• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Hạnh phúc để làm gì? Cách người Nhật chấp nhận thế giới
  3. Trang 10

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 20
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 20
  • Sau

Chương 6THIÊN NHIÊN LÀ GÌ?

N

hật Bản là quốc gia tôn sùng thiên nhiên đến mức các phương diện để định nghĩa bản sắc cá nhân đều thông qua cách sống giữa sân vườn, rừng cây, núi non hay biển cả. Nhưng họ cũng cùng lúc không thể ngăn được bản thân phá hoại điều tạo nên sự sống cho mình.

Trong số những quốc gia công nghiệp hóa, Nhật đứng đầu khoản hủy hoại môi trường, từ săn cá voi đến làm nhiễm độc đất, ô nhiễm không khí đến biến đất thổ cư thành khu công nghiệp khô cằn.

Sau chiến tranh, người Nhật mang trong mình thôi thúc phải xây dựng một nền kinh tế cạnh tranh toàn cầu để bù đắp cho nỗi nhục bại trận, chính quyền và doanh nghiệp Nhật cũng vì thế mà ưu tiên phát triển kinh tế hơn là bảo vệ thiên nhiên. Với họ, có vẻ như việc tái thiết quốc gia quan trọng hơn nhiều so với sống có trách nhiệm với môi trường. Quyết định chua xót này trái ngược hoàn toàn với lối sống đặc trưng mà người Nhật đã hình thành từ ngàn xưa: tôn kính thiên nhiên.

Bên cạnh môi trường bị hủy hoại, người Nhật còn phải hứng chịu thảm họa đến từ thế lực bên ngoài. Trong Thế chiến thứ hai, Mỹ đã dội bom liên tục xuống nước Nhật, bao gồm hai vụ đánh bom nguyên tử vô nhân đạo xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki khiến hàng trăm ngàn dân thường thiệt mạng, cùng với các đợt không kích đã oanh tạc và san phẳng gần như toàn bộ Tokyo.

Kết quả là, các thành phố ở Nhật ngày nay được gia cố và chuẩn bị cho tình huống tồi tệ nhất. Các khu trung tâm nằm sâu dưới lòng đất với hệ thống đường sá đầy đủ và vô số cửa hàng. Dường như họ đang xây dựng chỗ trú ẩn để có thể tiếp tục cuộc sống ở những nơi không có thiên nhiên, nơi tất cả đều là nhân tạo, nếu tình thế dồn họ đến bước đường ấy.

Chưa dừng lại ở đó, Nhật Bản phải hứng chịu hàng loạt thiên tai thảm khốc đã để lại di chứng nặng nề: đại thảm họa động đất Kanto năm 1923 ở Tokyo, trận động đất Kobe năm 1995, trận động đất và sóng thần Sendai năm 2011, vô số vụ cháy ở Kyoto suốt nhiều thế kỷ qua. Vì vị trí địa lý khắc nghiệt mà theo thời gian, vô số thảm họa kinh hoàng cứ bất ngờ xảy đến với mức độ thường xuyên đến đáng sợ. Và vẫn còn khả năng tiếp diễn.

Các trung tâm đô thị ở Nhật sừng sững những tòa nhà xi măng cốt thép được thiết kế để chống lại động đất, sóng thần và được cho là có thể tồn tại vĩnh viễn. Thế nhưng chúng chẳng mang lại cảm giác tuyệt vời mà chỉ gợi lên nỗi mất mát. Cảm giác bị bỏ rơi, bị tách rời khỏi thiên nhiên càng trở nên trầm trọng hơn bởi những khó khăn bất thường xung quanh.

Như Ted Bestor đã nói trong tác phẩm kinh điển “Neighborhood Tokyo” (Khu phố Tokyo – ND), đường phố, số nhà ở đây rối rắm đến mức đáng sợ. Các ngôi nhà không phải lúc nào cũng đánh số theo đúng thứ tự, còn bảng chỉ đường nhiều khi chẳng có. Việc người dân địa phương phải gọi điện hỏi đường để đến nơi cần đến dù chỉ cách có một hoặc hai dãy phố không còn là điều hiếm thấy.

Đời sống Ghusl trở nên hỗn loạn, phức tạp và xa lạ là thế, nhưng trong thâm tâm người Nhật vẫn tồn tại cảm giác thanh thản không thể xóa nhòa rằng thiên nhiên định nghĩa nên con người. Chúng ta lo lắng, sợ hãi, chúng ta khó chấp nhận được sự chóng vánh của cuộc đời, tất cả là vì chúng ta đã mất đi chỗ đứng trong trật tự thiên nhiên. Nhưng chỉ cần nỗ lực, kiên trì ngày qua ngày để tìm hiểu và chấp nhận điều thiên nhiên trông đợi ở ta, ta rồi sẽ khôi phục được bản thân, sẽ xây dựng được cuộc sống tốt lành.

