K
hi chiếc xe buýt màu xanh dương xập xệ khuất dạng ở đằng xa, bỏ lại tôi với Sadie bên vệ đường, tôi bỗng nhận ra mình vừa mới làm gì. Đây là trạm ngay trước nhà thờ thị trấn Senara và là trạm gần nhà bà Carne nhất. Quanh đây, ngoài con đường đất và rặng đồi được bao phủ bởi cây dương xỉ diều hâu, kim tước và thạch nam thì chẳng hề có bóng nhà cửa. Sau một vụ cháy, vị trí trước kia là những bụi kim tước giờ là một vệt đen thui kéo dài từ bên này sang bên kia rặng đồi.
Bốn bề lặng ngắt như tờ. Con đường xám xịt, vắng hoe. Nhưng không phải đây là điều tôi muốn sao? Tôi không muốn chạm mặt người quen. Nếu đi dọc theo con đường thêm một đoạn ngắn nữa, sẽ có đường mòn dẫn lên nhà bà Carne.
“Đi nào Sadie,” tôi khích lệ con chó. “Không còn xa nữa.”
Lần này, Sadie không phản ứng gì khi tôi nói. Nó ngồi sụp trên bãi cỏ thô ráp nằm giữa con đường và rãnh mương, đầu gục trên hai chân, mắt nhắm nghiền.
“Sadie!”
Dường như phải mất rất nhiều sức lực Sadie mới có thể từ từ mở mắt. Nó lờ đờ nhìn tôi, chẳng xác định được vật thể trước mắt. Sau hồi lâu ngơ ngác, mi mắt nó khép lại.
Nỗi khiếp sợ lan khắp người tôi như điện giật. Tôi nghĩ nó chết rồi. Tôi vội nhào tới bãi cỏ bên cạnh Sadie, áp tai vào hông con chó. Tôi không nghe thấy gì cả. Sadie đã chết. Sự thật đó quá khủng khiếp, đến nỗi tôi không thể cử động hay ú ớ. Sau đó, cực kỳ chậm, xương sườn chuyển động dưới da nó. Trong họng con chó phát ra tiếng kêu khàn khàn gắng gượng, như thể nó đang cố sức thở qua hàng rào kẽm gai. Nhưng nó đang thở. Sadie còn sống.
Tất cả là lỗi của tôi. Đáng lẽ tôi không nên ép nó leo lên Đồi Geevor. Giờ thì đến đi nó cũng bất lực, còn bị khó thở. Tôi sẽ phải làm gì đây? Sợ hãi, tôi thảng thốt nhìn ngang nhìn dọc con đường. Trong tầm mắt tôi chẳng có một bóng người. Từ bụi cây kim tước, một con chim sẻ vọt ra, nghiêng nghiêng đầu nhìn tôi, đoạn nhảy đi mất.
“Sadie!” Tôi thử bế nó đặt vào lòng. Cơ thể nó nặng trịch, mềm rũ và thiếu sinh khí để mà nhúc nhích. Nhưng thân mình nó vẫn ấm. Nó còn sống. “Cố chịu đựng nhé Sadie! Tao sẽ tìm người giúp mày. Tao hứa. Làm ơn, làm ơn đừng chết.”
Nhưng tìm người giúp như thế nào đây? Giá như tôi có điện thoại di động. Cơ mà dẫu có thì lúc này cũng chả ích gì. Cư dân ở Senara phàn nàn rằng họ không bắt được tín hiệu. Bốt điện thoại. Trên đoạn đường đi xuống gần nhà thờ có một cái. Từ đây chạy đến đó mất bao lâu? Chắc chừng mười phút, sau đó tôi sẽ phải gọi điện, rồi mất mười phút quay trở về. Quá lâu.
Nếu bây giờ tôi để Sadie ở một mình, nó sẽ nghĩ tôi bỏ rơi nó lần nữa, và nó sẽ bỏ cuộc.
“Ôi Sadie ơi, tao xin lỗi, tao vô cùng xin lỗi...” Tôi ôm chặt nó, cố rót sinh khí vào cơ thể nó. Chú chó của tôi không thể chết vô cớ như vậy. Hôm qua nó còn chẳng ốm. Sadie của hôm qua tràn đầy sức sống.
Tôi dịu dàng đặt tay lên đầu con chó, vuốt ve an ủi nó hết mức có thể. “Cố lên. Mày sẽ không sao đâu.” Thế nhưng, lần đầu tiên từ đó tới giờ, Sadie xoay đầu chỗ khác, tránh tay tôi. Nó yếu ớt nhổm dậy, cố gắng chui ra khỏi lòng tôi.
“Đứng lên đi, Sapphire. Đứng né ra sau, cho con chó của cháu chút không khí,” một giọng nói vang lên sau lưng tôi.
“Bà Carne!” Tôi thốt lên, toàn thân cảm thấy nhẹ nhõm. Bà Carne sẽ biết cần làm gì, bà còn giàu kinh nghiệm hơn cả bác sĩ thú y. “Giúp cháu, làm ơn giúp cháu với, cháu đang trên đường đến tìm bà. Sadie ốm rất nặng, cháu nghĩ nó sắp chết...”
“Đừng để con chó nghe cháu nói lời ấy. Cháu sẽ làm nó mất tinh thần. Lùi ra sau, để ta xem nó nào.”
Tôi ngần ngừ buông tay, nhẹ nhàng đặt Sadie nằm lên bãi cỏ lạnh ngắt. Bà Carne đứng bất động, chăm chú quan sát Sadie. Càng nhìn, tôi càng thấy bà giống một cái cây cao hơn bao giờ hết, còn Sadie thì nằm dưới bóng mát của bà. Đôi mắt sắc của bà lóe sáng. Tôi không sao kiên nhẫn nhìn Sadie nằm im một chỗ, ốm yếu và cô đơn như thế. Tôi dợm nhúc nhích...
“Đừng, Sapphire, đứng lùi ra sau ngay. Cháu không giúp được nó.”
“Cháu không thể đứng yên đây nhìn nó chết.”
