,” bạn ấy nói. “Rainbow Petersen. Mẹ tớ đặt tên tớ là Rainbow vì bà nghĩ mình đã gặp sóng gió một thời gian dài, rồi khi tớ sinh ra, mọi thứ trở nên tốt đẹp. Mẹ tớ là người Đan Mạch, nhưng bà đã sống ở đây từ năm mười tám.”
5. Cầu vồng.
Một khoảng lặng ngắn ngủi. Tôi cố tưởng tượng mẹ nói điều gì đó giống thế với tôi và chịu thua. Vầng dương hé sáng khi con sinh ra, Sapphire yêu dấu. Ôi không, tôi chả nghĩ vậy đâu.
Trông cô bạn Rainbow như thể đang chờ đợi động tĩnh từ tôi. Bạn ấy bồng con chó, rồi tôi nói, “Được rồi, tạm biệt cậu.”
Nhìn thẳng tôi, Rainbow nghiêm túc phát biểu, “Cậu biết tên tớ, tên em trai tớ, tên Sky nữa. Cậu không định giới thiệu bản thân ư?”
Tôi cảm thấy xấu hổ. “Ừm, Sapphire.” “Tên rất hay,” Rainbow tấm tắc khen. “Tại sao?”
“Tớ rất vui khi cậu không có một cái tên phổ thông như Millie hay Jessica. Sapphire. Ôi, tớ thích tên đó. Còn con chó?” “Nó tên Sadie.”
Cô bạn lại nhìn tôi bằng ánh mắt mong đợi, nhưng bất cứ điều gì bạn ấy đang hy vọng đều không xảy ra. Lát sau, bạn ấy nói, “Được rồi, gặp cậu sau, Sapphire. Tạm biệt Sadie,” đoạn quay lại chỗ cậu em River đang đào hố.
Chỉ khi Rainbow rời đi được một lúc, tôi mới nhận ra bạn ấy muốn biết thêm về mình. Song bây giờ tôi chẳng thể làm gì. Bên cạnh đó, bà cụ Alice Trewhidden luôn nói rằng, Kể chuyện của bạn cho người lạ nghe chẳng hay đâu.
Theo cái cách Rainbow nở nụ cười, hẳn bạn sẽ nghĩ chúng tôi đã là bạn.
Conor đã đi câu ngoài bãi đá ở Porthchapel với anh Mal. Mẹ nói đúng: Conor dễ làm thân với nhiều người ở St. Pirans. Tôi nghĩ một phần lý do là vì anh học ở đây. Mặt khác, tính cách Conor vốn như vậy. Tôi không thuộc hết tên bạn anh, nhưng hầu hết là dân lướt sóng. Lúc ở cùng chỗ với bọn họ, Conor dùng lối nói của dân lướt sóng. Anh, mẹ và chú Roger cứ khuyên tôi học lướt sóng, song tôi chẳng hứng thú. Nếu đã cưỡi hải lưu ở Ingo, bạn còn muốn lướt sóng ở bãi biển Polquidden hay lên tận Gwithian sao? Việc này giống như bạn chỉ được uống một ngụm nước trong khi bạn sắp chết khát ấy.
Conor không thấy thế. Bọn tôi vừa chuyển đến St. Pirans ít lâu, tôi đã thử đối thoại với anh.
“Saph này, em không cho St. Pirans cơ hội,” anh nói. “Lướt sóng ở đây thích lắm. Hồi ở vũng, em toàn nằm rạp lên ván.”
“Đấy là trước khi chúng ta đến Ingo,” tôi nói.
Conor lo lắng nhìn tôi. Lúc chúng tôi sống ở St. Pirans, anh không mấy khi nhắc tới Ingo. Như thể anh nghĩ chúng tôi đã bỏ lại Ingo phía sau, với mái ấm xưa kia và hết thảy những thứ thân thuộc từ lúc chúng tôi chào đời. Hoặc có lẽ còn lý do khác. Trực giác mách bảo tôi Conor đang giấu chuyện gì đó. Mẹ nói anh đang trưởng thành và bây giờ, tôi không thể trông mong anh sẽ kể mình nghe mọi chuyện giống như hồi nhỏ.
“Anh không thấy kiểu lướt sóng này vô vị à?” Tôi hỏi. Tôi muốn thăm dò ý nghĩ thực sự của Conor. “Ý em là, so với cưỡi hải lưu thì lướt sóng ở đây chả có gì hay. Một khi đã tới Ingo, việc tốn thời gian vô ích trên mặt nước đâu thể thỏa mãn anh.”
Sắc mặt Conor tối sầm. “Anh không sống vậy được, Saph, một người không thể vừa thuộc về nơi này, vừa thuộc về nơi khác,” anh nói. Giọng Conor giận dữ, nhưng tôi không nghĩ anh giận tôi. “Anh đã cố thích nghi với nơi mình vốn thuộc về. Em cứ cố chấp với thứ mình chẳng thể có là không tốt...”
Conor bỏ lửng câu nói. Mơ hồ về hàm ý của anh trai, tôi im lặng.
“Anh biết em nhớ Senara,” Conor nói tiếp. “Ý anh là nhà.”
“Được rồi, nhà.”
“Vậy là, em nhớ nhà. Chuyện bình thường mà Con!” “Nhưng giờ đã có người sống trong nhà chúng ta. Bọn mình không thể quay lại đó, có ao ước cũng vô ích.”
“Nếu muốn, ta có thể quay về. Mẹ có thể thông báo cho những người thuê nhà.”
“Saph này, mẹ đâu muốn làm thế. Em không nhận ra sao? Mẹ vui mừng khi rời căn nhà đó, vũng và tất cả những thứ gợi mẹ nhớ đến bố. Mẹ hạnh phúc hơn khi sống ở đây.”