Tổn thương tâm lý do chiến tranh, nỗ lực công nghiệp hóa đất nước để đáp trả, cộng với việc người Nhật ở các thành phố bị chia cắt với thiên nhiên đã làm dấy lên nhu cầu mạnh mẽ phải kết nối lại với truyền thống xưa. Những mối dây liên kết này hoặc đã bị tổn hại, hoặc đã biến mất, và người Nhật giờ đây đang nỗ lực phục hồi. Ở một phương diện nào đó, chính sự xung đột giữa hiện đại và bảo tồn này đã định nghĩa cho văn hóa Nhật Bản.

Quan điểm khôi phục sự cân bằng giữa thiên nhiên và thế giới hiện đại đỉnh cao là một hiện tượng cá nhân đặc sắc, nhất là ở những quốc gia tiên tiến.

Có bao nhiêu người sẵn sàng từ bỏ mạng xã hội, Iphone, mua sắm trên mạng, công nghệ thực tế ảo hay vô số điều đã khiến cho cuộc sống dễ dàng hơn rất nhiều so với các thế hệ đi trước chứ?

Phải, dễ dàng hơn.

Dễ dàng hơn ở vô số phương diện mà nhiều người đã nói, nhưng trong trường hợp bạn vẫn còn hoài nghi thì hiện nay, chỉ cần vài phút trên Internet là chúng ta có thể hoàn thành rất nhiều việc vốn tiêu tốn nhiều giờ hoặc nhiều ngày, từ cấp lại bằng lái xe đến thuê xe hay mua quần áo. Không phải năm lần bảy lượt tới ủy ban hay cửa hiệu, tôi có nhiều thời gian hơn để làm những việc được cho là có giá trị hơn. Tôi thuộc nhóm người không nghĩ công nghệ mang lại mặt trái gì mà thấy nó là công cụ vô cùng hữu ích để giải quyết vấn đề. Và vâng, tôi dành rất nhiều thời gian để lên mạng, giống như bao người khác thôi, bởi vì… khoan, MẤY NGƯỜI CÓ THẤY ANH TA VỪA ĐĂNG GÌ TRÊN TWITTER KHÔNG?

Nhưng tôi cũng dành ra nhiều tuần trong năm để đi leo núi, ngắm mây trời, cây cối, chim muông. Ta hoàn toàn có thể làm được cả hai, thế thì tại sao lại không làm nếu may mắn có đủ điều kiện?

Người Nhật ngày nay cố gắng phát triển kinh tế song song với đáp ứng kỳ vọng của thiên nhiên. Họ tìm cách kết hợp hài hòa hiện đại với truyền thống, vừa cung cấp cơ sở hạ tầng kinh tế cho thế hệ tương lai vừa bảo tồn và tôn kính thiên nhiên để cuộc sống trở nên xứng đáng và giàu ý nghĩa.

Người Nhật làm điều đó thế nào?

Ở Nhật, ta có thể cảm nhận rõ rệt nhất xung đột ở những nơi cái mới và cái cũ giao thoa. Thông qua cảm nhận, ta sẽ dần hình thành nhận thức và thậm chí là thấu hiểu.

Tôi từng cảm nhận được xung đột đó ở Kyoto, nơi “chỉ” bị đánh bom có ba lần trong Thế chiến thứ hai.

Vì thoát khỏi các trận oanh tạc của không quân Mỹ một cách khá nguyên vẹn, rất nhiều công trình kiến trúc ở đây, từ khu Gion tới các quận hiện đại, vẫn còn lưu giữ được nét truyền thống. Năm 2007, chính quyền thành phố ban hành lệnh giới hạn xây nhà trên mười tầng, cấm đặt bảng quảng cáo trên mái nhà và sử dụng đèn nhấp nháy. Khắp thành phố vẫn còn lưu lại hàng chục đền chùa cổ. Những lữ quán ryokan nổi tiếng nép mình trong các ngõ hẻm. Người dân mặc kimono và đi guốc gỗ ra đường. Những quán trà, tiệm mì soba và quầy bán đậu phụ trên trăm tuổi vẫn tồn tại. Xung quanh khu chợ Nishiki có rất nhiều cửa hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ, quạt cầm tay, vải vóc. Không khó để hình dung Kyoto một trăm năm trước trông như thế nào.

