T
hật không thể tin là bà Carne chẳng hề hỏi tôi tối hôm qua đã xảy ra chuyện gì. Chắc chắn bà có tỉnh giấc một lúc nào đấy như bao bà lão bình thường chứ nhỉ? Nhưng thay vì chất vấn tôi, bà tiếp tục làm những công việc thường lệ vào buổi sáng – xem xét và cho thêm củi vào bếp lò, cho Sadie ăn, làm bữa sáng.
“Cháu ngủ ngon chứ cháu gái?” Bà hỏi vỏn vẹn bấy nhiêu. Nét mặt bà thâm sâu bí hiểm, không tỏ ý mời gọi một cuộc đối thoại. Tôi gật đầu, nhai nhồm nhoàm một miệng bánh mì và mật ong để không phải nói gì cả. Nhưng một tia sáng nháng qua trong mắt bà Carne, khiến tôi hoài nghi bà đang trêu mình. Tôi vui mừng vì điều đó. Nó xoa dịu cảm giác chết lặng trong lòng tôi sau cuộc gặp với bố.
Tôi không biết đêm qua mình quay về nhà bằng cách nào. Nhảy ra cửa sổ đáp xuống cồn đất tương đối dễ, nhưng trèo trở vào thì khó. Tất tần tật mọi kế hoạch nảy ra trong đầu tôi: Tôi sẽ đợi đến sáng, sau đó giả vờ mình đã ra ngoài đi dạo sớm; tôi sẽ tìm thấy một cái thang trong nhà kho; tôi sẽ mở được một trong những cửa sổ dưới nhà. Nhưng khi tôi rón rén lại chỗ cửa chính và cố mở then cửa, nó tuột ra dễ như bỡn. Có lẽ bà Carne không bao giờ khóa cửa, hoặc có lẽ bà biết tôi đi ra ngoài và để cửa mở chờ tôi về. Tôi rón rén mò lên gác, mở cửa căn phòng dành cho khách và chuồn lên giường.
Cảm giác như cả trăm năm đã trôi qua kể từ lúc tôi nói chúc ngủ ngon với Sadie và bà Carne. Tim tôi vẫn đập thình thịch. Mình đã an toàn quay về giường, tôi tự nhủ. Bình tĩnh nào, Sapphire. Máu rần rật bên tai tôi, và tôi dám cá là bà Carne nghe thấy.
Tôi chưa an toàn. Chẳng có gì là an toàn hết. Bố đang ở Ingo, và bố không là bố xưa kia nữa. Bố sẽ không rời khỏi nước. Không, tình hình còn tệ hơn: Bố không thể, cho dù muốn, vì bố đã lựa chọn. Bây giờ bố thuộc về Ingo và không còn là của chúng tôi. Cách duy nhất để tôi sống cùng bố là tôi cũng chọn Ingo. Thật đáng sợ lẫn quá ư phức tạp khi nghĩ đến điều ấy.
Tôi đã ròng rã đợi chờ bố quay về. Từ tháng này qua tháng khác, khi tất cả mọi người từ bỏ hy vọng, chúng tôi vẫn giữ niềm tin. Conor nói, “Chỉ cần chúng ta luôn tin tưởng, một ngày nào đó, nhất định chúng ta sẽ tìm thấy bố.” Chúng tôi từng hứa với nhau, một khi chưa tìm được bố, chúng tôi sẽ không dừng lại. Giờ tôi biết ăn nói thế nào với Conor?
Tôi đã tìm thấy bố – hay bố đã tìm được tôi – chuyện đó chẳng giải quyết được vấn đề nào. Chúng tôi không ôm, hôn hay khóc lóc. Thậm chí tôi chẳng chạm vào bố. Bố có hỏi thăm Conor chứ nhỉ? Không hẳn. Không phải những câu hỏi mà một người bố sẽ hỏi han con trai mình sau một năm rưỡi không gặp. Nhưng tôi nhớ nếu ở Ingo thì tình huống sẽ thế nào. Thế giới con người sẽ mau chóng phai nhạt.
Tôi trằn trọc trên giường. Có lẽ tim tôi đã rền vang ầm ĩ vì nó trống rỗng. Thật xa ở Ingo. Hiện tại, có thể bố tôi chẳng bao giờ rời khỏi Ingo. Trừ phi – trừ phi có phép màu thần kỳ nào đấy có thể đưa bố trở lại hình dáng con người. Thổ thuật. Pháp thuật của bà Carne. Chắc chắn vẫn có hy vọng.
Thật xa ở Ingo... thật xa ở Ingo...
Nhưng giờ thì mày biết bố ở đâu rồi mà, nên mày có thể đến chỗ ông. Mày có thể lặn xuống nước và tiến đến Ingo. Mày có thể tới chỗ ông ở.