Quả vậy. Dẫu đã biết từ nhiều tuần trước, nhưng tôi không muốn nói thành lời.
“Và một việc khác,” Conor nói tiếp. “Mẹ muốn tách chúng ta khỏi Ingo.”
“Mẹ đâu biết gì về Ingo! Mẹ còn không biết nơi đó tồn tại.”
“Chúng ta chưa kể mẹ nghe điều gì, nhưng mẹ không dễ gạt. Mẹ đoán có chuyện kỳ lạ đang diễn ra dưới vũng. Mẹ lo sợ cho anh em mình – nhất là em. Thậm chí mẹ hỏi anh có biết vì sao hành vi của em đang trở nên kỳ quặc không.”
“Anh không mách mẹ chứ?”
“Saph à, sao lúc nào em cũng đa nghi vậy? Tất nhiên là anh không mách. Mẹ không biết về Ingo, nhưng mẹ cảm nhận được điều gì đó, và kể từ khi bố biến mất, mẹ không có cơ hội nữa. Có lẽ mẹ đã đúng,” Conor tư lự nói thêm.
“Mẹ đã đúng? Đúng khi tách rời chúng ta khỏi mọi thứ? Người lớn tin rằng họ có thể thoải mái làm điều họ muốn, nhưng đâu có nghĩa việc ấy đúng! Conor, sao anh có thể nói thế? Như thể – như thể phản bội Ingo ấy.”
“Nhưng nếu em luôn đứng về phía Ingo, Saph, thế thì em cũng phản bội điều gì đó. Bà Carne từng nói em sở hữu huyết thống Hải tộc, tuy nhiên, bà không hề bảo em quên mình là con người.”
Tôi bỏ lên phòng, không muốn nhắc tới Ingo nữa. Tôi sợ Conor sẽ nói, “Quên Ingo đi, Saph. Bỏ lại tất cả đằng sau, và hãy thích nghi với thực tại.”
Đúng, tôi vô cùng nhớ nhà. Tôi chỉ cho phép mình nghĩ đến nhà vào ban đêm, trước lúc ngủ. Tôi nhớ ngôi nhà ấm áp, vũng, Downs, trang trại nhà anh Jack. Tôi nhớ thói quen ngắm ánh đèn từ các căn nhà tỏa sáng trong đêm, biết ai sống trong từng căn một. Ở St. Pirans, tôi càng nhớ bố da diết, vì chẳng mấy người nơi đây biết đến bố. Nếu chúng tôi không giải thích, họ sẽ nghĩ mẹ là một bà mẹ đơn thân đã ly dị. Mọi cư dân ở Senara quen bố kể từ khi bố là một cậu bé con, và họ biết hết mọi thành viên trong gia đình. Dù không có ở đó, bố vẫn hiện hữu trong ký ức của họ.
Ít nhất tôi còn đi học ở trường cũ. Conor chuyển tới trường mới ở St. Pirans, nhưng tôi không chịu. Tôi chẳng lấy làm phiền phải di chuyển bằng xe buýt của trường tới trường cũ. Tuy nhiên, tôi đã đấu tranh cật lực. Mẹ nói tôi nên đi học ở St. Pirans để kết bạn ở đây và “ổn định“. Lạ một nỗi, chú Roger, bạn trai mẹ, lại ủng hộ tôi. Chú nói, “Sapphire đã đương đầu với quá nhiều thay đổi. Con bé cần sự tiếp diễn trong cuộc sống của nó.” Mẹ nghe lời chú Roger, và thành thật mà nói, chú Roger không bao giờ phát biểu thiếu chu đáo.
Rắc rối với chú Roger là thế đấy. Nếu đơn giản là tôi không ưa chú hẳn đã dễ dàng. Căm ghét chú. Tuy nhiên, ấn tượng chú mang đến không như vậy. Chú liên tục làm những việc dụ dỗ tôi thích chú, cho tới khi tôi nhớ ra mình không được phép có cảm tình với chú, vì làm vậy là phản bội bố. Nhưng chính chú Roger đã bảo đảm để tôi được nuôi Sadie. Và chính mẹ, chứ không phải chú, luôn càm ràm phải “ổn định“. Chú Roger bảo cần cho mọi thứ thời gian, rằng tất cả chúng ta cần cho người khác thời gian, cứ thong thả, rồi mọi việc sẽ đâu vào đấy. Hầu như trong mọi chuyện chú Roger đều thoải mái, song khi cần, chú cũng sẽ không nhượng bộ.
Ổn định. Tôi ghét cay ghét đắng cụm từ đó. Nó còn tồi tệ hơn những người lớn thường bảo mẹ rằng trẻ con rất dễ thích ứng và sớm quên quá khứ.
“Không phải Saphire,” khi mọi người bảo chúng tôi sẽ chóng hòa nhập cuộc sống mới, mẹ đáp dứt khoát. “Con bé đã khép lòng.”
Tôi khép lòng mình ư? Nào có. Tâm hồn tôi luôn rộng mở. Tôi đang kiên trì chờ đợi.