Kyoto cũng sở hữu những quán bia tươi phong cách, rất nhiều khách du lịch và sinh viên đến từ phương Tây, phong cách nghệ thuật đương đại đang trên đà phát triển, nhà hàng Ý hảo hạng, hệ thống tàu điện, câu lạc bộ jazz, và trung tâm mua sắm quy mô lớn. Thành phố cũng đang nở rộ những khách sạn hạng sang của các tập đoàn quốc tế sau khi tạp chí du lịch gọi đây là “thành phố tuyệt vời nhất thế giới”. Người dân địa phương lo lắng Kyoto sẽ trở thành Venice hoặc Barcelona của Nhật, một phiên bản giải trí thay thế cho những điều khiến nơi đây thành độc nhất vô nhị.

Không có nơi nào trên thế giới sống động như nơi này, và sự xung đột trong lòng Kyoto cho ta manh mối để giải mã cuộc sống hạnh phúc thông qua việc chấp nhận thiên nhiên.

Năm 2017, tôi bắt đầu làm việc với cựu tổng quản lý khách sạn Hyatt Regency Kyoto, Ken Yokoyama, cho dự án để khách du lịch phương Tây lưu trú dài ngày ở các thiền viện.

Nhiệm vụ của tôi là giới thiệu các thiền viện trên trang web để các vị khách tiềm năng biết được ở đó có gì. Mỗi thiền viện đều có một nhà sư phụ trách tiếp đón khách lưu trú, giảng giải về thiền cũng như dạy tập thiền. Tôi phải phỏng vấn các vị sư này để thu thập tài liệu về lịch sử, đức tin của họ để cung cấp cho khách tham quan sau này.

Có năm ngôi thiền viện được chọn. Khu vực sinh hoạt của các nhà sư trước đây được tân trang, trang bị đầy đủ nhà bếp hiện đại, phòng ngủ lớn, bồn tắm gỗ sâu lòng, hành lang dài lát gỗ bóng loáng, cửa sổ kính lớn, vách tường gỗ trơn. Khu vực sinh hoạt nhìn ra khu vườn có hàng cây được cắt tỉa công phu, cái hồ nho nhỏ với cá bơi và sếu ngụp lặn.

Các vị khách lưu lại chùa sẽ không sợ bị làm phiền, hằng ngày học ngồi thiền với sư thầy, và có cơ hội được tham gia những nghi lễ gắn liền với lối sống chấp nhận sự ngắn ngủi của cuộc đời.

Phải ngồi chung chỗ với một nhà sư suốt mấy tiếng liền kể ra cũng đáng sợ. Trước khi bắt đầu công việc, tôi đã dành ra mấy tháng nghiên cứu về Phật giáo Thiền tông để chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn, nhưng khi đối mặt với các nhà sư, tôi vẫn thấy lo lắng. Tôi chẳng muốn mình nói năng như một thằng ngốc: tôn sùng thái quá, dốt nát chẳng biết gì, hay bất kính quá thể.

Quá nửa thời gian tôi đã nói năng như một thằng ngốc rồi.

Nhưng có lẽ vẫn đỡ hơn chút so với việc tôi không tự giác cư xử cho ra hồn.

Tôi không rõ nên hỏi gì, vậy nên đã cảm ơn nhà sư vì đã dành thời gian tiếp tôi, rồi đặt những câu hỏi mở như: Thầy sống ở đây bao lâu rồi? Hằng ngày thầy làm gì? Thầy quyết định xuất gia từ khi nào?

Một nhà sư từng sống ở California suốt mấy mươi năm, trước đây làm đầu tư bất động sản và kinh doanh nhà hàng. Ông trở về Kyoto tiếp nhận vị trí trụ trì sau khi cha ông, trụ trì trước đây của chùa, qua đời. Ở ông là sự tổng hợp lạ lùng giữa phong thái thoải mái cởi mở của dân bờ Tây Hoa Kỳ và nét tâm linh Nhật Bản.

Một nhà sư khác lại chưa từng bước chân ra khỏi thiền viện suốt nhiều thập kỷ. Một vị nữa thì chuyên nấu ăn cho khách ngoại quốc dựa trên giới luật xưa cùng con trai mình. Nhà sư thứ tư cho tôi xem một quyển sách của Giáo sư đại học Columbia viết về quá trình giảng dạy của ông. Nhà sư thứ năm hay kể chuyện ngụ ngôn và rất hài hước.

Mỗi vị đều nói chuyện hết sức thong thả và từ tốn trong lúc tôi ghi chép lại.