“Không ai bỏ mặc bất cứ ai chết hết, cháu gái của ta. Nhưng hiện tại, thứ mà Sadie cần là năng lượng từ mặt đất. Nhìn cái cách con chó nằm đó mà xem, có gần gũi với đất không nào? Cháu chưa từng thấy một bà mẹ ôm con tựa vào lòng khi đứa trẻ bị ốm đúng không cháu gái?”
“Chưa ạ.”
“Thời nay mọi người học lắm thứ ở trường đến nỗi họ dốt đặc cán mai. Nhưng Sadie thì biết đấy.”
“Cháu đang định mang nó tới nhà bà, nhưng đường xa quá. Nó không đi nổi nữa.”
“Hãy cho nó thời gian. Nó sẽ bình phục.”
Thời gian trôi qua một lúc lâu, và trông như bà Carne chẳng hề làm gì. Bà cứ đứng đó, không cử động, tầm mắt không rời khỏi Sadie, quan sát từng hơi thở nó hít vào. Bất chợt, có tiếng ríu ra ríu rít nho nhỏ. Có lẽ là một trong những con chim sẻ nấp trong bụi kim tước. Nhưng rồi khi âm thanh nọ vang lên mạnh mẽ và du dương hơn, tôi biết đó không phải là chim sẻ. Là bà Carne. Âm thanh ấy phát ra từ môi bà, và bà đang huýt sáo cho Sadie nghe. Tiếng huýt sáo mỗi lúc một to. Thân mình uể oải của Sadie chợt run lên. Rồi thêm một đợt run khác. Những cơn run thật mạnh làm toàn thân Sadie lay động, như thể nó chợt nhận ra mình đang lạnh cóng. Tiếng huýt sáo của bà Carne cứ thế lớn dần cho đến khi hai tai tôi ù theo. Sadie run lên một lần nữa, từ chóp mũi lan đến chóp đuôi. Cơ thể nó trông khác hẳn, không còn quá lừ đừ. Một tai nó vểnh tới trước như đang lắng nghe. Cái đuôi yếu ớt vỗ lên bãi cỏ. Chậm rãi và khó nhọc, nó mở mắt, và lần này, tầm nhìn của nó và của bà Carne giao nhau. Đôi mắt nó ngời sáng, nhận thức cảnh vật trong tích tắc rồi khép lại.
“Sadie!”
“Bây giờ nó sẽ làm được,” bà Carne nói. “Hãy cho nó thời gian.” “Nó đỡ chưa ạ?”
“Không nhiều lắm,” giọng bà Carne có vẻ nghiêm trọng. “Linh hồn của nó đã rời xa chúng ta, bắt đầu một hành trình lạnh giá.”
“Nó đã đi đâu ạ?”
“Ingo làm nó sợ, khiến linh hồn nó chùn bước, tránh xa. Giống như khi ta đổ nước lên một đống lửa. Đây không phải bệnh tật thông thường, Sapphire. Ta tin cháu biết rõ. Khoảng cách giữa Ingo và nó quá gần. Một sinh vật thuộc về mặt đất như Sadie không thể sống sót ở đó.”
“Làm thế nào bà biết ạ?”
“Ta không trách cháu, cháu gái. Thế nhưng, hãy nhìn cháu mà xem. Hôm nay, dấu hiệu của Ingo bao phủ khắp người cháu. Đừng bảo ta là gần đây cháu không đến đó. Đừng bảo ta là cháu không nghe thấy tiếng nhạc của Ingo nữa. Và bất kể cháu đi đâu thì con chó cũng sẽ bị ảnh hưởng theo, vì nó là của cháu.”
“Nhưng bà Carne ơi, cháu đâu có mang nó theo. Cháu đã để nó lại trên bậc thang cao nhất.”
“Đối với một con chó như Sadie thì không có sự bảo hộ. Từ trong tim mình, nó đi theo cháu. Sadie theo bước cháu cho đến khi nó không thể tiến thêm. Nó đã suýt vỡ cả tim vì lo cho cháu.”
Sadie cố gắng đứng dậy. Tôi vội nhào tới giúp nó.
“Đừng, để nó tự đứng. Hiện tại, nó sẽ khỏe lên nếu được ở một mình. Cho nó vài phút, sau đó chúng ta có thể đưa nó tới nhà ta.”
Tôi không hỏi thêm câu nào nữa. Thật lòng mà nói thì hôm nay tôi hơi sợ bà Carne. Bà biết quá nhiều, khiến tôi nảy sinh những suy nghĩ ngoài ý muốn. Tôi biết mọi người tìm đến bà khi họ gặp phiền toái, nhưng có lẽ không phải lúc nào họ cũng nhận được đáp án vừa ý. Bà sẽ không cho phép tôi chạm vào Sadie. Bà Carne không chịu tin rằng tôi chưa từng làm hại Sadie ư?
“Ừm, nó đã đi cả một quãng đường dài,” bà Carne nhắc lại. “Đã bao giờ cháu nhìn thấy một người gần chết cóng sau khi ông ta ngoi từ dưới biển lên trong trạng thái suýt chết đuối, sau khi ông ta bám lấy mảnh tàu vỡ hàng giờ liền chưa? Cháu không được đặt ông ấy ngồi gần ngọn lửa. Cháu phải làm ấm ông ta dần dần, để cơ thể ông ta quen với nhiệt độ đó. Sadie sẽ tìm được cách để bình phục, nhưng nó cần thời gian. Nó cần có đất liền bao bọc mình, Sapphire. Với tình trạng của con chó bây giờ, hơi thở của Ingo là quá sức mãnh liệt.”
“Anh Conor của cháu thế nào?” Lúc chúng tôi rảo bước đi lên con đường mòn, bà Carne hỏi tiếp. Sadie thận trọng bước theo, như thể chưa dám chắc nó có trụ vững được không.
“Anh ấy khỏe ạ.”
“Anh cháu sống ở St. Pirans vui chứ?”
“Cháu không biết. Cháu nghĩ là vậy. Dẫu sao anh ấy cũng muốn sống hạnh phúc ở đó.” “Còn cháu thì không?”
“Khó lắm ạ. Việc đó quá khả năng với cháu. Bà Carne ơi, cháu không cố ý làm Sadie bị ốm đâu.”