Mỗi ngày, tôi xuống bãi biển, tới bên mép nước và nghe ngóng. Hồi tháng Chín, lúc chúng tôi mới đến đây, trên bãi biển vẫn còn khách du lịch. Theo lẽ tự nhiên, Faro tránh ra xa. Thật lòng tôi không mong gặp cậu lắm. Nhưng nếu tôi định đến bãi biển nào ở St. Pirans để gặp cậu thì hẳn sẽ là Polquidden, bãi biển hung hãn nhất. Những cơn bão ập đến đây từ hướng tây nam, và vào lúc triều thấp, bạn có thể trông thấy tàn tích của một chiếc tàu thủy chạy bằng hơi nước bị đắm. Theo tôi phỏng đoán, ở St. Pirans, bãi biển Polquidden cách Ingo gần nhất. Các tảng đá bên sườn bãi biển đen thui, xếp chồng thành những hình thù trông như đầu và hai bả vai một người đàn ông. Thỉnh thoảng, khi xuống đó với Sadie, tôi nhận thấy mình lướt mắt qua những tảng đá nọ, tìm kiếm bóng dáng của một cậu con trai mặc đồ lặn ướt kéo dài tới eo. Bóng dáng đó nửa người nửa hải cẩu, nhưng lại chẳng hoàn toàn giống cái nào trong số ấy.
Faro. Tối hôm qua cậu ấy đã đến đây. Nếu thực sự khép lòng mình, tôi sẽ không bao giờ nghe được tiếng gọi của Ingo. Đấy là lý do tôi không thể hòa nhập với St. Pirans. Tôi không được làm vậy. Phải đánh đổi quá nhiều.
“Saph! Saa-aaphh!”
Tôi quay phắt lại. Sadie nhảy vọt tới. Là Conor đang chạy xuống bãi biển.
“Em đây rồi, Saph. Anh tìm em khắp mọi ngõ ngách. Lại đây.” “Có chuyện gì sao?”
“Một điều tuyệt vời. Nhanh tới đây...”
Tim tôi nảy lên. Tôi biết Conor định nói gì. Chúng tôi sẽ quay về Serana. Mẹ đã chán sống ở St. Pirans. Có lẽ – có lẽ mẹ sắp chia tay chú Roger. Chúng tôi sắp về nhà!
“Trong vịnh có một tốp cá heo. Chúng đang đua nhau tới Porthchapel, gần đây này. Chú Will, bố của Mal định lái thuyền ra đó. Chú nói nếu bọn mình nhanh chân thì có thể theo cùng.”
“Còn Sadie?”
“Trên đường đi ta sẽ tạt qua nhà bỏ nó lại.”
Nhà chúng tôi nằm trên con đường gần Polquidden, tách biệt đằng sau dãy nhà ở và các căn hộ loại nhỏ quay mặt ra biển. Chúng tôi để Sadie lại đó, đoạn lao qua những con phố hẹp. Đến Conor cũng chẳng thở ra hơi. Anh đã chạy một mạch từ Porthchapel về để tôi có cơ hội cùng anh đi thuyền ra biển.
“Cám ơn anh, Conor!” “Gì cơ?”
“Vì anh đã... không lên thuyền một mình... và bỏ em lại.” “Thiếu em anh sẽ không đi.”
Chúng tôi băng qua quảng trường, chạy xuống đường Mazey và sắp tới nơi. Bãi biển Porthchapel trải dài trước mặt.
Lác đác vài người đang tụ tập và dưới nước là một chiếc xuồng bơm hơi màu cam tươi.
“Đi nào, Saph! Họ đã sẵn sàng xuất phát.”
Bố anh Mal đưa cho mỗi đứa một áo phao cứu sinh, chúng tôi mặc vào lúc chú nổ máy. Chân anh Mal ngập nước tới đùi, lõm bõm đẩy xuồng ra khơi.
“Ta sẽ ra xa trong vịnh một chút, sau đó chú sẽ tắt động cơ, tránh dọa đến chúng,” chú Will nói. “Nhớ này, chúng thích thuyền bè. Chú nhẩm tính cả tốp độ mười hai con, có thể hơn. Vào thời điểm muộn như tháng Mười Một thường hiếm gặp chúng ở đây.”
Bên mép nước có chừng mười hai người hoặc hơn. Càng thêm nhiều người đang từ đồi quả6 vội vã chạy xuống dốc. Tôi lấy tay che mắt, nhìn lướt qua mặt nước. Bãi biển Porthchapel kín gió, và biển ở đây luôn yên ả hơn ở Polquidden. Chợt tôi trông thấy thứ mình đang tìm. Mặt nước vỡ òa, một hình thù đen bóng nhảy lên. Là lưng của một con cá heo. Khi nó vọt tới, nước trên lưng nó trào xuống, rồi nó lại lặn xuống biển. Một con khác phóng lên, rồi một con nữa. Chúng bơi thành hình bán nguyệt, đội hình kín kẽ. Thình lình, năm con trong số đó nhảy lên cùng một lúc, như thể có thần giao cách cảm.
6. Trong bộ môn golf, đồi quả là khu vực nằm cuối mỗi đường đánh banh.
Có một con cá heo bé hơn hẳn những con khác. Một con non, có lẽ là mới sinh vào mùa xuân. Tính theo vòng đời của cá heo thì nó hầu như chỉ là một đứa trẻ.
Bố đã dạy tôi những kiến thức về cá heo. Bố rất yêu quý chúng. Ông từng chụp vô số ảnh về loài động vật này. Bố biết những con nào sẽ quay lại nhiều năm ròng, nhưng ông nói việc đặt những cái tên nhân loại cho cá heo và gán cho chúng những đặc tính như con người là không đúng. Chúng biết mình tên gì, bố luôn nói như vậy. Chúng có ngôn ngữ của riêng mình. Thậm chí chúng còn giỏi truyền đạt hơn chúng ta.
Con cá heo con đang bơi gần mẹ nó. Chẳng bao lâu nữa, cá heo mẹ sẽ mang nó xuôi nam, đến vùng biển ấm hơn. Tôi chợt nhớ ra là cá heo ở đâu, Ingo ở đó. Ngay cả khi lưng chúng lộ trên nước hoặc chúng nhảy lên khỏi mặt biển, tiếp xúc với không khí, Ingo vẫn theo sát chúng. Thế thì ắt hẳn Ingo rất gần với...