Tôi lăn lộn trên giường, như thể có đá lẫn vào tấm nệm. Tôi sẽ không thể nào chợp mắt được mất. Tôi phải nói Conor nghe thế nào về chuyện của bố? Đáng lẽ tôi nên đặt thêm câu hỏi. Đáng lẽ tôi nên bảo bố kể cho mình nghe những chuyện bố đã trải qua kể từ lúc bố bỏ rơi chúng tôi. Có thể Conor sẽ trách tôi quá ngu ngốc, nhưng với ánh trăng cùng vạn vật quá sức huyền bí cùng kinh hãi, tôi chẳng có thì giờ nghĩ đến những câu hỏi.
Không viện cớ. Mày đã có cơ hội, Sapphire, nhưng mày để tuột mất. Về phần mẹ, sẽ không có những câu hỏi khác. Cho dù mẹ tin tôi, nhưng không có khả năng mẹ chịu giúp bố. Mẹ sẽ căm ghét bố vì ông bỏ mặc chúng tôi. Biết đâu mẹ còn nói chúng tôi sống hạnh phúc hơn khi không có bố.
Mẹ thật đáng thương, tôi nghĩ. Mẹ đâu cố ý yêu chú Roger và dọn đến St. Pirans. Bố bỏ đi, và mẹ buộc phải lựa chọn tất thảy. Tôi đã trách móc mẹ vô cùng thậm tệ, thỉnh thoảng gần như căm giận mẹ khi mẹ mỉm cười với chú Roger và vui vẻ ngâm nga khắp nhà vào các buổi sáng.
Tôi sẽ không ngủ nổi. Tôi sẽ thức trắng đến sáng mai. Hay là trời sáng rồi nhỉ? Bầu trời dường như đang rạng dần, mà cũng có khi là do ánh trăng...
Tôi bừng tỉnh vì choáng váng khi nghe Sadie hào hứng sủa dưới nhà. Tôi không biết mình đang ở đâu, và rồi mọi thứ xâm nhập vào nhận thức của tôi. Những bức tường trắng toát. Nhà của bà Carne. Sadie đỡ hơn chưa? Nghe có vẻ nó khỏe nhiều rồi. Nó đang sủa như thể trước giờ chưa hề biết đến ốm đau.
Giờ thì tôi đang ở trong bếp nhà bà Carne ăn bánh mì phết mật ong, Sadie ngồi bên cạnh, trên sàn nhà lát đá, sung sức lắc lư, hai mắt dán chặt lấy tôi. Trông Sadie như đang ngâm mình trong bể ánh nắng mặt trời. Bộ lông lấp lánh; hai mắt sáng long lanh; đuôi là một chùm lông vàng óng. Nó không thể đợi đến ngày được bắt đầu mọi chuyến phiêu lưu; nó không thể tin rằng tôi lại chậm chạp, ngốc nghếch đến vậy, ngồi đó nhóp nhép bữa sáng trong khi tôi có thể ra bên ngoài, nhảy chân sáo xuống đồi và đuổi bắt lũ thỏ.
“Sáng nay nó tích đầy năng lượng rồi đấy,” bà Carne nói, ngước mắt lên từ quyển tập màu xanh lá cây. Trong lúc tôi cắm cúi ăn sáng, bà nắn nót dùng cây bút mực kiểu cũ cần chấm vào hũ mực để ghi chép. Tôi thử ghé mắt đọc lén từ dưới lên nhưng đành chịu. Con chữ màu đen và dứt khoát, có những chữ cái dài ngoằng trông như chữ f không có nét gạch ngang. Có lẽ là cuốn sổ thần chú của bà ấy, tôi nghĩ bụng. Mắt sa giông và ngón chân ếch, như trong Macbeth – vở kịch chúng tôi học dở ở trường. Hẳn trên mặt tôi biểu hiện gì đó, vì bà Carne nhìn tôi dò hỏi.
“Ừm, bà đang viết công thức nấu ăn ạ?” Tôi nhanh mồm lấp liếm. Gì cũng được, để đánh lạc hướng bà Carne với những điều tôi thật sự nghĩ trong đầu.
“Không,” bà Carne nói. “Ta đang viết câu chuyện của Sadie vào cuốn sách sinh mệnh này.”
“Nó có giống tiểu sử không ạ?”
“Một cuốn sách sinh mệnh không chỉ có bấy nhiêu. Tiểu sử bao gồm quá khứ mà thôi.”
“Ồ.”
“Sadie có quá khứ, nhưng nó vẫn còn nhỏ lắm. Tương lai của nó còn dài.”
“Con người cũng có cuốn sách sinh mệnh giống động vật đúng không ạ?”
“Dĩ nhiên. Cuộc đời mỗi chúng ta đều được ghi lại trong ấy.”