“Ta biết. Nhưng để nhìn rõ sự việc từ tổng thể thì phức tạp đấy. Chính ta vẫn chưa phân tích cụ thể được. Chỉ là có lý do để giải thích tại sao Conor và cháu lại giống nhau. Việc ấy không phải vô cớ. Có thể rằng sắp đến một thời điểm, khi mà hai cháu kế thừa hai dòng máu như nhau là vì một nguyên nhân nhất định. Từng có những người khác như vậy. Matthew Trewhella đầu tiên là một minh chứng: ông ấy rời bỏ thế giới con người và đến với Hải tộc. Bố đẻ cháu là một ví dụ nữa. Nhưng ta chưa từng biết đến ai sở hữu huyết thống Hải tộc và nhân loại ngang bằng như cháu. Cháu mang nửa dòng máu này và nửa dòng máu kia. Ắt đấy là cách đời các cháu được truyền thừa. Huyết thống đó yếu đi ở đời này và mạnh lên ở đời tiếp theo.”
“Bà muốn nói rằng quả thật cháu và Conor là nửa Hải tộc nửa nhân loại ạ?”
“Chỉ có cháu, cháu gái. Chỉ có cháu. Huyết thống Hải tộc của Conor không mạnh bằng cháu, và sẽ chẳng bao giờ có chuyện đó, vì mỗi ngày thằng bé đều dồn ép nó.”
“Cháu biết.” Giờ tôi đã hiểu ý Conor khi anh nói, “Nếu thật sự kháng cự, em có thể ngăn mình đến bước kế tiếp.”
“Conor không muốn trở thành nửa này nửa kia phải không ạ?” Tôi hỏi. “Anh ấy chẳng hề muốn biến thành Hải tộc.”
“Có lẽ là vậy.”
Trừ phi là vì Elvira, tôi nghĩ bụng.
“Anh cháu đấu tranh với nó,” bà Carne nói. “Lúc trước, bố cháu không quyết liệt đương đầu. Cháu hiểu ta đang nói gì không?”
“Không ạ.”
“Giờ cháu đủ khôn lớn để hiểu chuyện này rồi, cháu gái của ta, rằng việc ấy không chỉ xảy ra với chúng ta. Đâu đó trong chúng ta thỏa hiệp. Ta để mặc chúng xâm lấn, mà những người gần gũi với chúng ta nhất có lẽ lại nghĩ rằng chúng ta vẫn đang đấu tranh.”
Tôi thấy lạnh lẽo và mệt mỏi. Tôi hiểu ý bà nói. Bà bảo với tôi là ý chí của bố không kiên định. Và tôi đã nhận thức rõ điều ấy, sau vài tháng vừa qua. Kể từ lúc bố rời bỏ chúng tôi đến giờ đã mười bảy tháng. Thuyền của bố được tìm thấy trong tình trạng trống rỗng, lật úp và mắc kẹt trong bãi đá. Những người khác đều nghĩ bố chết đuối. Chỉ có Conor và tôi giữ vững niềm tin.
Nếu như trong suốt một quãng thời gian dài tôi có thể thuyết phục mình rằng đã có thế lực huyền bí nào đó ngăn bố liên lạc với chúng tôi, thì giờ đây, tôi không thể ép mình tin tưởng điều ấy nữa. Nếu bố muốn nói chuyện với chúng tôi, ông sẽ làm như vậy.
“Gần đến rồi,” bà Carne nói. “Con chó làm rất tốt.”
“Mày dũng cảm lắm,” tôi nói. “Mày dũng cảm lắm, Sadie,” tôi giữ giọng mình thật ấm áp, đầy ngợi khen vì con chó đáng được tôi khích lệ, dù trái tim tôi đang lạnh giá và mỏi mệt. Ban đầu, bà Carne đi giữa tôi và Sadie, còn lúc này, bà bước bên cạnh tôi. Theo thói quen, Sadie dụi dụi vào người tôi. Tôi vỗ vỗ tấm lưng vàng óng ấm sực của nó. Mỗi phút trôi qua, Sadie đang dần trở lại là chính nó. Bộ lông của nó óng mượt như trước, hai mắt tinh tường hơn. Nó quay đầu sang, nhìn tôi như muốn nói, “Ổn rồi, tôi sẽ không bỏ rơi bạn.” Tại sao những con chó lại vị tha đến vậy? Mắt tôi xót xót, nhưng tôi sẽ không khóc. Sadie không thích tôi rơi nước mắt.
Kia rồi, là căn nhà đá màu xám trông như một phần của ngọn đồi đá gra-nít. Bà Carne đẩy cửa ra và chúng tôi bước vào trong. Khoảng diện tích bên dưới chỉ có một phòng rộng rãi sơn màu trắng với một bếp lò để làm ấm căn phòng cùng vài mảng màu sáng sủa từ khăn trải bàn và mấy tấm đệm. Căn phòng tuy giản dị nhưng không nghèo nàn. Mọi thứ thoạt nhìn sờn cũ vì đã dùng lâu. Tôi nhớ cái lần mình đến đây với Conor vào một ngày hè oi ả, đấy cũng là lần đầu tiên bà Carne nhắc đến việc chúng tôi kế thừa huyết thống Hải tộc. Ngày mà Conor trò chuyện cùng bầy ong. Có cảm giác như xưa lắm rồi.
“Ta sẽ đi lấy một cái chăn cũ xuống cho Sadie đắp,” bà Carne nói. “Nó cần ngủ qua đêm ở đây cho lại sức.”
Tôi chưa kịp phản đối thì bà Carne đã khuất dạng trên gác. Sadie không thể ngủ lại đây. Chúng tôi phải quay về trước lúc mẹ biết hôm nay tôi cúp học.
“Cháu cũng ở lại đi, Sapphire,” bà Carne trở lại với cái chăn gấp gọn. Thoạt nhìn chẳng giống chăn cũ. Nó làm từ những sợi len dày, mịn, và trông nó như được mang ra từ chính giường ngủ của bà Carne. Bà đặt chăn xuống bên bếp lò cho Sadie nằm.