Một bầy giống như một gia đình cá heo, và chúng ở đây, thoải mái nô đùa trong tầm ngắm của con người, điều mà đáng lẽ chúng nên sợ hãi. Tôi nhẩm đếm. Sáu... tám... mười một... ồ, chú Will nói đúng, có một tá cá heo ở đây. Có vẻ chúng chẳng sợ chúng tôi chút nào. Nhưng chúng nên e ngại mới phải. Tại sao chúng lại tin tưởng một chiếc thuyền đầy nhóc nhân loại?
Chúng tiến vào bờ mỗi lúc một gần. Mọi người trên bãi biển vẫy chào và vỗ tay nồng nhiệt. Chú Will tắt động cơ, để thuyền tự do lắc lư. Sóng biển động thành một đường dài dưới mặt nước. Những con sóng nhỏ dập dềnh vỗ vào mạn thuyền. Tôi ngồi nhoài tới trước, người căng lên, chờ đợi. Điều gì đó sắp xảy ra. Mỗi tiếng động, kể cả tiếng ồn từ biển khơi và âm thanh của con người hân hoan chào đón bầy cá heo, dường như đang lặng dần đi.
Một con cá heo trong bầy phóng vọt lên khỏi mặt nước.
“Nó thấy chúng ta. Nó muốn nói chuyện với bọn mình,” tôi thầm thì cùng Conor. Anh Mal liếc sang tôi.
Conor vờ tình cờ quay qua, nói khẽ vào tai tôi, “Cẩn thận nào, Saph.”
Chú Will đứng lên, hai chân làm trụ giữ thăng bằng, trên tay lăm lăm máy ảnh. “Từ đây hẳn sẽ chụp được nhiều ảnh đẹp,” chú nói.
Tôi sai rồi. Vạn vật không hề tĩnh lặng. Một đợt sóng âm thanh ồ ạt tràn qua mặt nước. Bầy cá heo đang trò chuyện với nhau. Vô số tiếng kêu len lỏi quanh co cùng nhau di chuyển, phát ra tiếng lách ca lách cách, bao phủ đại dương bằng tấm lưới âm thanh. Cẩn thận chọn chỗ cân bằng với trọng lượng của chú Will, tôi đứng dậy theo.
“Cẩn thận đấy Saph,” Conor nhắc lại.
Chúng muốn đến chỗ mặt nước. Chúng muốn trò chuyện với chúng tôi. Là gì vậy? Chuyện gì đang diễn ra?
“Đẹp quá,” chú Will trầm trồ. Chú đã chụp ảnh xong. “Chú sẽ phóng to mấy tấm này thành áp phích.”
“Suỵt. Nghe này.”
“Gì thế?” Anh Mal hỏi.
“Đừng ồn. Anh mà lên tiếng thì em không nghe được chúng nói chuyện.”
“Quả thật, mọi người nói, cá heo có ngôn ngữ riêng,” chú Will nói.
Giờ tôi nghe được rồi. Cảm giác như đang bắt sóng từ một chiếc ra-đi-ô đời cũ. Tần số phát thanh kêu vo vo, tanh tách. Có một đoạn nhạc ngắn, sau có thứ gì đó, có lẽ là từ tiếng nước ngoài. Một trong những con cá heo nhảy lên gần thuyền, đường rẽ nước do nó tạo ra va phải chúng tôi. Thuyền tròng trành, bố anh Mal loay hoay tìm cách đứng vững.
“Thật... thật kỳ diệu,” anh Mal nói, giọng trầm thấp kinh sợ. “Anh chưa bao giờ thấy chúng lại gần như thế. Nhìn chú cá kia kìa.”
Đấy không phải “chú cá“, mà là “cô cá“. Một cô nàng trưởng thành với hai bên hông nở nang, bóng loáng, đôi mắt đen láy be bé tinh khôn đang nhìn tôi. Nó nhận ra tôi. Dĩ nhiên. Dĩ nhiên là thế. Tôi biết nó. Quen thuộc với vóc dáng của nó – phần thùy đuôi cực khỏe đã giúp nó đạp nước và cả vây lưng của nó nữa. Tôi biết da nó mang lại cảm giác như thế nào khi tôi cưỡi trên lưng nó và nước biển ào ạt lướt qua người tôi. Tôi nằm lòng tiếng kêu của cô cá lẫn sức mạnh cơ bắp ẩn dưới lớp da kia.
“Xin chào,” tôi cất lời. Giọng tôi chỉ như tiếng lách cách và huýt gió yếu ớt nhất, giống một đứa trẻ đang cố bắt chuyện với cá heo. Con cá heo xoay lại, bơi nhanh ra xa, đoạn xoay cơ thể lần nữa, đột ngột lao đến bên thuyền. Khi khoảng cách giữa chúng tôi là ba mét, nó dừng phắt lại. Mặt nước dậy sóng, ánh mắt nó lấp lánh, giao với tầm mắt tôi.
“Thật...thật... thần kỳ,” anh Mal lại bật thốt. Tuy là dân Cornwall, song khẩu âm của anh như dân Mỹ, hoặc có lẽ na ná giọng Úc. Theo anh, thế mới ngầu.
“Chú đoán nó đang nô đùa với chúng ta,” bố anh nói. “Cá heo vốn dĩ là những sinh vật nghịch ngợm.”