Ngay khi bà Carne nói thế, tôi bỗng khao khát nhìn bên trong cuốn sách, để được thấy tương lai giống bà Carne. Giá mà tôi có thể thấy cảnh bố quay về với chúng tôi – không phải trong hình hài Hải tộc, mà là hình hài con người.
“Có ai từng đọc qua cuốn sách sinh mệnh chưa bà Carne?”
“Chưa,” bà Carne nói. Bà đặt cây bút trên tay xuống. “Đừng bao giờ thử làm việc đó, cháu gái. Những con chữ này có thể làm mắt cháu bị mù.” Ánh mắt bà nhìn tôi vô cùng mãnh liệt.
Tôi hít sâu một hơi. Giọng the thé vì căng thẳng, nhưng tôi cực kỳ kiên quyết. “Cháu cần làm vậy, bà Carne. Cháu sẽ không hỏi thêm gì khác. Cháu thật sự rất cần.”
“Không được đâu cháu gái.”
“Làm ơn giúp cháu! Bà không biết chuyện này quan trọng thế nào đâu.”
Bà Carne nhìn tôi bằng ánh mắt nghiêm khắc. “Cháu không biết mình đang đòi hỏi gì.” Bà cân nhắc quyển sách trên tay; bỗng nhiên, dường như bà đổi ý. Bà cầm quyển tập màu xanh lá cây lên, giở nó và quay ra ngoài.
Nó chỉ là một quyển sách có chữ bên trong. Không phải sách thần chú hay bất cứ thứ gì lố bịch giống thế. Pháp thuật của bà Carne không phải như vậy.
“Cuốn sách sinh mệnh không chứa pháp thuật,” bà Carne từ tốn nói. “Nó là những gì cháu đặt vào đấy. Những gì chính cháu đặt vào, cháu gái ạ.”
Những dòng chữ quay về phía tôi. Dù vậy, tôi không đọc được gì. Chữ bé xíu, hoặc có lẽ là quá khó đọc.
Bà Carne bắt đầu lật từng trang, ban đầu còn chậm, sau nhanh dần. Số lượng trang nhiều hơn những gì một quyển tập nhỏ có thể chứa. Những trang giấy rung rinh như thể một cơn gió mạnh đang thổi chúng. Tôi đứng dậy, chồm tới trước, khẩn thiết muốn thấy được vài từ trong số những hàng chữ mờ mờ kia, những mong bắt lấy được một xíu xiu tương lai nào đó. Nhưng thay vì nằm ngay hàng thẳng lối, những con chữ lại tụ nhung nhúc như bầy ong bám trên trang giấy dính đầy kem.
Một khi được viết xuống, những con chữ có thể di chuyển giống thế này ư? Chúng tự xếp thành câu, túm tụm ngoằn ngoèo và kêu vo vo trên khắp trang giấy. Chúng đang giận dữ. Những con ong nổi cáu vì một kẻ lạ mặt đang quấy rầy tổ của chúng. Giờ đây, bất cứ lúc nào chúng cũng sẽ bay khỏi tờ giấy và nhắm thẳng vào tôi, điên cuồng đốt tôi cho đến khi tôi bị mù. Tôi giơ hai tay che mặt để ngăn cản chúng. Âm thanh rì rầm của những con chữ dần to lên một cách nguy hiểm và đáng lo ngại, lấp kín hai tai tôi. Tôi lùi ra sau. Một cái ghế khua lách cách. Tôi lảo đảo, vươn tay giữ thăng bằng, suýt nữa thì ngã. Bầy ong chữ cái đang tụ lại gần hơn, chuẩn bị tấn công.
“Bà Carne! Cháu không cố ý! Đừng để chúng...”
Thình lình, âm thanh náo loạn biến mất, như thể một cánh cửa đóng sầm trước chúng.
“Ổn cả rồi, cháu gái của ta. Cuốn sách đã đóng lại.”
Tôi chầm chậm bỏ tay xuống. Quyển tập màu xanh lá của bà Carne đã úp lại. Trông nó thật vô hại.
“Cháu phải sắp xếp mọi việc đúng chỗ,” bà Carne nói. “Giận dữ tiến về phía bầy ong, chúng sẽ đáp trả cháu tương tự. Cuốn sách này không dành cho đôi mắt cháu, Sapphire, mặc cho cháu đặt cuộc đời mình vào đấy. Cháu không được phép đọc nó. Nhớ nhé, dù có bị dụ dỗ đi chăng nữa.”
Tôi gật đầu, cảm giác toàn thân run lẩy bẩy, chẳng thể đáp nổi một câu.