“Cháu không ở lại được, bà Carne. Cháu phải về trước lúc trời tối. Mẹ tưởng cháu đang đi học...”
“Sadie cần cháu ở đây.” “Nhưng mẹ...”
“Ta sẽ nhắn tin cho mẹ cháu. Sau khi cháu thu xếp xong, ta sẽ xuống dưới nhà thờ thị trấn nói chuyện với bà Mary Thomas. Bà ấy có điện thoại.” Bà Carne nói như thể điện thoại là vật hiếm hoi và có thể gây phiền phức. “Mẹ cháu sẽ biết cháu đang an toàn ở nhà của ta.”
Trên gác nhà bà Carne có hai phòng ngủ, một phòng lớn và một phòng nhỏ hơn mà bà gọi là phòng cho khách. Đó là nơi tối nay tôi ngủ lại. Lúc này tôi đã bỏ ý định đi về; tôi không thể bỏ mặc Sadie. Có một giá rửa mặt bằng sứ và một bình nước mà bà Carne múc trong máng xối chỗ suối phun. Không có phòng tắm. Khi nào muốn tắm, bà Carne đun nước trên bếp lò và đổ đầy cái bồn tráng men treo trên móc gắn vào tường. Nó khá nhỏ, với một cái kệ bên trong để ngồi. Bà Carne gọi nó là bồn tắm nửa người. “Trải nghiệm đi, cháu gái,” bà nói, nhưng tôi bảo mình chỉ cần rửa ráy. Trong nhà cũng chả có buồng vệ sinh. Nhà vệ sinh ngoài trời mà bà Carne gọi là nhà xí lạnh lẽo đến mức tôi hy vọng buổi tối mình không cần ra ngoài. Đến giấy đi vệ sinh cũng chẳng thấy, chỉ có một ít mẩu báo hình vuông cắt ra từ tờ The Cornishman được ghim vào một cái đinh.
Trời tối lúc hãy còn sớm. Sadie không muốn ăn, nhưng nó có uống một chút nước. Bà Carne đã xuống nhà thờ trong thị trấn, nên chỉ còn mỗi tôi với Sadie ở nhà. Tôi tự hỏi bà Mary Thomas sẽ nghĩ sao nếu bà Carne bảo chúng tôi đang ở đây. Theo tôi biết thì xưa giờ chưa từng có ai nghỉ qua đêm ở nhà bà Carne. Tuy được mọi người nể trọng, song kho kiến thức của bà Carne cũng làm người khác lo sợ. Có vô số lời đồn về phương pháp bà ấy thấy trước tương lai và chữa lành các vết thương mà thuốc men bình thường vô hiệu. Tôi không có ý nói những căn bệnh như ung thư, mà là những bệnh ẩn sâu trong tâm hồn mỗi người. Bà Carne có sức mạnh trị liệu chúng.
Tôi vẫn không chắc mình có tin bà Carne biết trước tương lai hay không. Tôi chỉ dám chắc bà biết và hiểu những việc mà người bình thường không làm được. Đất Mẹ ban cho bà sức mạnh. Nếu là vào thời xưa, có lẽ bà sẽ bị bắt giam và thiêu chết như một phù thủy vì tinh thông quá nhiều thứ. Bố luôn bảo tôi như vậy.
Tâm trí tôi tưởng tượng ra cảnh tôi lần theo bà Carne khi bà đi trên con đường dẫn xuống nhà thờ, sau đó bà đi vòng ra con đường hướng đến nhà chúng tôi và nhà bà Mary. Tới giờ này, thường cửa sổ nhà chúng tôi đã sáng đèn. Tháng Mười Một trời rất mau tối. Bà Carne thuộc lòng đường đi trong đêm. Tôi vui mừng vì mình không phải đi ngang qua đó và chứng kiến những người khác sống trong nhà tôi. Tôi tự hỏi liệu các bức màn ca-rô đỏ mà mẹ may hồi chúng tôi bé xíu có còn treo ở chỗ cũ không. Vào những chiều mùa đông, lúc chúng tôi tan học và về nhà, trông chúng lúc nào cũng ấm áp với ánh sáng rọi qua.
Tôi cũng tự hỏi rằng liệu những người sống trong nhà chúng tôi có bao giờ đi xuống vũng. Tôi băn khoăn là liệu họ có bắt gặp Faro hay Elvira đang ngồi trên bãi đá gần cửa vũng, nơi lần đầu tiên Conor và tôi gặp hai bọn họ. Hy vọng là không. Tôi chẳng có ý ích kỷ khi nghĩ vậy. Nếu chạm mặt Hải tộc, cuộc sống của họ sẽ chẳng đời nào trở lại như xưa.
Tuy nhiên, nhà bà Carne cách biển ít nhất là hai dặm. Tôi không rõ Ingo có thể tiến vào đất liền bao xa, nhưng rõ ràng nhà bà ấy thuộc về Đất Mẹ. Có lẽ đấy là lý do tại sao Sadie đang ngủ thật thư thái bên bếp lò. Dẫu thế, trong lòng tôi không hề thấy bình yên. Tôi sẽ ở lại vì Sadie, nhưng tôi ước mình không phải làm thế. Ở đây, tôi không có cảm giác thoải mái như ở nhà.
Phải mất cả một lúc lâu mới sẵn sàng qua đêm tại nhà bà Carne. Tôi giúp bà lấy thêm ít củi từ đống củi trong nhà kho và chất đầy thùng đựng than. Bếp lò phải cháy đượm suốt đêm. Trước lúc đi ngủ, bà Carne khơi bếp bằng một que cời lửa có móc đằng chuôi. Khi bà xong việc, cái móc đỏ rực. Tôi phụ hót tro nóng ra cái vại đựng tro. Bà Carne bảo tro rất có ích cho đất, và ngày mai, lúc tro nguội, bà sẽ rải trên khoảnh đất trồng rau. Bà lấy những thanh củi và một đụn đầy than tốt để đốt lò, đoạn đóng nắp lò ở mặt trước.
Bỗng tôi nhớ ra một chuyện. “Lúc bọn cháu còn nhỏ, nhà chúng cháu cũng có một cái bếp giống vậy, sau đó mẹ cháu mua bếp điện.”