Nó không nô đùa. Từ tiếng kêu của nó, bạn có thể khẳng định điều đó. Vô vàn tiếng kêu khác đang chen vào, tất cả đều là giọng của cá heo, một số thật gần, số khác xa xôi, nhưng giọng cô cá này vọt cao lên hết thảy.
kommolek arvor trist arvo
truedhek arvor
arvor
kommolek
lowenek moryow
Ingo lowenek
Ngôn từ của con cá heo du dương trầm bổng như tiếng nhạc. Tôi loáng thoáng nghe được vài từ, thế rồi tiếng nhạc luyến láy trôi xa. Nó lướt vội qua tâm trí tôi, trêu ghẹo và làm tôi thích thú. Song tôi không hiểu hết.
“Hãy giúp tao. Tao không hiểu mày đang nói gì.”
Lúc này, con cá heo ở sát bên thuyền. Nó nhìn thẳng vào mắt tôi, truyền tin tức của chúng đến chỗ tôi. Nhưng tôi không giải mã được, cũng không thể hiểu hết. Đầu óc tôi xì xèo kích thích, y hệt như lúc tôi sắp sửa giải một bài toán khó.
Thế rồi kết nối cắt đứt.
“Này, Sapphire, em nhái tiếng cá heo giỏi thật!” Anh Mal nói. Con cá heo quay đi, lặn trở lại với bầy. Tuy thấy lời khen của anh Mal giả dối nhưng tôi chẳng nói gì. Conor đang quan sát, thầm bảo tôi im miệng và đừng gây chú ý thêm. Và đương nhiên tôi không muốn mọi người ở St. Pirans nghĩ tôi là một đứa điên thích đối thoại với cá heo.
Trước giờ tôi chưa từng trò chuyện với chúng. Tôi không hiểu cô cá ban nãy nói gì, cũng nghĩ rằng nó không hiểu lời tôi nói. Lần này, tâm trí và ngôn ngữ của tôi không thể đột phá rào cản, tiếp cận với Hải tộc. Con cá heo cách tôi rất gần, nỗ lực để tôi hiểu nó nói, nhưng tôi không làm được. Có lẽ việc dọn đến St. Pirans đã ngăn cách tôi với Ingo mỗi lúc một xa. Tôi đang đánh mất những gì mình từng thân thuộc. Nếu vậy, tôi sẽ không bao giờ nói thạo Hải ngữ. Nỗi thất vọng quét qua tâm trí, tôi đành nép mình xuống đáy thuyền.
Anh Mal lẽo đẽo theo chúng tôi quay về. Conor mời anh vào nhà chơi, song tôi im re. Đi chỗ khác, để bọn em được yên, tôi thầm nghĩ. Như thể hiểu ý tôi, anh Mal nói, “Được rồi, tớ đi đây. Hẹn gặp lại cậu, Conor. Ừm, hẹn gặp lại em, Sapphire.”
“Tạm biệt anh.”
Chúng tôi vừa vào trong nhà, Conor liền nói, “Có lẽ em nên thân thiện với Mal hơn. Cậu ấy quý em.”
“Anh ấy còn chẳng quen biết gì em.”
“Thôi nào, cậu ấy chỉ nghĩ là mình quý em. Em đừng tỏ ra khó chịu với cậu ấy. Không nhất thiết phải lảng tránh khi có ai đó tiếp cận em.”
Tôi ôm Sadie để có thể giấu mặt vào cổ nó. Conor sẽ không cúi nhìn theo đâu.
“Là con cá heo đó, Saph.”
“Con nào cơ?”
“Em biết là con cá heo nào mà. Con cá em đã nói chuyện.”
“Em không thể ’nói chuyện’ với nó. Em đã cố hết sức, nhưng không thể. Em nghĩ có lẽ là vì em ở trên cạn và nó ở Ingo. Kể cả khi cá heo phóng lên khỏi mặt nước, chúng vẫn thuộc về Ingo. Faro bảo với em như vậy. Hoặc có lẽ là vì em đang quên hết mọi thứ.”
Sau nhiều tuần, đây là lần đầu tiên chúng tôi nhắc đến Faro. Conor cau mày.
“Tại sao bầy cá đến đây? Có phải là một thông điệp từ Faro không?”
“Không. Chẳng liên quan gì tới Faro, em chắc chắn đấy. Nó không hẳn là thông điệp từ Ingo, mà là về Ingo. Bầy cá heo đã cố nhắn nhủ điều gì đó với em, nhưng em không đủ sáng dạ. Em không hiểu được.”
“Em có muốn không?” “Ý anh là sao?”
“Như anh vừa nói. Em có muốn nhận thông điệp của chúng không?”
“Tất nhiên là có. Conor này, Ingo đang cố gắng liên lạc với em. Với chúng ta,” tôi vội nói.
“Em không cần giả vờ. Người bầy cá heo muốn nói chuyện là em. Nhưng điều anh muốn biết là, em có muốn nghe không? Em có thực lòng mong muốn chuyện đó bắt đầu lần nữa?”
“Conor ơi, sao em lại không muốn chứ? Là Ingo cơ mà.”
Ánh mắt Conor dò xét sắc mặt tôi. Một ý nghĩ lạ lùng nảy ra. Conor đang cố đoán suy nghĩ của tôi, giống lúc tôi cố giải mã ngôn ngữ của bầy cá heo. Nhưng tôi với Conor cùng chung giống loài. Tạ ơn trời đất, chúng tôi là anh em. Một lát sau, Conor nói rất khẽ, “Nếu em cố gắng, em có thể chặn đứng mong muốn ấy. Nhưng em không làm vậy, Saph ạ.”