“Cháu muốn đưa mọi thứ trở về trước thời điểm mùa hè năm ngoái, nhưng những trang giấy đã lật.” Giọng bà Carne lúc này rất nghiêm khắc. “Cháu không thể lật chúng về chỗ cũ trừ phi đánh đổi bằng việc chính cháu bị mù. Tiến lên phía trước đi, cháu gái. Những sự kiện xấu lẫn tốt cùng xảy đến sau này sẽ không thể thay đổi bằng cách quay về quá khứ. Tuy không thể nhìn thấy phạm vi lẫn bản chất của nó, nhưng ta có thể nhận định được sức mạnh. Hãy luôn mở to mắt. Ingo đang mạnh lên, và huyết thống Hải tộc của cháu đang nỗ lực cạnh tranh để đáp ứng.”
“Nhưng hãy nhớ điều này. Rằng cháu cũng là cư dân trên cạn, dù đôi khi cháu tức giận với điều đó, như một cô gái giận hờn mẹ mình khi càng ngày cô ấy càng trưởng thành và không gần gũi với bà nữa. Đấy là hành trang của cháu, cháu gái, món quà từ cả hai phía. Chúng có thể sử dụng theo hai cách: phân chia cháu làm hai, hoặc chữa lành những thứ cần chữa lành. Sẽ có những thời khắc khó khăn ập tới. Những quãng thời gian u ám.”
Chúng tôi đứng lặng một lúc lâu. Đôi mắt hổ phách của bà Carne mở to hệt như đôi mắt cú đang săn mồi trong đêm đen. Sadie trơ ra như tượng, và tôi chẳng thể nhúc nhích hay mở miệng nói. Rồi khi câu thần chú tan biến, chúng tôi chỉ là một bà lão đang uống trà, một cô bé đang ăn bánh mì phết mật ong và một chú chó muốn được đi dạo.
“Về nhà thôi,” bà Carne nói. “Tốt nhất cháu đừng nán lại đây lâu thêm nữa. Nhanh nhẹn lên – chín giờ mười xe buýt sẽ đậu ở góc đường, và nếu bỏ lỡ, cháu phải đợi hai tiếng mới có chuyến kế tiếp.”
* * *
Tuy nhiên, tôi đã đi một mạch qua khỏi trạm xe buýt nằm trên đường đến nhà thờ thị trấn. Mặt tôi cứ cúi gằm, hy vọng không ai nhận ra, nhưng đương nhiên là mọi người nhìn ra rồi. Đầu tiên là xe chở thư bưu điện dừng lại tán gẫu; tiếp đó là bà Alice Trewhidden đang trên đường tới trạm xe buýt; sau đó là cha xứ xuất hiện ở cổng nhà thờ đúng lúc tôi đi ngang.
“Cháu khỏe chứ, bé Sapphire? Cuộc sống ở St. Pirans thế nào?”
“Mẹ cháu khỏe không? Mẹ cháu thích cuộc sống dưới đó chứ?”
“A, Sapphire, thật vui được gặp cháu! Cháu khỏe không? Còn mẹ cháu?”
“Mẹ cháu khỏe.”
Cha xứ đang mỉm cười, nhưng đôi mắt ông rất sắc. Ông nhỏ giọng, và bỗng nhiên, đấy là một con người đang nói chuyện với tôi chứ không phải là một vị cha xứ. “Mọi chuyện khó khăn,” ông nói. “Đừng nghĩ ta không biết.”
Tôi không biết phải đáp lại thế nào. “Cháu ổn ạ,” tôi lầm bầm. Vấn đề ở đây là hễ thấy vị cha xứ, tâm trí tôi lại bay về lễ truy điệu của bố. Tôi không muốn nghĩ tới cảnh đó.
“Cho ta gửi lời thăm mẹ cháu,” ông nói thêm, và tôi cũng chẳng biết phải nói sao với ông. Mẹ tôi luôn thích trò chuyện với cha xứ. Bố không bao giờ đi nhà thờ, nhưng thi thoảng mẹ tới đây, chỉ đi một mình.
Đến lúc rời khỏi đây, mong là tôi bắt kịp xe buýt. Nhưng tôi chưa thể quay về St. Pirans mà không ghé qua nhà cũ. Nếu bị những người sống ở đó bắt gặp cũng chẳng sao. Họ sẽ không biết tôi là ai. Lúc trước, khi họ đến xem nhà để quyết định thuê, tôi đã ra ngoài đi dạo rất lâu. Tôi không muốn chạm mặt họ.
Tôi đi tới nơi cao nhất trên con đường dẫn xuống nhà chúng tôi. Tuy có chút khác biệt, nhưng mọi thứ vẫn vô cùng quen thuộc. Kể cả búi dây buộc trên cổng đã thay màu khác: bây giờ là màu xanh lá cây thay vì màu cam. Một chiếc xe jeep đậu bên ngoài căn nhà. Nó cũ kỹ và gỉ sét, nhưng thoạt nhìn vẫn hoạt động tốt. Bố luôn muốn có một chiếc xe jeep.