Chúng tôi thường bắt đầu buổi phỏng vấn trên chiếu tatami, cởi giày ra, ngồi gấp chân dưới đùi, tư thế này làm cổ chân tôi bị chuột rút bởi tôi chưa từng ngồi như thế. Sau đó tôi phải đổi sang ngồi xếp bằng, xoa xoa chân tới khi hết đau.

Chúng tôi uống trà. Rồi các nhà sư dẫn tôi đi tham quan các khu vườn, bảo tháp và nội viện chùa.

Mặc dù đều ở tuổi trung niên trở lên, nhưng họ vẫn bước đi một cách nhẹ nhàng, linh hoạt, bằng chứng của việc thường xuyên vận động. Nhưng khi ngồi, họ ngồi. Thật sựngồi. Ngồi mà không động đậy đến một thớ cơ. Từ chuyển động đến bất động, mức độ tự chủ và tập trung của họ ở vào một tầm mới lạ hoàn toàn, không hề giống bất cứ điều gì tôi từng chứng kiến.

Rồi khi nói, họ nói một cách khúc chiết, như sợ mỗi tiếng thốt ra sẽ gây kinh động đến thiên nhiên xung quanh. Tiếng nói cũng làm gián đoạn mối liên kết không lời mà chúng tôi đang cố thiết lập với nhau.

Không phải các nhà sư hiểu biết thâm sâu hơn về cuộc sống. Từ góc nhìn của họ, từ góc nhìn của Thiền tông thì họ dường như còn biết ít hơn: Mọi điều trong thái độ của họ nói lên rằng càng phân tích sẽ càng tạo ra rào cản. Hãy cứ chấp nhận thiên nhiên, trở thành một phần của nó, cố gắng hiểu thiên nhiên muốn gì ở ta hơn là áp đặt ý chí của mình lên nó. Quá trình đó bắt đầu (và kết thúc) bằng cách buông bỏ.

“Con phải giải phóng tâm trí mình,” Shodo Egami, nhà sư chùa Shinnyoji nói với tôi. Ông là vị sư vui tính hay kể chuyện ngụ ngôn. “Không còn tạp niệm. Chỉ còn cảm nhận.”

Lối sống cũng như quan niệm này của các nhà sư hoàn toàn xa lạ với tôi, nhưng trong khoảng thời gian ngắn sinh hoạt ở thiền viện được Ken chỉ định, tôi đã dần làm quen, dần thấy những con người thần thánh này không còn đáng sợ.

Cũng may cho tôi là Ken, người đã chơi với tôi gần hai mươi năm, thường có thái độ thiếu thành kính một cách châm biếm vì đã làm việc một thời gian dài ở Úc với người phương Tây, cộng thêm việc anh ta đang theo học chuyên ngành Văn học Mỹ. Anh ta bảo tôi rằng anh ta thích nhất nhà văn Mark Twain và quyển Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn.

Một buổi tối nọ, hai chúng tôi ăn tối với món bò bít tết và rượu vang đỏ Pháp hảo hạng. Tôi thuật sơ lại cho anh ta một ngày sống ở chùa.

“Egami-san nói thế với anh sao?” Ken hỏi. Anh ta có nụ cười thật rộng, cùng với cái đầu cạo trọc, nhìn cứ như Đức Phật sau khi thực hiện chế độ giảm cân. “Thật sao? Và anh tin à?”

“Chậc, thì tin. Sao vậy Ken? Tính kiểm tra tôi hay gì?” Tôi bật cười. “Anh cho rằng họ nói vớ vẩn sao? Chẳng phải anh luôn nói truyền thống Phật giáo có ảnh hưởng lớn tới anh và gia đình anh sao? Rồi anh muốn bảo lưu lối sống Nhật trước thời Tây phương hóa? Rốt cuộc là thế nào?”

“Cả hai,” anh ta cười nói. “Đừng quá để ý.”

“Chuyện gì?”

“Toàn bộ chuyện này,” anh ta trả lời.

“Vậy là anh không tin những lời nhà sư nói?”

Anh ta chỉ lắc đầu như thể vừa trêu chọc được một người bạn phương Tây đang tìm kiếm sự giác ngộ sai chỗ.

“Sumimasen!” Ken cao giọng kêu to, người phục vụ bàn liền chạy tới như có chuyện khẩn. “Rượu, Onegaishimasu.”

“Tôi không nói về đức tin,” anh ta bảo trong lúc chúng tôi uống thêm rượu. Ken hiểu biết rất rõ các loại rượu. “Các nhà sư sống tốt. Sao lại không?”