“Trước lúc có bếp điện thì đâu đâu cũng dùng cái này.” Bà Carne nói như thể điện mới vừa được phát minh. “Họ sẽ chẳng bao giờ đưa điện lên đây, nhưng ta chả thấy thiếu thốn,” bà Carne nói tiếp. Bà đã thắp những cây đèn dầu. Tôi thích thứ ánh sáng màu vàng dìu dịu ấy, chúng mang đến sắc màu ấm áp cho các bức tường trắng. Dưới gác, bà Carne thắp đèn dầu, trên gác thì bà dùng nến. “Lúc ngủ cháu không cần thắp đèn quá sáng,” bà nói.
Căn nhà thoang thoảng mùi nến, mùi gỗ cháy, mùi dầu thắp và mùi đá. Có những cái bóng thật to trong các góc phòng. Nơi này thực chất không hề đáng sợ, chỉ là nó sở hữu quá nhiều sức mạnh, khiến người ta bất an. Tôi thấy vững dạ vì Sadie ở đây. Nếu thức giấc trong đêm, tôi sẽ nghe được tiếng nó thở, và nếu tôi gọi tên nó, nó sẽ bật dậy ngay lập tức.
Đang khuỵu gối kế bên bếp lò, bà Carne chậm rãi đứng lên. Bà khe khẽ nói gì đó mà tôi không nghe rõ.
“Giờ nó sẽ cháy đượm cả đêm,” bà nói. “Hãy khen nó, và nó sẽ phục vụ cháu hết mình.”
“Bếp lửa của bà có tắt không ạ?”
“Sinh mệnh của nó cũng dài lâu như của ta vậy, cháu gái ạ. Thi thoảng nó cháy từ từ, nhưng nó sẽ không bao giờ tắt.”
“Bà Carne này?” Tôi ngần ngừ đặt câu hỏi. “Bà sống... ý cháu là... bà ở đây bao nhiêu năm...”
Bà khoanh tay lại nhìn tôi. Đôi mắt sắc như mắt cú của bà bừng sáng với vẻ thích thú. Bà ấy biết rõ tôi muốn hỏi điều gì, bởi vì đó cũng là điều mà mọi cư dân ở Senara thắc mắc xưa nay. Bà Carne bao nhiêu tuổi? Bà đã sống ở đây, trong căn nhà này bao lâu, với những người lặng lẽ tới nhà bà khi họ gặp những phiền toái mà họ không có lời giải đáp? Nhiều năm... nhiều thập kỷ... hay thậm chí là hàng thế kỷ...?
“Ta già bằng lưỡi của ta và lớn tuổi hơn răng của ta chút đỉnh, Sapphire ạ,” bà nói. “Trả lời câu hỏi của cháu như vậy được chưa?”
“Chưa ạ,” tôi bạo gan đáp.
“Cháu muốn nghe nhiều hơn ư?” “Vâng ạ.”
“Cháu đòi hỏi ở ta lắm quá, Sapphire.” Giọng bà trở nên khó chịu. Âm điệu cũng thay đổi. Bà ấy không là một bà lão nữa, và tôi cũng không phải là một đứa trẻ. Tôi nhìn chằm chằm vào mắt bà. Ánh mắt của mọi người sẽ không thay đổi.
Tuy nhiên, những thứ khác đang biến đổi. Lúc tôi đưa mắt nhìn, nếp da nhăn nheo màu nâu quanh đôi mắt của bà Carne dần mịn màng, mềm mại. Mái tóc hoa râm của bà chuyển màu, dần lơi ra khỏi búi tóc và xõa lăn tăn, bóng mượt trên bờ vai bà. Mái tóc thật dài màu nâu sậm, màu của thứ đất đậm nhất với những gợn sáng đỏ rực như lửa. Đôi môi bà đỏ tươi, căng mọng. Bà đứng thẳng lên, dáng người mảnh khảnh như một cây bạch dương trẻ tuổi.
“Bà Carne,” tôi thì thào. Nhưng bà Carne không còn ở trong phòng nữa. Bờ môi người phụ nữ hé thành một nụ cười, sau đó người này đặt một ngón tay lên môi, ý bảo tôi im lặng. Đây chính là Thổ thuật, và tôi thấy quá sức chịu đựng. Tôi nhắm chặt mắt lại. Khi tôi mở mắt ra, người phụ nữ trông giống cây bạch dương biến mất, và bà Carne đứng đó.
“Người kia đâu rồi ạ?”
“Chẳng có ai trong căn phòng này ngoài chúng ta hết, Sapphire. Hết thảy những gì ta cho cháu thấy là thời gian không giống như cháu nghĩ.”
“Nhưng làm thế nào bà vừa già vừa trẻ cùng lúc được ạ?”
Bà Carne mỉm cười. “Hãy hỏi bất cứ ai có tóc hoa râm ấy. Hỏi bà Eagle là so với hồi bà ấy mười tám thì bây giờ bà ấy thấy có sự khác biệt nào bên trong không. Chỉ khác xíu xiu thôi.”
“Bà quen bà Eagle ạ?”
“Ta quen Temperance Eagle từ thời con gái. Hồi đó tên bà ấy là Temperance Pascoe. Thời trẻ tính bà ấy mạnh bạo phóng khoáng lắm,” bà Carne trầm tư nói tiếp. “Có một tối thứ Bảy bố bà ấy đi lùng sục khắp St. Pirans tìm bà ấy. Ông cụ hét om sòm rằng hễ mà bắt được thì sẽ đánh bà ấy bằng dây thắt lưng. Ông cụ là một tín đồ Cơ đốc vô cùng ngoan đạo.”
Song những câu chuyện thời trẻ của bà Eagle sẽ không đánh lạc hướng nổi tôi đâu. Bà Eagle bây giờ rõ là già rồi. Bà Carne cũng già, thế nhưng bà vừa biến thành một phụ nữ đầy sức sống như một cây bạch dương tươi xanh trước mắt tôi. Tôi biết mình không tưởng tượng ra cảnh đó. Những gì bà Carne làm hoàn toàn khác với chuyện một người già thấy nội tâm mình trẻ trung.