Cửa ra vào đang mở. Tiếng nhạc từ đài phát thanh vọng ra ngoài vườn. Điều khiến tôi ngạc nhiên là khoảnh đất trồng rau đã được xới tơi xốp. Những bụi lý gai cùng hoa hồng được tỉa tót. Các khung cửa sổ đã sơn lại.
Những bức màn cửa mẹ may không còn bay phấp phới ở cửa sổ phòng bếp. Thay vào đó, người ta đã lắp hệ thống rèm thông minh mới coóng, màu hoa xạ cúc lam. Tôi thử không ưa chúng, nhưng rồi tôi lại rất thích mấy cái rèm mới.
Sadie háo hức khịt mũi đánh hơi mọi chỗ ngoài cửa ngõ. Tôi bước chậm, cố không dây dưa quá rõ ràng, làm ra vẻ mình chỉ tình cờ dắt chó đi dạo ngang qua. “Đi thôi, Sadie,” tôi nói to, phòng hờ có ai đó trong nhà đang lắng nghe. Nhưng Sadie vô cùng thông minh, nó biết tôi không có ý bảo nó đi đâu hết.
Tôi say sưa ngắm nhìn từng chi tiết. Căn nhà vừa vẫn như trước, vừa hoàn toàn khác biệt, vì chúng tôi không sống ở đó nữa. Ắt hẳn cũng giống lúc bạn đã chết và quay trở lại ám nơi bạn từng yêu thích.
“Cô giúp gì được cho cháu?” Một giọng nói vang lên. Tôi giật bắn người, thấy mặt mình bắt đầu đỏ rần.
“Không, không ạ, cháu không có việc gì, chỉ là con chó của cháu...”
Một người phụ nữ bất ngờ xuất hiện ở ngưỡng cửa. Tuy phải chống nạng nhưng cô ấy xoay xở rất thuần thục, như thể đã dùng chúng lâu rồi. Cô trẻ hơn mẹ tôi, mặc áo len chui đầu và váy dài màu đỏ. “Cháu tìm gì sao?” Cô hỏi. Đôi mắt cô có vẻ thấu hiểu. Có phải cô ấy đoán được tôi là ai không?
“Không, không, cháu đang dắt chó đi dạo... có lẽ là xuống vũng...”
Mày ngốc quá, Sapphire. Tại sao lại đề cập tới vũng? Nói không chừng họ chưa khám phá ra nơi ấy.
“Vũng,” người phụ nữ lặp lại. “Cháu biết nơi ấy à?” “Vâng.”
“Cô rất thích nơi đấy. Cô đi gần hết mọi chỗ rồi, nhưng hiện tại cô không thể leo xuống đó. Cách duy nhất để cô tới nơi ấy là người ta phải thả cô vào thúng rồi quăng qua vách đá. Trong lúc này, cô phải dùng nạng.”
Cô ấy mỉm cười, một nụ cười ấm áp tới nỗi tôi không nhịn được và cười lại, mặc dù tôi không hề muốn có cảm tình với người đang sống trong nhà mình.
“Cô sống một mình sao?” Tôi hỏi.
“Không. Chồng cô làm việc tại văn phòng Met ở Exeter. Chú ấy ở đó cả tuần.”
“Hẳn là cô thấy cô đơn lắm,” tôi nói với mục đích thăm dò. Nhưng cô ấy lắc đầu.
“Là cháu nghĩ thế, chứ cô không thấy vậy,” cô ấy nói. “Hàng xóm quanh đây rất tốt. Từ đây trở xuống thì cô không dám chắc.”
“Văn phòng Met là gì ạ?”
“Khí tượng học. Dự báo thời tiết. Nhưng chú Rob không dự báo mỗi ngày. Chú ấy phụ trách mảng khí hậu biến đổi trong thời gian dài và vai trò của những sự cố thời tiết khắc nghiệt.”
“Vậy là chú ấy nhìn trước tương lai,” tôi buột miệng thốt những suy nghĩ trong đầu.
“Ừ, nói theo cách hiểu nào đấy thì là như vậy. Cháu hứng thú với biến đổi khí hậu à?”
Tôi nghĩ đến những con hải mã và bầy cá thái dương hiện đang bơi đến vùng biển Cornwall, nơi chúng chưa bao giờ ghé tới. Những thay đổi mà Faro từng kể và những nguy hiểm kéo theo sau đó.
“Vâng ạ.”
“Cháu nên gặp chú Rob. Cháu sống gần đây sao?”
“Vâng... ý cháu là không, ừm, không quá gần ạ.” Mặc cho tôi muốn nói thật trôi chảy, nhưng những từ ngữ lại tuôn ra một cách lúng túng. Bỗng cô ấy chăm chú nhìn tôi. Nét mặt cô thay đổi. Một biểu cảm đáng lẽ không nên xuất hiện trên gương mặt cô ấy: Vỡ lẽ.