Sáng ra tôi thức dậy trong căn phòng từng dành cho các nhà sư ở thiền viện Kouunji. Phòng tôi có một cánh cửa lùa bằng kính nhìn ra khu vườn nhỏ, hành lang dẫn đến một bồn tắm vuông bằng gỗ tuyết tùng. Tôi thường đổ đầy nước nóng vào đấy rồi ngâm mình hồi lâu. Sau khi tắm xong, tôi bước ra khu vườn cạnh nhà bếp, tay cầm một tách cà phê, đứng đó, lắng nghe tiếng xạc xào của rừng cây trong gió nơi dãy đồi phía Tây.

Trước khi đi gặp Ken và nhà sư cho cuộc phỏng vấn trong ngày, tôi thường thả bộ dọc theo Tetsugaku no Michi (Con đường Triết gia) nổi tiếng và kênh Biwa, cách thiền viện chừng năm mét. Con đường dẫn đến các thiền viện và đền thờ Thần đạo khác. Những hàng cây mận và anh đào chạy dọc hai bên kênh đào. Khi ấy là tháng Hai, mùa hoa mận nở. Những cây sồi cổ thụ tỏa bóng râm mát trong các ngôi đền, còn các ngôi chùa thì có khu vườn được cắt tỉa cẩn thận.

Tất cả điều này đều mang ý nghĩa nào đó. Một cách quan sát để chắc chắn hơn, nhưng đồng thời cũng để hạnh phúc. Tôi không hề thấy cô độc dù đang ở một mình. Vợ con tôi đang ở Mỹ. Và điều kỳ lạ, thật sự kỳ lạ ở đây là khi tôi xuống phố gặp gỡ bạn bè vào chiều tối, uống rượu và ăn yakitori, khi đó tôi mới thấy cô độc, khi đó nỗi cô đơn và buồn bã quen thuộc mới ùa về chiếm lĩnh lòng tôi. Ở với bạn bè, nhưng tôi lại cảm thấy cô đơn hơn ở với thiên nhiên.

Với cõi lòng thanh thản, tôi thấy mình trở nên nhỏ bé vô cùng khi sống trong một tòa thiền viện, khi thả bước theo con đường nhỏ dẫn đến các đền chùa lân cận. Cảm giác trong tôi, suy nghĩ trong tôi lúc ấy chẳng còn quan trọng so với cái tôi đang thấy xung quanh. Thật nhẹ lòng làm sao khi biết thiên nhiên nói lên con người tôi hơn là những thành tựu tôi đạt được, tôi được giải phóng để tự do quan sát bất cứ thứ gì mình muốn. Tôi có thể chấp nhận sự bất lực của mình.

Tôi nghĩ rất nhiều về lời Ken nói. Nó làm tôi nhớ lại một buổi chiều lộng gió cách đây vài năm khi tôi đi cùng Takeshi. Anh ta chở tôi tới một bờ hồ nằm cạnh đồng lúa, cách căn hộ của anh ở Niigata chừng vài dặm để ngắm chim di trú. Tức cảnh sinh tình, tôi bèn kể cho anh ta một câu chuyện ngụ ngôn thiền, Takeshi liền cười phá lên.

“Ôi không!”

“Gì cơ?” Tôi hỏi lại.

“Một gã Tây lại đi kể chuyện ngụ ngôn thiền cho tôi sao?! Thôi!” Anh ta cười khúc khích. “Thôi cho xin đi, đừng có kể chuyện ngụ ngôn thiền!”

“Thôi được rồi,” tôi nói.

“Tốt.”

“Chuyện là thế này, một người con trai hỏi cha mình rằng ai là kẻ trộm nổi tiếng nhất, làm sao để đột nhập vào nhà…”

Takeshi để yên cho tôi kể hết câu chuyện. Anh ta có sức chịu đựng cao vậy đấy, nhưng anh ta cũng đã tỏ rõ quan điểm như Ken. Triết lý nhà Phật là cả một sự định hướng, một cách nhìn trọn vẹn được xây dựng trên cơ sở thiên nhiên. Đó không phải là một bộ điều răn, chẳng có sách phúc âm nào ở đây, người ta cũng chẳng mấy khi đeo mặt dây chuyền hình Phật trước ngực. Điều các nhà sư muốn nói chỉ ngắn gọn thế này: tìm vị trí của ta giữa thiên nhiên, thay đổi lối sống, khám phá nơi phù hợp với ta.

Phải, nền công nghiệp hóa, áp lực vì phải dành nhiều giờ trong văn phòng thật ngột ngạt. Bởi vậy việc sống giữa thiên nhiên lại càng ý nghĩa. Càng trải nghiệm, ta càng thấy việc bị tách rời khỏi nó không còn quá quan trọng nữa. Nó cụ thể như vậy đấy: thiên nhiên sớm nở tối tàn, bất kể có hay không có ta. Mọi thứ vẫn diễn ra như thể ta không có giá trị.