Tôi cố giải thích. “Chuyện không phải như thế. Em chẳng còn lựa chọn nào khác. Em có cảm giác là mình chỉ có phân nửa ở nơi này. Chỉ có phân nửa em đang sống. Cuộc sống của chúng ta lúc này ở St. Pirans hoàn toàn bất ổn với em. Như thể em đang dõi theo nó trên màn hình ti-vi chứ không phải đang sống ở đấy. Ôi, Conor ơi, em ước gì mình đang rong ruổi ngoài Ingo kia...”
“Đừng nói thế!” “Đó là sự thật.”
“Anh biết,” giọng Conor từ tốn và nặng nề. “Em không thể không mong muốn điều em khao khát. Anh không trách em, Saph. Anh rất hiểu cảm giác của em. Cảm giác đó uy lực lẫn mê người. Nó thu hút em, và cũng lôi kéo cả anh. Nhưng anh nghĩ nếu em nỗ lực hết sức – nỗ lực thực sự ấy – em có thể tự ngăn mình lựa chọn bước tiếp theo.”
“Bước tiếp theo nào?”
Conor nhún vai. “Không biết. Anh đang suy nghĩ rõ ràng hơn.” Giọng anh tôi thay đổi, chuyển sang đùa cợt thay vì nghiêm túc cứng nhắc. “Tuy nhiên, có một điều em chưa nghĩ đến, Saph. Em thích việc nói chuyện với lũ cá heo tới mức em quên bẵng Sadie.”
“Sao cơ?”
“Họ không có chó ở Ingo, Saph à.”
Như nghe hiểu anh nói, Sadie chồm lại gần, dụi mõm vào người tôi. Nó luôn nhận biết khi nào có vấn đề gì bất ổn và cố cải thiện mọi chuyện tốt đẹp hơn. Đôi mắt nâu của nó chăm chú dán lên mặt tôi. Làm sao tôi có thể lãng quên Sadie, dù chỉ một phút cơ chứ? Họ không có chó ở Ingo.
Có lẽ họ có. Có lẽ họ có thể nuôi chúng. Sadie không giống một chú chó bình thường. Liệu nó có thể cùng tôi xuyên qua mặt nước và lặn tới Ingo không? Tôi chẳng biết. Tôi thử hình dung cảnh cơ thể vàng óng của Sadie tự do hụp lặn sâu trong Ingo, hai lỗ mũi khép chặt để nước không chui vào. Nhưng vô ích, bức tranh tôi vẽ ra trong đầu trông giống một con hải cẩu đang bơi lội, chẳng hề có điểm nào tương đồng với Sadie.
Sadie rền rĩ. Thứ tiếng kêu nài xin, ai oán từ sâu trong họng con chó. Nó kê hai chân trước vào lòng tôi cho đến khi những sợi ria cứng gần mõm làm mặt tôi nhồn nhột.
“Nếu không có chú Roger, chẳng đời nào em được nhận nuôi Sadie,” Conor nói tiếp. “Chú ấy giục mẹ mãi.”
Tuy biết anh nói đúng, nhưng trong giây phút này, tôi không đồng tình với anh. Bên cạnh đó, tại sao anh nhắc đến chú Roger? Có lẽ chú Roger là người đã thuyết phục để tôi được nuôi Sadie, song đồng thời chú đã cướp mất mẹ và chia rẽ gia đình chúng tôi.
Ánh mắt Sadie nhìn tôi trách móc, như cầu xin tôi thừa nhận lối giải thích ấy sai hoàn toàn. Ai đã chia rẽ gia đình bạn, Sapphire? Là chú Roger hay chính bố bạn, người yêu thương bạn và Conor đến mức bỏ rơi hai anh em mà không hề ngoái đầu lại, thậm chí một lời nhắn để hai bạn biết ông đi đâu cũng không có?
Chính là bố bạn, từ dạo ấy đến giờ chẳng hề ghé thăm hay trò chuyện với bạn.
Những ý nghĩ giận dữ lẫn cay đắng xuất hiện trong tâm trí tôi. Tôi đã quen yêu thương bố vô hạn, nhưng tôi bắt đầu nhận ra mình cũng có thể căm ghét bố. Tại sao bố bỏ đi? Kiểu bố nào quan tâm con cái mà lại đi thuyền ra khơi trong đêm khuya và chẳng bao giờ trở về? Tôi có thể nhận thấy vị đắng chát trên môi mình.
Không, tôi sẽ không để cơn giận át mất lý trí. Tôi sẽ kiểm soát được nó. Bố biến mất có lý do. Chỉ là từ đó đến nay bố không có cách nào giải thích với chúng tôi.
Thình lình, một cửa sổ trên lầu dập mạnh. Căn nhà hiện tại ở St. Pirans bé tẹo, nhỏ hơn cả nhà cũ. Nhà dưới có một phòng khách rộng với phòng bếp xây ở một đầu. Trên lầu thoáng đãng hơn, vì căn nhà này có một nơi gọi là tầng lửng. Cái này nghe thú vị hơn tên của nó nhiều. Nghĩa là phần đó của căn nhà được xây trên ngôi nhà kế bên. Chúng tôi có ba phòng ngủ và một nhà vệ sinh. Phòng tôi nhỏ xíu, vừa khít một giường đơn, nhưng tôi chả hề quan tâm vì trong phòng có một cửa sổ dạng tròn gắn vào tường bằng bản lề và có thể mở bật ra y hệt ô cửa trên tàu thủy.
Cửa sổ phòng tôi là cửa sổ duy nhất trong nhà có thể nhìn ra biển. Phòng ngủ của tôi là một phần của tầng lửng. Tôi thích nó vì nó mang lại cảm giác hoàn toàn biệt lập so với phần còn lại của căn nhà. Tôi không nghe thấy tiếng mẹ và chú Roger nói chuyện. Tôi không phụ thuộc bất cứ ai. Lúc quỳ gối trên giường và chăm chú nhìn ra biển, tôi mặc sức tưởng tượng mình đang trên một con thuyền xuôi về hướng đông bắc, rời Polquidden, thoát ly khỏi vịnh và hòa mình vào đại dương bao la...
