Ngày thứ hai ở cùng lính trinh sát, sau bữa cơm trưa, tôi cuộn mình trong góc hầm ngủ ngon lành. Sự yên tĩnh của khu mật cứ khiến giấc ngủ thật thoải mái. Đang mơ màng với giấc mơ về Hà Nội thì nghe Trường gọi giật giọng. Vừa gọi, Trường vừa lay người tôi:
- Hùng! Dậy mau! Có lệnh chiến đấu.
Tôi vội bật dậy, hỏi lại Trường:
- Tụi biệt kích đột nhập vào mật cứ hả?
- Không phải biệt kích. Đại đội trưởng vừa nhận được điện từ sư đoàn báo xuống, có một thiết đoàn của quân Sài Gòn đang hành quân trên đường mười bốn. Đoàn xe chở nhu yếu phẩm, đạn dược và nhiên liệu tiếp tế cho những căn cứ của địch ở khu vực Hải Lăng và Đắk Rông. Địa điểm đóng quân của đơn vị mình gần với cuộc hành quân của địch nhất nên sư đoàn lệnh cho Đại đội trinh sát phải chặn đánh bằng được đoàn xe. Cậu chuẩn bị mau, thời gian gấp lắm rồi. Chết tiệt, đại đội đang phân tán tùm lum giờ chỉ còn chín tay súng ở đây, kể cả cậu…
Trường chưa nói hết câu, tôi chụp vội chiếc mũ lên đầu, đeo khẩu AK trước ngực, xách thêm khẩu B-40 và ba quả lựu đạn. Nhìn đồng hồ, mới một giờ chiều, hai chúng tôi lao ra khỏi hầm tới điểm xuất phát… Tôi và Trường tới, mọi người đã có mặt đông đủ, Đại đội trưởng ra lệnh hành quân cấp tốc.
Quan sát trong số chín tay súng, có bốn khẩu B-40 còn lại là AK và lựu đạn. Cắt rừng mất chừng hai mươi phút, chúng tôi đón đầu được đoàn xe với tổng cộng ba chục chiếc.
Luồn lách trong rừng, áp sát đoàn xe với khoảng cách chừng hai mươi mét, lệnh của đại đội trưởng yêu cầu bốn khẩu B-40 diệt những chiếc xe đi đầu và những chiếc đi cuối để khóa đuôi. Ngay lập tức, bốn quả đạn B-40 đầu tiên lao đi, hai chiếc xe đi đầu, hai chiếc chạy cuối biến thành bốn quả cầu lửa khổng lồ, cả đoàn xe nhốn nháo rối loạn, lao vào nhau, chiếc lao xuống khe, chiếc lao vào rừng. Chừng ba chục tên địch đi trên một chiếc xe nhảy ào xuống, nằm ép người trên mặt đường bắn xối xả về phía chúng tôi. Những quả B-40 lại lao đi, mấy khẩu AK điểm xạ đều đặn, lựu đạn ném tới tấp. Tôi nhắm thẳng quả đạn B-40 vào cabin của những chiếc xe siết cò. Mấy chiếc xe nối tiếp bốc cháy. Hai chiếc xe chở nhiên liệu trúng đạn, đám cháy bùng lên, bốc cao mấy chục mét, lan khắp mặt đường, tràn cả vào rừng, xuống khe. Đoàn xe của địch vẫn tiếp tục bị bắn cháy, chiếc thứ mười một, mười hai rồi mười bốn. Đám lính bảo vệ đoàn xe liều lĩnh lao về phía chúng tôi bắn như đổ đạn. Ba chiến sĩ hy sinh. Một chiến sĩ tôi chưa biết tên bị trúng đạn, cánh tay gãy lủng lẳng. Những quả đạn B-40 cuối cùng lao đi, gần hai chục chiếc xe bốc cháy trên đoạn đường dài cả trăm mét, khói đen trùm kín một vùng khiến mắt mũi tôi cay xè. Hết đạn B-40, tôi ôm khẩu AK căng mắt quan sát. Thấp thoáng trong màn khói đen đặc, hơn chục thằng địch liều lĩnh lao lên, tiếng đạn M-16 rít chíu chíu. Bỗng thấy nhói ở mạng sườn, đặt tay vào máu đã ướt đẫm. Một tay bịt vết thương, tay kia vẫn siết cò khẩu AK, chợt nghe tiếng đại đội trưởng hét to:
- Hùng, còn đạn không? Rút mau.
- Thủ trưởng rút trước đi, em còn đạn, em cản chúng rồi rút sau.