“Bà Eagle không thể bắt chước bà,” tôi dùng hết can đảm nhấn mạnh, “và chẳng có người nào nói về thời gian giống bà, như thể họ có thể xuyên ngược về hàng trăm năm trước và chứng kiến những sự kiện diễn ra hồi đó.”
Rồi bất chợt, tôi sực nhớ ra. Có người từng làm như vậy. Faro nói về thời gian y hệt cái cách mà bà Carne nói, như thể lịch sử vẫn tiếp diễn. Như thể cậu ấy tận mắt thấy con thuyền Ballantine xô vào bãi đá. Và khi tôi nhìn vào tâm trí Faro, cậu cũng giúp tôi nhìn thấy cảnh tượng kia.
Bà Carne thở dài. Giờ thì nhìn bà vô cùng già cỗi. “Cháu hỏi quá nhiều, Sapphire. Đều là những câu khó và ta không thể trả lời hết như cháu mong muốn. Hãy để ta tiết lộ với cháu từng này thôi. Những gì cháu thấy bây giờ không mấy người thấy đâu.”
“Tại sao bà cho cháu thấy cảnh ấy?”
“Không phải ta. Cháu mới chính là người có năng lực thấy phiên bản già lẫn trẻ của ta cùng đứng một chỗ. Cháu cho rằng toàn bộ sức mạnh của mình nằm ở Ingo, Sapphire ạ, nhưng đấy là do cháu chọn.”
“Nhưng chính bà đã nói huyết thống Hải tộc trong cháu rất mạnh, bà Carne. Hè năm ngoái, bà từng bảo với cháu và Conor như vậy.”
“Đúng vậy, tuy nhiên, không chỉ có bấy nhiêu. Huyết thống Hải tộc trong cháu có lẽ mạnh thật đấy, nhưng huyết thống Mặt đất của cháu chẳng kém cạnh. Không uy lực như anh cháu, nhưng vậy là đủ.”
“Có huyết thống Mặt đất là sẽ sống trên cạn luôn ạ – ý cháu là lựa chọn làm người ấy?”
“Không. Hầu hết mọi người sống hết đời mình mà không lựa chọn giữa đất liền hay Ingo. Họ chẳng cần làm vậy. Họ vui vẻ, hạnh phúc như khi sinh ra họ đã như thế. Họ sống trong thời gian hiện tại và ở một nơi thôi. Về phần họ, quá khứ giống như một tấm thảm đã cuộn lại, không ai có thể chạm vào. Tương lai cũng thế. Có khi họ là những người may mắn,” bà Carne bổ sung.
“Cháu chẳng thấy may mắn nếu không thể đến Ingo.” “Hãy hỏi anh cháu.”
Những lời Conor nói vang vọng trong đầu tôi: Anh đang cố gắng thuộc về nơi của chính mình. Conor thật sự muốn trở thành một phần của St. Pirans – lướt sóng, chơi ghi-ta, đi chơi cùng bạn bè – ấy vậy mà anh luôn âm thầm tìm kiếm Elvira. Có lẽ anh tôi ước rằng mình chưa bao giờ gặp chị ấy; có lẽ sẽ dễ dàng hơn cho anh nếu anh chưa từng đặt chân đến Ingo, vì anh sẽ có thể thuộc về nơi ấy.
“Đến giờ đi ngủ rồi,” bà Carne thình lình lên tiếng. Bà đưa tôi cái giá nến và thắp ngọn nến của tôi. “Tối nay Sadie sẽ ngủ trong phòng của ta, Sapphire ạ.”
“Nhưng...”
“Không. Nó vẫn chưa khỏe hẳn. Nó cần ở bên ta. Nó cần năng lượng từ mặt đất để bình phục. Cháu không cảm nhận được điều đó sao? Sadie là một sinh vật trên cạn. Nó yêu cháu, và điều ấy đối với nó thật phức tạp. Tối nay Sadie sẽ ngủ say, giống trái đất chìm vào giấc ngủ đông. Bệnh của nó sẽ được chữa lành. Cháu cũng biết một củ thực vật ngủ trong đất cả mùa đông như thế nào mà, Sapphire, để mạnh mẽ đâm chồi vào mùa xuân.”
“Sadie sẽ không ngủ hết mùa đông chứ ạ?”
“Ừ. Nó sẽ vượt qua mùa đông của chính nó để lành bệnh trong một đêm.”
“Bà vừa bảo Sadie yêu cháu. Cháu cũng yêu nó. Cháu sẽ chăm sóc nó. Cháu sẽ không bao giờ để nó bị thương.”
“Chưa bao giờ ư?” Ngọn lửa cháy ở chóp nến nhấp nháy, và một bóng đen vụt qua mặt bà Carne. Đôi mắt bà bị che khuất. “Chưa bao giờ sao Sapphire?”
Tôi đã bỏ mặc Sadie bị buộc vào trụ và đến Ingo. Suýt chút nữa Sadie đã chết... Nhưng tôi nào cố ý. Tôi đâu muốn nó gặp bất trắc, chỉ tại Ingo quá mạnh...
Tuy không hề mở miệng thốt ra những lời này, nhưng tôi biết chắc bà Carne đi guốc trong bụng mình. Bà đặt tay lên đầu Sadie, và Sadie không gắng gượng lại gần tôi. Nó nhìn tôi bằng đôi mắt nâu nhạt như muốn nói, “Cố mà hiểu đi. Tối nay, tôi không thể ở bên cậu.”
Cánh cửa khép lại trước mặt bà Carne và Sadie. Tôi rửa ráy qua loa và vọt lên giường. Nó lạnh ngắt. Tôi tự hỏi lần cuối cùng ai đó ngủ trên chiếc giường này là bao giờ. Có lẽ tận những mấy trăm năm trước. Tôi rùng mình.
Tôi ước, phải chi mình đã xuống nhà cũ. Chỉ nhìn qua thôi. Bà Carne bảo mẹ sẽ không để tâm việc tôi qua đêm ở đây, nhưng bỗng chốc tôi thấy cô đơn kinh khủng, vô cùng nhớ mẹ, Conor và tổ ấm của mình. Căn phòng bé tẹo này nằm đối diện sườn đồi. Nó tối tăm, yên ắng và mang đến cảm giác giống như đất. Tôi không nghe được âm thanh của đại dương. Tôi không nếm được vị muối mặn chát.