Cửa sổ dập mạnh hơn. Gió nổi lên. Đang mùa bão. Khi các cơn bão ập tới, bụi nước mặn chát sẽ thổi ngay trên các mái nhà. Tôi háo hức chờ nghe tiếng đại dương gầm thét như sư tử rống trong vịnh.
“Em nên đóng cửa sổ phòng mình, Saph.” “Anh chắc chắn là cửa sổ phòng em dập à?”
“Ừ. Còn cửa sổ phòng ai dập như vậy đâu. Ô cửa sổ tròn trong phòng em nặng hơn mấy cái khác.”
Conor nói đúng. Cửa sổ đã bị thổi bung. Tôi khuỵu gối trên giường và hé đầu nhìn ra ngoài. Xa xa, bên kia những mái ngói đá phiến lộn xộn, giữa hàng căn hộ dạng studio7 và các ngôi nhà là một khe hở. Nhờ vào nó, tôi loáng thoáng nhìn được ra biển. Gió quất bay bọt trắng trên đầu những ngọn sóng. Lũ mòng biển bay liệng trên những luồng không khí nóng, gào thét cùng đồng bạn. Hiện giờ chúng tôi ở rất gần mặt nước. Ở Senara, tôi quen sống trên vách đá, và đến thời điểm này, việc sống ở mặt biển vẫn còn lạ lẫm.
7. Là những căn hộ có diện tích khá nhỏ và không gian thường không có sự phân chia rõ rệt bằng các bức tường.
“Anh xuống bãi biển đây,” Conor hét với lên lầu. “Em sẽ đi với anh.”
Lúc bấy giờ, gió đã nổi lên thực sự. Gió thốc vào chúng tôi từng cơn khi chúng tôi vòng qua khúc quanh của những ngôi nhà và bước lên bậc thang.
“Anh có nghĩ là sắp bão không?”
Conor lắc đầu. “Không. Phong vũ biểu tụt từ sáng nhưng giờ thì ổn định. Chỉ là một trận gió lớn thôi.”
Hai đứa nhảy phốc xuống bãi cát. Các ngôi nhà và những căn hộ studio được xây thành một hàng, nằm ngay mép bãi biển. Những cửa sổ tầng trệt có cửa chớp chắn bão cỡ lớn mà lúc chúng tôi mới đến vẫn mở, giờ đã đóng chặt và cài then kín kẽ. Vài cửa chớp đã bị vùi phân nửa vào lớp cát chất thành đống trong những cơn bão hồi điểm phân8 cuối tháng Chín.
8. Điểm phân xuất hiện hai lần trong năm, khi mặt phẳng xích đạo của Trái Đất đi qua tâm Mặt Trời. Mỗi điểm phân xuất hiện mỗi năm một lần vào một thời điểm nhất định trong một ngày, khoảng 20 hoặc 21 tháng Ba và 22 hoặc 23 tháng Chín mỗi năm.
Cát dễ dàng chôn lấp những ngôi nhà này. Thử tưởng tượng cảnh một sớm mai bạn thức dậy và phát hiện căn phòng tối om vì cát đã tấp lên ngay trên đầu các cửa sổ nhà bạn. Hoặc có khi không phải là cát, mà là nước. Bạn có thể được ngắm phía bên trong những đợt sóng vỗ vào mặt kia cửa kính. Tiếp đó, sức nước sẽ làm vỡ kính, rồi nước biển ồ ạt ùa vào.
“Em thắc mắc là làm thế nào đại đương luôn biết mình nên tràn đến đâu và không xa hơn,” tôi nói với Conor. “Đại dương mênh mông và sở hữu sức mạnh lớn lao, và nó xô vào bờ hàng dặm liền. Nhưng vào mỗi đợt triều lên, lúc nào nó cũng dừng ở một mốc nhất định.”
“Không hẳn là cùng một mốc. Các đợt thủy triều không giống nhau.”
“Em biết. Nhưng đại đương chưa bao giờ chịu lăn vào bờ thêm một dặm. Và nếu muốn thì nó có thể làm thế mà, không phải sao? Với tất cả quyền năng mà mình có, tại sao đại dương dừng ở đây khi nó có thể nuốt trọn cả thị trấn?”
“Giống đại hồng thủy của Noah.” “Sao cơ?”
“Em biết truyền thuyết đó mà. Chúa trời ban một trận hồng thủy để nhấn chìm thế gian và vạn vật vì con người ngày càng độc ác. Nhưng Noah đã đóng một con thuyền lớn và ông ấy sống sót. Khi trận hồng thủy chấm dứt, Chúa trời cam kết ngài sẽ không làm vậy nữa.”
“Anh tin vào Chúa hả Conor?”
“Anh không biết. Anh đã thử cầu nguyện một lần, nhưng không linh nghiệm.”
“Anh cầu gì?” Tuy hỏi vậy, nhưng tôi đã rõ câu trả lời. Hẳn là Conor cầu cho bố sẽ quay về. Tôi biết vì chính tôi cũng từng làm thế. Sau khi bố biến mất, tôi cầu nguyện hết đêm này qua đêm khác để bố quay về nhà. Nhưng ông chưa từng xuất hiện.
“Em biết mà Saph.” “Ừ. Em cũng vậy.”
“Em cũng cầu nguyện ư?”
“Vâng. Hàng đêm, suốt một thời gian dài.” “Nhưng chẳng có kỳ tích xảy ra.”