“Cô biết cháu. Cháu là cô bé tóc tảo biển.” “Cô nói gì ạ?”
“Cô gọi cháu như thế. Chú Rob gọi cháu là nàng tiên cá nhỏ.”
“Sao cơ?”
“Cô xin lỗi. Cô không cố ý làm cháu bực mình. Cô khiến mọi thứ lộn xộn hết cả lên, nhỉ? Cháu không muốn cô biết cháu là ai. Có một bức ảnh gắn trên tủ, người trên ảnh là cháu.”
“Ồ. Ồ.”
“Cháu biết bức ảnh đó đấy.”
Tôi biết chứ. Nó là bức ảnh màu bố chụp tầm ba năm trước, trên ấy tôi mặc cái áo đầm màu xanh lơ – tôi từng diện bộ đó tới một bữa tiệc mừng năm mới. Tóc tôi dài thượt, buông xõa. Tôi không cười. Bố luôn rất thích bức ảnh đó. Bố nói trông tôi như thể đến từ một thế giới khác. Bố dán ảnh lên một miếng ngói và ốp vào cái tủ đặt trong bếp. Chúng tôi không thể vận chuyển cái tủ đến St. Pirans vì nó được xây âm tường.
Tôi cúi gằm mặt, thấy mình quá ngu ngốc. Chủ nhà mới sẽ nghĩ rằng tôi đến đây để thám thính cô ấy. Nhưng giọng cô ấy không có vẻ tức giận. “Bức ảnh rất đẹp; cháu nên tự hào về nó,” cô ấy nói. “Chú Rob bảo trông cháu như đến từ một thế giới khác.”
“Ồ! Bố cháu cũng từng nhận xét y hệt như vậy.”
“Bố cháu là người chụp bức ảnh à?” “Vâng.”
“Cô rất tiếc. Người môi giới nhà đất từng kể cho cô nghe về... vụ tai nạn.”
Cô ấy đã cố gắng dùng từ ngữ nhẹ nhàng hết mức có thể, nhưng tôi vẫn siết chặt hai tay. Những móng tay cắm vào lòng bàn tay.
“Chúng ta nên tự giới thiệu mới phải. Cô là Gloria Fortune.” “Cháu là Sapphire Trewhella.”
“Dĩ nhiên rồi. Đáng lẽ cô nên nhớ ra. Bà Mary Thomas từng nhắc tên cháu.”
Tôi không dám chắc mình thích điều này không. Bà Mary là hàng xóm của chúng tôi.
“Rời khỏi nơi này hẳn là khó khăn lắm. Mỗi ngày, khi thức dậy và nhìn ra ngoài cửa sổ, cô đều tự nhéo mình một cái, nơi này quá sức thơ mộng.”
“Nó là gia đình của cháu.” Tôi không tức giận nữa. Thậm chí tôi không muốn cô Gloria Fortune rời khỏi nhà chúng tôi. Việc quay lại đây chỉ làm tôi thêm chắc chắn rằng dù tôi có sống ở St. Pirans bao lâu thì nơi đó vẫn không phải là mái ấm của tôi.
“Thế thì cháu cứ quay lại đây,” cô Gloria nói, mắt nhìn thẳng vào mặt tôi.
“Cô có nhìn thấy tương lai không?”
“Không.” Cô ấy mỉm cười. “Nhưng cô biết một người chuyên tâm là như thế nào vì cô cũng là tuýp người như thế.”
“Cháu phải đi đây.”
“Bây giờ cháu có định xuống vũng không?”
Tôi liếc xuống nhìn Sadie và nhẹ nhàng xoa đầu nó. Không, Sadie không đáng bị đối xử như vậy. Ngay khi chân tôi chạm vào bãi cát trắng thô ráp đó, tôi sẽ nhìn ra bãi đá ngoài cửa vũng, và tôi chắc chắn mình sẽ nhìn thấy một bóng người ở đấy, sau đó tôi sẽ không tự kìm chế được. Sức mạnh của vũng sẽ áp đảo tinh thần Sadie. Đó là nơi đầu tiên Conor và tôi tiến vào Ingo. Vũng là một lối vào, tôi dám chắc như thế, và đó là một lý do nữa buộc chúng tôi phải quay về nhà. Bố đã từ bỏ thế giới con người thông qua lối vào ấy, thế nên có lẽ vũng là con đường để bố quay về nhà mình.
Tôi sẽ không chấp nhận chuyện bố đã biến đổi vĩnh viễn. Giống như tôi, dòng máu con người vẫn chảy trong huyết quản của bố. Nếu một con người có thể biến đổi thành một cư dân của đại dương, thế thì phải có cách nào đó để họ biến về như cũ. Nhất định là có cách. Một ai đó, ở nơi nào đó, sẽ biết phương pháp.