Đúng vậy, chúng ta không hề có giá trị, lạ lùng thay điều đó lại khiến chúng ta đỡ căng thẳng hơn. Điều ta cần làm là thuận theo thiên nhiên chứ không bám lấy ý kiến của mình. Ta không có quyền quyết định. Không sớm thì muộn sẽ chẳng còn ai trong chúng ta sót lại trên cõi đời này.

Với những chiêm nghiệm rút ra từ cách người Nhật nhìn nhận thiên nhiên, những bực bội phiền toái tôi phải trải qua trong ngày dần dần không còn đáng bận tâm nữa.

Ta thường nhận định bản thân dựa trên cảm giác tự hài lòng, nhưng nếu vượt qua được giới hạn đó và xem thiên nhiên mang lại ý nghĩa như thế nào cho sự tồn tại của ta, ta sẽ có một góc nhìn hoàn toàn mới về điều tạo nên hạnh phúc.

Ken nói đúng:

“Đừng quá để ý.”

Để xóa bỏ những tác động của cô đơn, của những ngày dài làm việc, của môi trường kiệt quệ, hay của nhận thức rằng ta bị chia cắt với thiên nhiên, ta cần phải tìm kiếm sự bình yên cho tâm hồn giữa thế giới thiên nhiên.

Hầu hết người Nhật không có may mắn được tịnh tâm nghỉ dưỡng trong một ngôi thiền viện, sáng đi dạo trong vườn hay thả bộ ngắm đền chùa. Nhưng tâm thức họ vẫn khắc sâu những giá trị này.

Tôi đã cố gắng sống với cảm nhận rút ra được từ trải nghiệm này hết mức có thể sau khi trở về Mỹ. Dù đứng giữa một bãi đỗ xe, tôi thấy ngọn cỏ hoang một cách rõ ràng hơn: sự bền bỉ của thiên nhiên. Hoặc khi dẫn Beau, chú cún giống chó núi Bern đi dạo vào sáng sớm trước khi thành phố trở mình thức dậy, tiếng hót của chim giẻ cùi lam, tiếng kêu của con diều hâu lướt qua trên đầu, tiếng sột soạt của đám thỏ vội tìm chỗ trốn, tất cả đều đọng lại trong tâm trí tôi lâu hơn trước đây. Tôi biết việc này rất ngược đời, nhưng giờ đây thay vì bận tâm về bản thân, tôi lại thấy dễ dàng và thoải mái hơn khi lo lắng cho con mồi sắp bị thú dữ ăn thịt, hay cảm nhận nỗi buồn trong sắc đỏ chuyển giao của buổi cuối hè. Những hiện tượng thiên nhiên giờ đây mang ý nghĩa nhiều hơn, và dù vẫn chưa đạt được đến sự hòa hợp, chưa biến nhận thức ấy thành một phần của mình, tôi vẫn nỗ lực để xây dựng phương cách nhìn nhận bản thân là một phần của thiên nhiên như người Nhật vẫn làm.

Với tôi, đây là trải nghiệm văn hóa, với người Nhật, đó là một lối sống.

Dù ở trong một hộp đêm sôi động hay mắc kẹt ở bàn làm việc đến quá nửa đêm, mệt mỏi đến mức chỉ muốn ngất đi, người Nhật vẫn cảm nhận được có điều gì đó không đúng, rằng thế giới công nghiệp hóa không có câu trả lời, rằng nước Nhật trước khi chọn con đường hiện đại hóa để tránh bị phương Tây đô hộ là một quốc gia được định hình qua sự gắn bó với thiên nhiên. Ý thức ấy vẫn tồn tại trong tất cả hoạt động sinh hoạt hằng ngày.

Đây là điều tôi đã học được, và cũng là điều chúng ta có thể làm theo để giải tỏa căng thẳng thông qua gần gũi với thiên nhiên:

Mặc dù ở Nhật, đa số người dân không thực hành tín ngưỡng hằng ngày, nhưng họ vẫn đều đặn đi viếng đền chùa theo năm hoặc theo mùa. Vậy nên hãy dành một chút thời gian trong ngày để ghi dấu thời khắc chuyển mùa trong năm, để cảm nhận được mình là một phần của thế giới. Dù ngắm lá đỏ ở New England, hay đến bảo tàng Cloisters ở New York, hay đơn thuần là dạo chơi trong công viên, đừng làm gì cả mà hãy cảm nhận. Ta đứng đâu trong khung cảnh này? Ta đóng vai trò gì trong thế giới này?