Tôi bình tĩnh nấp sau những gốc cây điểm xạ đến viên đạn cuối cùng, tung tiếp hai trái lựu đạn về phía mấy thằng địch đang ào ào xông lên khiến chúng phải nằm ép xuống nền rừng. Quay lại, không thấy đồng đội cũng chẳng thấy đại đội trưởng kể cả đoàn xe của địch bởi màn khói đen đặc bao phủ khắp một vùng rộng lớn. Tôi khom người, cắm đầu chạy vào rừng khi tiếng đạn M16 vẫn rít trên đầu. Chạy miết, chạy miết, không biết mình đã chạy được bao lâu, khi không còn nghe tiếng súng, không còn thấy những đám cháy mới dừng lại, cởi áo quấn chặt quanh vết thương. Cũng may vết thương chỉ làm bay một miếng thịt chưa vào tới ổ bụng, mỡ và máu quyện vào nhau bầy nhầy thâm đen. Băng xong vết thương, lúc ấy mới thấy mệt rã rời, toàn thân run lên ớn lạnh. Nhìn những vệt nắng xuyên qua kẽ lá đổ dài tôi đoán tầm bốn, năm giờ chiều. Nằm xuống nền rừng định bụng nghỉ mệt một chút ai dè thiếp đi không biết gì. Tỉnh dậy, tôi hoảng hồn bởi mặt trời đã lên chừng hai con sào. Vậy là tôi ngủ suốt một đêm thả sức cho lũ muỗi rừng thi nhau chích, mẩn cục khắp người mà không hay biết gì. Lúc ấy bắt đầu thấy khát nước vô cùng, người mệt đẵm, không muốn đứng dậy trong khi vết thương vẫn rỉ máu. Một đám máu đen đặc ngay chỗ nằm. Tôi cảm thấy sức lực như đã cạn kiệt.
Phải tìm đường ra khỏi rừng ngay nếu không tôi có thể chết vì đói, khát và vết thương nhiễm trùng. Lần đầu tiên trong đời tôi đứng giữa cánh rừng mênh mông, nhìn chỗ nào cũng như chỗ nào, không thể phân biệt được hướng ra. Trong đầu chợt nghĩ tới cái chết, nghĩ tới gia đình, đồng đội. Ba đứa hy sinh và còn ai nữa không? Đại đội trưởng có thoát không khi đã hết đạn mà bọn địch thì bắn như mưa về phía anh ấy. Đã tổ chức đi lấy thi hài mấy cậu hy sinh chưa, có ai tổ chức tìm mình… Những câu hỏi không thể trả lời cứ xoay trong đầu. Nếu không ra được khỏi rừng, vết thương và cái đói cái khát sẽ giết chết mình. Nghĩ vậy, tôi cố gắng đứng dậy đi tiếp, đi một đoạn lại nghỉ mệt và quan sát phương hướng. Bỗng nghe tiếng ắc ắc! Đứng im, căng mắt quan sát… Tôi hoảng hồn khi phát hiện một con hổ mẹ to lớn, theo sau là hai hổ con. Tiếng ắc ắc phát ra là tiếng của hổ con giỡn nhau. Tim đập mạnh, đưa vội khẩu súng lên mở khóa an toàn. Hổ mẹ đã thấy tôi, nó gầm lên rồi phóng tới. Đoàng đoàng. Hai phát đạn của tôi găm xuống nền rừng cày tung đất làm con hổ khựng lại nhưng vẫn nhe nanh gầm gừ. Tôi bỗng nhớ đã đọc ở đâu đó, nếu đi rừng không may gặp hổ, hãy đứng im và tránh nhìn thẳng vào mắt nó. Tôi cố giữ im lặng trong tư thế sẵn sàng nổ súng nếu hổ mẹ lại tiến công nhưng tránh nhìn vào mắt nó. Con hổ gầm gừ chừng vài phút nữa rồi dắt con rẽ qua bên phải, mất hút trong rừng. Thật hú hồn! Tôi run người ngồi xuống thở hắt ra. Chết bởi đạn giặc không buồn, chết vì hổ ăn thịt thì thật tệ! Mẹ con nhà hổ đi rồi, tôi khóa chốt an toàn tiếp tục lê bước trong khi cơn đau ở vết thương cứ nhói lên từng chập ê ẩm cùng với cái đói, cơn khát đang hành hạ chẳng kém. Tôi vừa đi vừa nghỉ vừa tập trung quan sát, tìm kiếm coi cái gì có thể ăn nhưng chẳng thể kiếm ra thứ gì. Lê bước suốt một ngày, tới khi mặt trời tắt nắng. Đúng là sáng biển tối rừng, mặt trời vừa tắt, bóng tối đã bao trùm. Tìm một gốc cây có những cái bạnh rất lớn, bẻ một mớ cành cây nhỏ, tôi nằm xuống cạnh cái bạnh, phủ lá cây lên, ngủ thiếp đi.