Thầy giáo của Faro! Hẳn là thầy ấy vô cùng thông thái. Có lẽ thầy ấy sẽ giúp được tôi. Tôi sẽ không kể cho thầy ấy nghe lý do tại sao mình muốn biết. Thầy ấy là Hải tộc, vì vậy thầy ấy sẽ muốn bố ở lại Ingo. Nhưng đương nhiên là mọi thay đổi không thể nào chỉ diễn ra một chiều, đúng không?
“Cháu ổn chứ?”
“Ồ... vâng, vâng, cháu không sao, cháu chỉ...”
“Tâm trí cháu không ở đây,” cô Gloria Fortune nói. “Cháu nghĩ gì mê mải thế?”
“Cô sẽ không thích nghe đâu,” tôi đáp. “Chuyện là một mớ bòng bong.”
“Được, được rồi, cô không cố ý tọc mạch. Cháu định xuống dưới vũng.”
“Có lẽ không phải trong hôm nay ạ.”
“Thế thì cháu quay lại vào khi khác nhé,” cô Gloria nói. “Cháu có thể giúp cô xoay xở vụ cái thúng và ròng rọc.”
“Ừm, cô biết không, cháu nghĩ làm thế có thể hơi nguy hiểm.”
“Cô không nghiêm túc lắm đâu. Cô bị gãy phần trên cùng xương đùi, và nó lâu lành nên cô cần có khớp háng thay thế. Nhưng cô đã tháo nó ra vì cô không thích bệnh viện.”
“Cháu chưa từng tới bệnh viện.” “Lúc cháu sinh ra cũng không sao?”
“Vâng ạ. Cháu được sinh ra ở đây, trong phòng ngủ của bố mẹ cháu. Là căn phòng không quay ra hướng biển ấy ạ.”
Một khoảng lặng. May là Sadie đã phá vỡ bầu không khí ngượng nghịu này bằng cách chui vào một cái lỗ trên bức tường trong vườn, giả vờ như nó vừa đánh hơi được một con thỏ. Đấy là cái lỗ mà tôi từng thấy lũ rắn hổ lục nằm phơi nắng hồi tháng Tám, vì vậy tôi nhanh chóng kéo con chó ra, dù có thể mấy con rắn bây giờ đang ngủ đông mất rồi.
“Hãy ghé chơi nữa nhé,” cô Gloria nhắc lại. “Nhưng có lẽ cháu sẽ không thích vào trong nhà, khi cô chú sống ở đây.”
“Cháu không biết.”
Cô Gloria trầm tư gật đầu. Trên mặt cô ấy có biểu cảm nào đó – tôi không rõ là gì. Một vẻ mặt vừa xa lạ, vừa thân thuộc. Tuy khó hiểu nhưng nó xuất hiện ở đó, trông như một gợn sóng lăn tăn phủ lên những đường nét trên khuôn mặt cô ấy. Nước! Phải, đúng là nó. Nước mặn. Ingo. Ingo đã chạm vào mặt cô ấy và để lại vết tích ở đó.
Một phán đoán nghe điên rồ và vớ vẩn, nhưng thật vậy. Tôi nhận thức nó – sâu thẳm trong tôi – vì nó chính là nét mặt mà thỉnh thoảng tôi thấy trên chính mặt tôi khi soi gương. Trên mặt Conor, Faro, Elvira... và cả mặt bố tôi nữa.
Tôi há miệng toan nói gì đó nhưng rồi lựa chọn im lặng. Quá liều lĩnh. Nếu cô ấy chưa biết gì, nói cho cô ấy nghe liệu có an toàn không? Trực giác mách bảo tôi rằng, nếu cô Gloria xuống dưới vũng, rất có khả năng cô ấy sẽ nhìn thấy một bóng người ngồi trên bãi đá. Một hình thù, từ đằng xa, trông như một người lướt sóng mặc đồ bơi ướt sũng, nhưng lúc bạn đến gần sẽ rất giống một cậu nhóc, sau đó là giống hải cẩu, rồi lại là cậu nhóc. Nhưng chân cô Gloria chưa lành, vì vậy cô ấy không thể trèo xuống con đường gần vách đá. Có lẽ là thế.
“Cô sinh ra gần biển ạ?” Tôi đột ngột lên tiếng.
Cô ấy nhìn tôi chằm chằm. “Tại sao cháu hỏi như vậy?” “Cháu chỉ cảm thấy như thế.”
“Kỳ lạ thật. Cháu nói đúng. Cô lớn lên ở London, nhưng cô sinh ra ở Skye, mãi trên Scotland. Nhà cô nằm ở ven biển.”
“Cô không nói giọng Scotland.”