Sức khỏe thể chất lẫn tinh thần có mối liên kết chặt chẽ với thiên nhiên đến mức chính quyền thành phố ngày nay đã ban hành nhiều chương trình để người dân tham gia. Do đó dù bạn không thể tự mình trở về với thiên nhiên thì chính quyền thành phố vẫn đang tạo cơ hội cho bạn đấy.

Như Jane Brody đã nói, “Nhờ vào sự hợp tác của Hiệp hội Công viên và Giải trí Quốc gia cùng Viện Đất đai Đô thị, tổ chức Trust for Public Land đã khởi động một sáng kiến tuyệt vời có thể đem lại lợi ích cho tất cả người dân: để mọi người tiếp cận ‘một công viên chất lượng cao chỉ trong vòng mười phút đi bộ’.”39

39. Theo tờ New York Times, 4/12/2018.

Ý tưởng ở đây là xây dựng một khu công viên cây xanh giữa lòng đô thị để người dân có thể thư giãn và ngắm nhìn thiên nhiên. Một ý tưởng rất hấp dẫn; Brody cho biết đã có hơn 220 thị trưởng ủng hộ dự án này, “Việc này rất khả thi, mang lại lợi ích cho sức khỏe thể chất lẫn tinh thần của quốc gia hơn bất cứ thứ gì Quốc hội có thể thông qua.”40

40. Theo bài báo của Brody trên tờ New York Times.

Lợi ích thiên nhiên mang lại được nhấn mạnh để lý giải cho việc mở rộng ý tưởng: “Mười phút đi bộ có thể tăng cường sức khỏe, giảm nguy cơ mắc bệnh mãn tính và tăng cường chức năng não, như học tập và ghi nhớ.”41

41. Theo bài báo của Brody trên tờ New York Times.

Tiến sĩ Hanaa Hamadi, giám đốc y tế cộng đồng của tổ chức Trust for Public Land đã nêu ra những lợi ích này một cách hấp dẫn đến mức tôi không thể không tự hỏi tại sao các công ty, bệnh viện tâm thần và cộng đồng đến giờ vẫn không biến hoạt động ngoài trời thành một phần của lịch làm việc trong ngày.

Theo như bài báo, “Nghiên cứu của tiến sĩ Hamadi cho thấy không gian xanh trong khu dân cư có thể làm giảm tỷ lệ tội phạm, hạn chế căng thẳng và tình trạng cô lập xã hội, nhất là với người lớn tuổi; tăng cường khả năng tập trung ở trẻ em mắc chứng tăng động giảm chú ý; giúp mọi người cảm thấy thư giãn, tự tin và khỏe mạnh hơn.”42

42. Theo bài báo của Brody trên tờ New York Times.

Thật ra những cải thiện trên quá nửa đến từ việc bình đẳng thu nhập, được tiếp xúc với chế độ chăm sóc sức khỏe tốt, chế độ giáo dục đa dạng công bình, nhà ở sạch sẽ an toàn hơn là cây cối.

Nhưng không có gì để nghi ngờ rằng sống giữa thiên nhiên sẽ giúp ta bình tĩnh và khỏe khoắn, đến mức có thể mang lại năng lượng cần thiết và tinh thần minh mẫn để khắc phục nguyên nhân gây ra căng thẳng.

Một khi bước vào môi trường thiên nhiên, cố gắng đừng nói về công việc, rắc rối hay đích đến. Hãy cứ ngắm nhìn mọi vật xung quanh một cách im lặng nhất có thể. Bạn có thể vật lộn với những phiền não kia khi trở về nhà.

Nhà sử học Theodore Roszak đưa ra khái niệm “tâm lý sinh thái học” với quan điểm để thiên nhiên đặt ra quy luật. Tạo ra những cơ hội để từng cá nhân tiếp xúc với thiên nhiên mà không bị bất cứ ai hay bất cứ thứ gì giải nghĩa.

Người Nhật rất giỏi làm vườn, và nếu có thể, bạn hãy bắt đầu trồng cây.

Chiến dịch vườn cây nơi đô thị đang ngày càng phát triển ở Mỹ. Tại khắp các thành phố lớn, người dân được cung cấp đất đai để tự trồng rau. Với đôi tay lấm bẩn và cơ thể dính đầy bùn đất, bạn có lẽ sẽ suy xét lại thứ tự ưu tiên của mình.

Hãy cầm xẻng và túi phân bón lên rồi bắt đầu đào xới đi. Biết đâu bạn sẽ đào được hũ vàng tinh thần đấy.

Sớm bắt đầu đi nhé.