Tôi tỉnh lại chừng hai, ba giờ sáng gì đó, cơn khát tiếp tục hành hạ dữ dội khiến cổ họng đau rát, môi khô nứt nẻ. Nằm chờ trời sáng, trong đầu lại miên man đủ thứ. Nếu chết trong rừng chắc chắn sẽ mất xác, sau này giải phóng, gia đình cũng không có nổi nấm mồ để đốt cho mình nén nhang thì thật đau xót. Không tìm được đường ra khỏi rừng sớm, cái chết sẽ không thể tránh khỏi, vậy là lại quyết tâm đứng dậy đi tiếp. Tới gần trưa ngày thứ ba, tôi cũng ra được khỏi khu rừng, trước mặt là lô nhô những quả đồi. Ra được khỏi rừng là hy vọng đã lóe lên, biết đâu sẽ gặp được một người dân, một khe nước nên lại quyết tâm đi…
Xuống tới lưng chừng quả đồi đầu tiên, mệt quá tôi ngồi bệt dùng hai tay đẩy người trượt đi. Trượt gần tới chân quả đồi, mắt tôi sáng lên bởi một vạt dưa xanh mởn. Sống rồi! Tôi thầm reo trong bụng. Có cái để ăn, có cây trồng cũng đồng nghĩa, người dân chỉ ở quanh đâu đây thôi. Như được tiếp thêm sức lực, tôi đứng dậy đi nhanh tới đám dưa. Những trái dưa hấu còn non, to cỡ nắm tay, dứt một trái đưa lên miệng cắn một miếng to, ăn ngấu nghiến. Chưa ăn hết trái dưa bỗng nghe: Đoàng! Giật bắn người, cầm vội khẩu súng, không kịp quay lại thì nghe tiếng quát rất đanh giọng con gái: “Bỏ súng xuống, đứng lên, giơ hai tay khỏi đầu!”.
Miếng dưa trên tay rớt xuống, tôi từ từ đứng lên quay nhìn về hướng tiếng quát. Một cô gái trong trang phục người Vân Kiều, trên tay là khẩu K-44 hướng về phía tôi. Nhè miếng dưa còn đầy trong miệng, tôi vội nói: “Đừng bắn, đừng bắn! Tôi là bộ đội bị lạc rừng”. “Nói láo, bộ đội không ăn cắp của dân”.
Nghe khẩu khí biết đó là du kích. Gặp được người lại là du kích tức là mình đã sống, cảm tưởng như vừa được uống một liều thuốc tăng lực khiến người khỏe hẳn, tôi vừa nói vừa cười với cô gái: “Tôi là bộ đội thật mà, do khát quá không thấy người nên đánh liều hái một trái”. “Biết đúng biết sai lát sẽ rõ. Bỏ súng đó, đi về phía trước, không được quay đầu lại”.
Tôi răm rắp đi theo lệnh của cô gái, băng qua mấy quả đồi, cứ lên rồi lại xuống khiến người run vì kiệt sức, cảm giác không còn đi nổi nhưng cắn răng cố bước. Vượt qua quả đồi thứ hai, thứ ba thì thấy một dãy lán thấp lè tè mái lợp tranh. Cô gái quát: “Đứng lại”. Tôi ngoan ngoãn làm theo. Cô gái nói mấy câu bằng tiếng Vân Kiều… Từ trong căn lán, một người đàn ông chừng ba mươi tuổi bước ra. Sau khi nhìn như xoáy vào tôi một hồi anh ta hỏi bằng tiếng Kinh chưa sõi:
- Ở đơn vị nào, sao lạc rừng?
- Tôi ở Đại đội trinh sát của Sư 325. Chúng tôi đánh đoàn xe trên đường mười bốn cách đây ba hôm. Đại đội trưởng là Năm Thắng.
- Có đúng lính của Năm Thắng không? Nếu nói láo tao bắn chết biết chưa? Mấy năm trước, tao nhờ Năm Thắng qua huấn luyện cho du kích nên thân…
- Tôi nói dối anh cứ việc bắn bỏ, nhưng trước khi bắn anh cho tôi uống nước với. Đã ba ngày nhịn khát, tôi sắp chết rồi! - Người đàn ông nói mấy câu tiếng Vân Kiều, từ trong căn lán, một cậu thanh niên mang ra một ống lồ ô, bên trong có nước đưa cho tôi. Tôi đưa ống nước, ngửa cổ uống một hơi dài…
Qua một hồi trò chuyện, người đàn ông đã tin tôi là bộ đội, anh giới thiệu, tên là Hồ Thương, Đại đội trưởng Đại đội du kích.
Trong lúc nói chuyện, thấy tôi luôn nhăn mặt tỏ ra đau đớn, Hồ Thương hỏi:
- Bị thương hả?
Tôi gật đầu. Hồ Thương lại nói một tràng tiếng Vân Kiều. Một cô gái chạy ra đưa tôi vào lán. Gỡ bỏ cái áo, cô lấy dụng cụ y tế, rửa vết thương cho tôi rồi băng lại cẩn thận. Băng xong, cô đưa tôi mấy loại thuốc bắt uống liền…
Ngay hôm đó, sau bữa cơm tối, tôi thấy người tỉnh táo trở lại. Vết thương được vệ sinh và thuốc kháng sinh giúp cơn đau dịu xuống, tôi xin Hồ Thương trở về đơn vị. Hồ Thương đồng ý và cho hai du kích đưa tôi trở lại cứ.
Mất ba ngày lạc trong rừng chịu cơn khát, cái đói và cơn đau từ vết thương hành hạ, tôi gặp lại thủ trưởng và đồng đội trong niềm vui vỡ òa.