“Ừ, cô là dân London, thật đấy, giống bố cô. Ông di cư từ Jamaica đến đấy lúc hai tháng tuổi. Nhưng mẹ cô là dân Scotland. Bà là người Skye, gia đình cô sống ở đó tới năm cô lên sáu. Nhà cô cực chẳng đã phải chuyển đến London vì công việc của bố cô. Có lẽ đó là lý do tại sao cô rất yêu nơi này. Nó làm cô hoài niệm về thời thơ ấu. Skye đẹp lắm. Cô nhớ lũ hải cẩu. Cô từng nghĩ mình có thể trò chuyện với chúng và chúng sẽ đáp lại. Quê của cô cực kỳ hẻo lánh, tới nỗi cô nói chuyện với hải cẩu còn nhiều hơn với những đứa trẻ khác.”
Nét mặt cô ấy lúc hồi tưởng những chuyện cũ thật dịu dàng. Biểu cảm vừa xa lạ vừa quen thuộc kia rõ ràng hơn. Tôi đã đúng. Cô ấy có dấu ấn của Ingo. Có lẽ cô ấy vẫn chưa biết điều đó có ý nghĩa gì.
Tôi hào hứng đến phát ngốc. Tôi rất, rất muốn kể cho Conor nghe. Không riêng gì chúng tôi mà còn có những người khác. Chúng tôi không lập dị. Chúng tôi là một phần của điều gì đó lớn lao hơn chúng tôi tưởng. Có lẽ có những lối vào khác, những người khác xuyên qua mặt nước và tới Ingo, trên toàn thế giới...
Tôi cúi xuống cạnh Sadie, vờ điều chỉnh vòng cổ của nó rồi huýt sáo rất khẽ, vài nhịp trong bài “O Peggy Gordon.”
Ước gì tôi rong ruổi ở Ingo
Xa thật xa bên kia biển lớn...
Căng buồm lướt qua vùng nước sâu thẳm…
Tôi thận trọng ngước lên. Vẻ mặt cô Gloria xa xăm, và cô ấy đang chăm chú lắng nghe. “Cháu huýt sáo bài nào thế?”
“Một bài hát tên là ’O Peggy Gordon’ ạ.”
“Một ca khúc Scotland hả?”
“Cháu không biết. Có lẽ vậy. Bố cháu thuộc rất nhiều bài hát Scotland.”
“Chắc chắn cô biết bài này. Mẹ cô từng hát cho cô nghe nhiều bài. Cháu thuộc lời không?”
Tôi lắc đầu. Quá liều lĩnh. Đó là ca khúc bắt đầu mọi chuyện, cái đêm hạ chí trước khi bố biến mất. Khi ấy bố đang hát bài “O Peggy Gordon“, và rồi bố mải mê lắng nghe, nhưng tôi không biết bố đang chú tâm nghe cái gì.
Tôi không được cho cô Gloria biết phần lời hoặc nhắc đến cái tên Ingo. Không phải ở đây. Không phải bây giờ. Lỡ Ingo bắt đầu kêu gọi cô ấy khi cô ấy ở một mình thì sao? Nó có thể dụ cô ấy ra vách đá. Cô ấy không thể leo xuống dưới đó bằng nạng, nhưng tôi biết lực hấp dẫn của Ingo mạnh đến mức nào. Có lẽ cô Gloria sẽ thử sức. Cô ấy có thể bị té. Cô ấy sẽ được bình yên nếu không biết quá nhiều. Chẳng biết gì cả.
“Cháu phải đi,” tôi nói to, “nhưng cháu muốn... cháu rất muốn quay lại và đưa anh Conor của cháu đến gặp cô.”
Cô ấy gật đầu. “Hay đấy.” Cô ấy cũng nhận ra vẻ mặt của tôi mà, đúng không? Có phải cô ấy cũng thấy chúng tôi không hẳn là những người xa lạ, mà càng giống anh em họ xa từ một gia đình đã chia cách nhiều đời?
Kiềm chế đi, Sapphire. Nếu mày mở miệng nói bất cứ điều gì giống thế, người phụ nữ này sẽ nghĩ mày bị điên. Lần tới mày ghé chơi, cô ấy sẽ khóa chặt cửa.
Tôi muốn ghé qua lần nữa. Không phải bây giờ, mà có lẽ phải mất một ít thời gian. Nhưng sâu trong lòng, tôi chắc chắn mình sẽ tái ngộ cô Gloria Fortune. Một lúc nào đó trong tương lai, thời điểm mà chỉ bà Carne mới biết, cuộc sống của chúng tôi sẽ kết nối với nhau...
“Vậy tạm biệt cháu nhé,” cô Gloria nói, nhoẻn miệng cười. “Cô sẽ kể chú Rob nghe là cô đã gặp nàng tiên cá nhỏ. Nhất định chú ấy sẽ tiếc hùi hụi khi bỏ lỡ cơ hội gặp cháu. Trông cháu y như từ trong ảnh bước ra.”