Alice Waters cùng chương trình Edible Schoolyard đã chỉ ra rằng trẻ con thích ăn những thứ tự tay trồng. Sinh hoạt ngoài trời cộng với thức ăn lành mạnh cũng góp phần đem lại lợi ích tinh thần cho trẻ nhỏ. Nhưng phần thưởng lớn nhất là trẻ em sẽ học được cách chăm sóc những sinh vật phải phụ thuộc vào chúng để sinh tồn. Còn gì tuyệt hơn khi nhà trường có thể dạy cho trẻ em về lòng thấu cảm? Rồi có lẽ con người sẽ bớt ích kỷ hơn; suy cho cùng tôi chưa từng thấy Ayn Rand viết sách dạy làm vườn.

Áp dụng cách người Nhật chăm sóc vườn cây vào lối sống Mỹ cũng là một cách để ta sống tốt hơn.

Tôi không nói rằng cắm hoa nghệ thuật rồi sẽ phát triển ở đây, nhưng sự tỉ mỉ, chăm chú, chậm rãi trong hoạt động cắm hoa để kết nối với thiên nhiên thật sự là một phương pháp để thư giãn tâm hồn.

Người Nhật cũng lưu tâm tới hai mươi bốn mùa rất ngắn trong năm, còn gọi là sekki. Một số mùa chỉ kéo dài vài ngày. Vì chóng vánh như thế, ta phải quan sát thật cẩn thận nếu không muốn bỏ lỡ. Ta có mùa Keichitsu, khi côn trùng thức dậy sau giấc ngủ đông; Shoshu, khi cái nóng mùa hè bị lãng quên; Kokuu, khi mưa xuân bắt đầu cung cấp nước cho hoa màu.

Hãy dành thời gian tiếp xúc với thiên nhiên, làm gì cũng được – chỉ cần liên quan đến những gì bạn nhìn và nghe thấy. Ta có thể ngắm chim, học cách phân biệt tiếng hót, hoặc nhận biết các loài cây quanh khu phố. Hãy để thiên nhiên trở thành một phần trong vốn từ vựng, rồi ta sẽ nhận ra rằng tiếng nói của con người chỉ là một nguồn kích thích chứ không phải là thứ mạnh mẽ nhất.

Nếu vì lý do nào đó bạn không thể ra khỏi nhà hay rời khỏi nơi làm việc, vẫn có cách để bạn gần gũi với thiên nhiên.

Tôi rất thích những quyển sách như Cuộc đời bí mật của Cây, Cuộc đời bí mật của Cú, Ư trong Chim Ưng, Cuộc đời bí mật của Bò... Phải, tác giả các quyển sách này dường như đã tạo ra một thế giới nội tâm giả tưởng cho những sinh vật và hiện tượng, nhưng ít nhất thì tôi vẫn cảm nhận được mối liên kết với thế giới tự nhiên thông qua các quan sát thấu đáo chân thành này.

Tôi cũng thấy rất nhiều video trên YouTube quay cảnh bão tố hay mưa rừng, và chỉ cần mười lăm đến hai mươi phút nghe tiếng mưa rơi qua tai nghe thôi, ta sẽ thấy không khí trong nhà hoặc chỗ làm tươi mới hơn hẳn.

Điều này không phải đùa đâu.

Tiến sĩ Oliver Sacks, một nhà thần kinh học ưu tú kiêm nhà văn đã viết trong cuốn Everything in Its Place (Mọi thứ ở đúng chỗ - ND) rằng: “Thiên nhiên rõ ràng đã kêu gọi điều gì đó sâu thẳm trong ta. Vai trò của thiên nhiên với sức khỏe và khả năng phục hồi càng trở nên thiết yếu hơn với những người phải làm việc dài ngày trong văn phòng kín mít, người sống ở khu đô thị thiếu không gian xanh, trẻ con thành thị hay người sống ở viện dưỡng lão. Tác động của thiên nhiên lên sức khỏe không chỉ ở mặt cảm xúc và tâm hồn mà còn ở thể chất và thần kinh.”

Trở thành một phần của thiên nhiên chính là mục đích. Ta có thể gắn kết với điều gì đó to lớn như bốn mùa trong năm, hay những thay đổi vô cùng nhỏ diễn ra trong ngày. Nếu mỗi ngày, mỗi giờ đều chú ý đến những điều đang diễn ra xung quanh, bạn sẽ không còn nhiều thời gian để bận tâm tới những điều khiến mình khổ sở hay điên đầu nữa.

Nhưng đừng lo!

Bạn vẫn còn thời gian để hành hạ bản thân mà, chỉ là không còn nhiều nữa thôi.