“Vâng.”
“Em biết trong truyền thuyết kia họ bảo cầu vồng là gì không? Ý anh là trong truyền thuyết về Noah.”
“Không.”
“Nó là dấu hiệu cho thấy sẽ không bao giờ có một trận hồng thủy khác giống trận đã nhấn chìm cả thế giới.”
“Này Con, em quên kể cho anh nghe. Em đã gặp một cô gái tên Rainbow.”
Nhưng Conor không nghe tôi nói. Anh đang lấy tay che mắt và nhìn chằm chằm về hướng biển xa xa. Ban đầu tôi tưởng anh đang tìm những người lướt sóng, nhưng rồi anh chộp cánh tay tôi. “Kìa! Đằng kia, gần tảng đá! Em có thấy cô ấy không?”
“Ai? Rainbow ư?” Tôi hỏi như một đứa ngốc.
“Elvira,” Conor nói, như thể đấy là đáp án hiển nhiên và duy nhất. Như thể người mà bất kỳ ai có thể đang tìm kiếm đều sẽ là Elvira.
Anh tôi chưa bao giờ chủ động nhắc tới Elvira, kể cả gọi tên cũng không. Nhưng kể từ lần cuối họ trò chuyện, ắt là trong tâm trí anh luôn có bóng dáng chị ấy. Chuyện xảy ra ngay sau khi chú Roger và người bạn thợ lặn của chú, chú Gray, suýt chết khi đi lặn gần Bawns.
Tôi nhớ Conor và Elvira đã tán gẫu với nhau như thế nào khi chúng tôi đã đưa được chú Roger và chú Gray lên thuyền an toàn. Conor ngồi nhoài ra phía mạn thuyền, và Elvira ở dưới nước. Trông họ như chẳng còn ai khác trên đời. Vô cùng chăm chú vào đối phương. Sau đó Elvira lặn xuống và biến mất, còn chúng tôi đưa thuyền về bờ.
“Em đâu thấy Elvira,” tôi nói. “Em chẳng thấy gì hết.”
“Ở đó. Nhìn theo hướng anh chỉ. Không phải ở đó – kia kìa. Không, em muộn rồi. Cô ấy đã biến mất.”
“Mà anh chắc không, Conor? Có thật là Elvira?” “Là cô ấy. Anh biết là cô ấy.”
“Có khi là một phần của tảng đá.” “Không phải tảng đá. Là cô ấy.”
“Hoặc có lẽ là một người lướt sóng...”
“Saph, tin anh, là Elvira. Anh không thể nhầm cô ấy với ai khác.”
Tôi vẫn không đồng ý với anh trai. Trực giác mách bảo tôi Hải tộc không ở gần đây. Không phải Faro, chị cậu hoặc bất cứ thành viên nào trong tộc. Song trong tâm trí Conor, hình ảnh thoáng qua của một con hải cẩu hoặc phao cứu đắm lại biến thành hình ảnh của Elvira.
“Anh cứ suýt trông thấy cô ấy như vậy đấy,” giọng Conor có vẻ thất vọng, “nhưng sau đó cô ấy luôn biến mất. Anh tin chắc lần này là cô ấy.”
“Anh đâu thể chắc chắn, Conor.”
“Lúc bầy cá heo đến, cô ấy đang ở trong vịnh.” “Anh chắc không? Em đâu thấy gì.”
“Cô ấy ở đó; anh biết. Anh đã thấy cô ấy ở khóe mắt, nhưng khi anh quay sang, cô ấy mất dạng. Anh nghĩ là do có Mal và bố cậu ấy. Elvira sẽ không mạo hiểm để họ bắt gặp.”
“Anh nghĩ là họ có thấy không?” “Ý em là sao?”
“Có lẽ chỉ bọn mình mới nhìn thấy Hải tộc. Anh nhớ không, bà Carne từng nói chúng ta có huyết thống Hải tộc. Có lẽ kể cả khi Faro hay Elvira bơi thẳng đến chỗ thuyền thì Mal và bố anh ấy vẫn không thấy họ.”
Tôi nhớ những lời Faro từng nói: Mở mắt cậu ra. Có lẽ không đơn giản là mở mí mắt và chú mục. Có lẽ nó liên quan đến việc tình nguyện thấy những thứ mà tâm trí mách bảo với bạn rằng chúng không có khả năng tồn tại...
“Dĩ nhiên họ sẽ thấy Elvira nếu cô ấy ở đó,” Conor cãi. “Em đang biến Hải tộc trở thành sản phẩm tưởng tượng của chúng ta. Elvira thật như – thật như... Saph, tại sao em nghĩ cô ấy đang trốn? Tại sao cô ấy không chịu nói chuyện với anh?”
“Em không biết.”
Tôi nghĩ mình không nên nói nữa. Dường như chúng tôi đang đổi vai cho nhau. Bỗng chốc tôi là người có đầu óc thực tế và nhạy bén, và Conor trở thành kẻ mộng mơ, khao khát tiếp cận Ingo. Không. Hãy thành thực, Sapphire. Thứ anh ấy khao khát không phải Ingo, mà là Elvira. Và có lẽ đấy là điều đang làm tôi trở nên quá nhạy bén và thực tế...
“Bọn mình nên về nhà, Conor. Trời đang bắt đầu mưa.”
“Saph, em chịu nói rồi!” Conor quay ngoắt sang nhìn tôi, nụ cười rạng rỡ trên môi. “Cuối cùng em cũng nói từ đó. Anh đã thầm cược rằng mất bao lâu em mới chịu nói.”
“Nói gì? Anh đang nói gì thế?”
“Em không nghe sao? Em vừa bảo là ’nhà’.”