Giọt nước mắt ngọt ngào?
Từ ngày thăm làng hai mươi năm trước,
Tôi hỏi, ai lập nên làng đã hạnh phúc đến khóc,
Sự nghiệp dân ta là con rắn,
Mới nghe đã rợn cả tóc.
Mật đắng? Làm thuốc,
Chữa cho lòng dân.
Đầu mùa xuân nắng vàng,
Cây cối lá bay lá mọc,
Người trôi cùng thời gian, người chìm,
Người gặp nước xoáy, đọng lại,
Như tôi, đứng trước đình làng,
Thay đổi chưa cho mình sốc.
Áo dài bay qua,
Thăm thú thắp hương, không phải tìm ăn,
Con rắn, danh tiếng, chỉ có cờ ngũ sắc
Phấp phới báo Tết, báo đời sống khá giả,
Một ao nước xanh biếc, trời xuống dân gian,
Đã chọn phát triển, không trách móc.
(Ngày 30 tháng 1 năm 2017)
泪蜜
甜蜜的眼泪?
二十多年前到访时,
我问,开埠的谁幸福得哭?
村民的行当是养蛇,
一听便头发直竖,
苦胆?做药,
治缺粮的民苦
初春金色的阳光,
树木抽芽叶落,
在时间长河里漂流的人,有的沉没,
有的在漩涡,踏步,
如我,站在村亭前,
时间带来的变化没冲击我的头颅。
长衫飘过,
游春上香不是来吃,
蛇,名声在外,只见庙旗,
飘扬宣告,春节,安康,
一塘碧水,下界天堂,
选择发展,无怨蠹。
注:蜜与胆在越语同一个词。