Tôi tin là mình sẽ không tài nào chợp mắt nổi. Mấy tiếng nữa trời sáng nhỉ? Chắc là hàng giờ, hàng giờ liền. Thời gian đang trôi cực kỳ chậm. Dường như đã cả trăm năm trôi qua kể từ lúc tôi dắt Sadie rời St. Pirans hồi sáng nay.
Trong phòng rất lạnh, thiếu dưỡng khí nữa. Ngột ngạt khó thở như đang ở trong hang động hay là bị vùi dưới đất ấy. Cảm giác như có cái vung bằng đất phủ trên người tôi. Giống như tôi đang nằm trong quan tài...
Thôi ngay Sapphire. Mày có phải là tù nhân đâu. Sáng mai, Sadie sẽ hoàn toàn khỏe mạnh, và chúng tôi sẽ bắt xe buýt quay về St. Pirans. Tôi đoán mẹ sẽ nổi giận, dù bà Carne bảo là không, nhưng tôi chẳng quan tâm. Tôi chỉ muốn về nhà.
Nếu tôi mở cửa sổ đón ít không khí trong lành vào phòng, hẳn sẽ dễ chịu hơn. Không khí trong này bốc mùi cũ kỹ – điều đó làm tôi bắt đầu nghĩ đến mấy cái quan tài. Lẽ ra lúc mới vào đây tôi phải kiểm tra gầm giường, nhưng tôi quên khuấy đi mất. Tôi luôn có cảm giác rờn rợn rằng nếu tôi đi ngủ mà không ngó nghiêng một phen thì sẽ chẳng có gì dưới ấy. Hoặc ai đấy. Nhưng tôi sẽ không nằm rúc một đống trên giường chỉ vì sợ có thứ gì bên dưới. Hẳn là chuyện đó cực kỳ khôi hài.
Nến! Sao tôi không nghĩ tới nhỉ? Tôi sẽ thắp nến. Tôi không thích bóng nến phản chiếu lên tường cho lắm, nhưng thà vậy còn hơn là tối om om. Ôi không, tôi không có que diêm nào. Bà Carne đã thắp nến hộ tôi. Tại sao bà quên đưa diêm cho tôi nhỉ? Lỡ đâu tôi phải đi nhà xí thì sao? Tôi không thể mò mẫm tìm đường đi khắp căn nhà trong bóng tối như lúc ở nhà. Lỡ tôi vươn tay và đụng trúng... thứ gì đó thì biết làm sao?
Phải chi có Sadie ở đây. Nó ở ngay trong phòng của bà Carne kế bên phòng tôi, nhưng với tôi, nó như đang ở một nơi nào đó xa xôi vạn dặm. Sadie đang khỏe lên, chuyện ấy quan trọng, Sapphire. Nhớ mà xem lúc Sadie nằm bẹp ở trạm xe buýt, trông nó thê thảm thế nào.
Tôi rùng mình. Lạnh quá đi mất. Tôi ước rằng mọi thứ sẽ khác đi, hoàn toàn khác đi.
Tôi đang ở trong nhà bà Carne, tít tận vùng Down nằm phía trên nhà thờ thị trấn Senara. Tôi thực sự ao ước mình đã rảo qua thăm nhà cũ. Dù có những người lạ sống ở đó, nhưng nó vẫn là mái ấm xưa kia.
Bất thình lình một sáng kiến nảy ra trong đầu tôi. Bà Carne nói đúng về thời gian không? Nếu huyết thống mặt đất trong tôi mạnh ngang huyết thống Hải tộc, nói không chừng tôi có thể thử dịch chuyển thời gian giống như bà Carne đã làm. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bây giờ tôi xuống nhà cũ và ngó vào cửa sổ, thông qua khe hở giữa những bức màn trong bếp và nhìn thời gian trôi đi? Có lẽ tất cả chúng tôi sẽ có mặt ở đó – bố mẹ, Conor và tôi – quây quần quanh bàn ăn bữa khuya. Dẫu vậy, tôi phải hết sức cẩn thận, vì nếu Sapphire khi ấy ngước lên và bắt gặp Sapphire hiện tại, hẳn con bé sẽ bị dọa sợ.
Chúng tôi sẽ đều trẻ hơn bây giờ. Họ sẽ trẻ hơn: bố mẹ, Conor và Sadie của hồi xưa. Họ sẽ chẳng mảy may hay biết những chuyện đã xảy ra.
Có lẽ mọi chuyện không nhất thiết phải xảy ra. Nếu bạn quay về một mốc thời gian khác, tương lai sẽ không tồn tại. Có lẽ mọi người nên gặp tôi, trước khi thời gian dịch chuyển đến thời điểm mà bố bỏ đi.
Không. Nếu mọi người gặp tôi thì sẽ không hữu dụng. Sẽ chỉ thêm hỗn loạn.
Thế nhưng tôi có thể lén lút gặp bố – bố của quá khứ – và khi bố có thể thấy tôi, tôi sẽ bảo ông đừng đi. Tôi có thể kể cho bố nghe những chuyện sắp xảy ra. Lễ truy điệu bố ở nhà thờ Senara, mọi người khóc lóc, cảnh tượng mẹ ngồi thẫn thờ chẳng nói năng gì, việc chúng tôi sống thiếu thốn thế nào, mẹ gặp chú Roger ra sao, bây giờ họ ở bên nhau, Conor suýt chết ở Ingo, chúng tôi rời Senara và dọn đến St. Pirans, rồi tất tần tật những chuyện khác mà bố không biết. Và bố có thể ngăn tất cả xảy ra.
Tôi cẩn thận nhổm dậy, cúi người bên mép giường rồi nhảy xuống giữa sàn nhà, cố gắng đáp thật khẽ. Chẳng có thứ gì ở dưới giường tóm lấy mắt cá chân của tôi.
Ắt là cửa sổ ở quanh đây thôi. Tôi lóng ngóng lần mò then cài. Nó bật ra dễ như bỡn, và tôi mở rộng cánh cửa.
Không khí trong lành, mát lạnh, phảng phất vị đất ùa vào. Tôi nhoài ra xa hơn. Tuy tôi đang ở trên gác song cồn đất vẫn nhô cao, thọc sâu vào phía sau ngôi nhà đến nỗi tôi có thể dễ dàng nhảy ra ngoài và đáp đất an toàn. Bên ngoài sáng hơn trong nhà nhiều. Từ nơi này, tôi không nhìn thấy mặt trăng ở phương nào, thay vào đó là các vì sao tỏa sáng rực rỡ.
Một ý nghĩ táo bạo bùng lên trong đầu tôi. Có lẽ tôi thật sự làm được việc này. Bây giờ tôi có thể đi xuống thăm nhà chúng tôi. Bà Carne có thể tìm đường trong bóng tối cơ mà. Nếu thời gian dịch chuyển và chúng tôi còn ở nhà cũ – bố mẹ, Conor và tôi – thế thì chìa khóa dự phòng vẫn nằm ở vị trí trước kia, dưới phiến đá ác-đoa gần cửa ra vào. Tôi sẽ đợi bọn họ lên giường hết, đoạn mở cửa và nhón chân vào phòng ngủ của bố mẹ. Tôi sẽ đánh thức bố, kể cho bố nghe mọi chuyện xảy ra sau khi bố bỏ chúng tôi mà đi.
Muốn tới đấy phải đi một quãng xa, xuống dưới con đường mòn dẫn ra đường cái, băng qua nhà thờ thị trấn Senara rồi mới tới con đường hướng đến nhà chúng tôi. Nhưng chỉ cần ánh trăng và ánh sao là đủ. Tôi dư sức làm được.
Tôi lấy hết lá gan chồm ra ngoài cửa sổ, tính toán điểm đáp an toàn nhất trên cồn đất. Lúc này ánh trăng thêm tỏ. Dẫu đây chỉ là cửa sổ ở phía sau nhà, xoay vào sườn đồi, tôi vẫn có thể quan sát khá rõ. Ánh sáng cũng đang rọi vào phòng ngủ, làm mọi vật chuyển sang màu xanh ma mị, nhưng bấy nhiêu là đủ để tôi tìm đường chạy xuống đồi.
Đúng lúc ấy, tôi nghe thấy một âm thanh khác. Tôi cứ tưởng nhà bà Carne cách biển rất xa, do đó tiếng sóng không thể nào vọng tới. Hẳn là đêm nay có gió thổi về phương này. Không đúng, trời vô cùng yên ắng. Chẳng có một làn gió nào, song tôi vẫn nghe ra tiếng sóng xào xạc. Chúng đang xâm nhập vũng của chúng tôi, xô vào bãi cát màu nhạt sạch như lau lộ ra khi triều xuống và bị che lấp khi triều dâng cao. Dưới ánh trăng, trong dáng vẻ những dải bọt thật dài, chúng đang len lỏi tiến vào.
Nghe kìa. Nghe kìa. Âm thanh gì kia?
“Sssssssapphhhhiiiiiiiire... Sssssssapphhhhiiiiiiiire...”
Là một đợt sóng. Tiếng sóng sì suỵt lặng đi khi tan vào bãi cát.
“Sssssssapphhhhiiiiiiiire... Sssssssapphhhhiiiiiiiire...”
Tôi đứng chết lặng bên cửa sổ. Chuyện này từng có tiền lệ. Đấy là khi chúng tôi sống ở nhà cũ và tôi nghe thấy một giọng nói trong đêm khuya, thế rồi tiếng sủa của Sadie vọng qua những cánh đồng và con cú bay ngang cửa sổ, sau đó tiếng nói biến mất.
“Sssssssapphhhhiiiiiiiire...” “Sssssssapphhhhiiiiiiiire...”
Sadie không hề sủa. Vạn vật im lìm, chỉ có giọng nói đó đang hiện hữu. Gáy tôi nổi hết gai ốc. Nó không giống giọng nói mình nghe lần trước.
Lần này là giọng của bố. Tôi nằm lòng từ lâu. Không nhầm vào đâu được. Bố đang gọi tôi. Làm thế nào lại có chuyện này nhỉ?
Phân nửa lý trí trong tôi muốn Sadie sủa, đánh thức bà Carne. Hè năm ngoái, khi tôi nghe thấy giọng nói trong đêm, tôi tin chắc bà Carne đã tỉnh dậy. Con cú bay ngang cửa sổ phòng tôi có đôi mắt của bà. Nếu bây giờ Sadie cất tiếng sủa, giọng bố sẽ biến mất và trời lại tối như mực. Tôi sẽ đi ngủ. Sáng ra, mọi chuyện sẽ như một giấc mơ.
Thế nhưng, nửa còn lại trong tôi rộn lên nỗi khao khát. Đây không phải là mơ. Tôi vô cùng tỉnh táo, dẫu giống như cả thế giới đang ngủ và chỉ mình tôi còn thức. Sadie đã chìm sâu vào giấc ngủ đông mà bà Carne bảo là có thể chữa lành cho nó. Cho dù nó đang ở đâu, tôi nghĩ nó sẽ không nghe thấy mình hay biết tôi đang gặp chuyện gì.
Tôi ngước mắt nhìn lên trời cao. Lần trước, bà Carne đã trông chừng và bảo vệ tôi trong lốt cú. Nhưng tối nay thì không. Có lẽ chính sức mạnh của bà Carne cũng đang say ngủ. Conor và mẹ ở tít St. Pirans. Tuy nhiên, tôi chẳng sợ. Tối nay, tôi không hề trông mong bất kỳ người bảo hộ nào. Chẳng có gì hay chẳng có ai sẽ ngăn được tôi đến chỗ bố.
“Sssssssapphhhhiiiiiiiire...” “SSSSsssapphhhhiiiiiiiire...”
Việc tôi nghĩ đến chuyện đi xuống nhà cũ để tìm bố của quá khứ mới kỳ lạ làm sao. Tôi chẳng cần phải tìm bố. Bố đã tìm thấy tôi.