6
Tâm định và Tuệ
Bạn có thể thấu đạt Pháp Dhamma bằng cách đọc sách hay nghiên cứu các điển kinh do Đức Thế Tôn thuyết giảng. Điều đó rất quan trọng, tuy nhiên nó chỉ cung cấp cho bạn kiến thức tổng quát bề mặt. Điều bạn thật sự cần là phải chứng ngộ Tâm của mình vận động như thế nào. Bạn cần hiểu thông qua trải nghiệm thực tế, xem những trạng thái tiêu cực (như chán nản, tức giận, bất an), cũng như những phẩm chất tốt (như Tâm định) xuất phát từ đâu. Khi bạn nghiệm chứng quy trình này, bạn đang thực hành thiền sâu tới tầng Tuệ. Nhưng để tới được đó, bạn cần phải nuôi dưỡng những trạng thái Tâm tĩnh tại và an hòa. Càng an tịnh và Tâm định, bạn càng hiểu rõ thực chất của quy trình.
Thông hiểu luật Nhân - Quả
Một ví von sinh động dành cho những người chưa trải nghiệm nhập thiền sâu là chuyện một thanh niên đem rã máy chiếc đồng hồ ra để xem nó hoạt động thế nào. Khi anh ta tháo rời các bộ phận ra và tìm hiểu cặn kẽ, thế là anh ta hiểu tường tận cách thức nó hoạt động. Vì vậy, nếu bạn đang gặp vấn đề với việc hành thiền, hãy đi từng chút một, đừng lo lắng bởi vì nó cho bạn cơ hội tìm hiểu xem bạn đã hành thiền như thế nào. Một khi hiểu được điều này, tức là bạn hiểu được luật Nhân - Quả của Thân và Tâm con người.
Nhưng hãy nhớ, bạn cần an ổn và Tâm định để đạt tới sự hiểu biết thật sự. Lại một hình ảnh ví von nữa, nếu bạn được sinh ra trong nước và bạn sống cả cuộc đời hoàn toàn dưới nước thì rất có thể bạn không biết nước như thế nào. Chỉ khi nòng nọc trở thành con cóc và ra khỏi nước thì nó mới hiểu nước là cái gì. Tương tự, chỉ khi sự vật bắt đầu biến mất trong trạng thái thiền sâu, bạn mới có thể hiểu chúng là gì. Đó là sự an định của Tâm, là sự biến mất tất yếu của sự vật, từ đó dẫn tới Tuệ minh sát thâm diệu. Thật vậy, một trong những khái niệm đồng nghĩa với Niết Bàn là sự chấm dứt – làm lắng dịu tất cả các hành saṅkhāra, chấm dứt tất cả các hiện tượng căn bản của kiếp sống bởi vì tất cả các hành saṅkhāra đều vô thường, tất cả các hành saṅkhāra đều khổ đau.
Sabbasaṅkhārasamatha – làm lắng dịu tất cả saṅkhāra – là một khái niệm tuyệt vời cho bạn tập trung vào. Đó là định nghĩa về Niết Bàn: an ổn, thanh tịnh, an lành và làm lắng dịu tất cả các hành saṅkhāra. Trong trường hợp này, thuật ngữ saṅkhāra hàm ý những tác động sinh ra bởi hành động của thân thể, lời nói và Tâm của bạn, tức là những gì bạn trải qua đều là kết quả của Nghiệp trong quá khứ. Nhưng saṅkhāra cũng có thể ám chỉ toàn bộ quy trình gieo Nhân để tạo ra Nghiệp, nói cách khác đó là hành động cố ý của thân thể, lời nói và Tâm. Vì vậy, saṅkhāra vừa mang nghĩa chủ động vừa mang nghĩa bị động.
Một khi bạn hiểu rằng tình huống hiện tại được sinh ra bởi những Nhân, thì bạn có thể tác động lên hệ thống Nhân - Quả bằng tâm thế hướng đến an tịnh, giải thoát, tự do và giác ngộ. Để lắng dịu các hành saṅkhāra thụ động, bạn phải lắng dịu các hành saṅkhāra chủ động, bởi vì các hành saṅkhāra thụ động được sinh ra từ quy trình đó. Điều này tức là làm lắng dịu ý chí – toàn bộ quy trình thực hiện và kiểm soát – sử dụng Tuệ để giữ yên khoảnh khắc hiện tại này và an hòa với nó. Bạn mở cánh cửa trái tim mình cho khoảnh khắc này, cho dù nó là gì – bạn bằng lòng, không đòi hỏi, thỏa mãn và hạnh phúc khi ở đây. Điều đó không khó thực hiện nếu bạn nhìn nhận một cách hữu lý: Kiểu gì khoảnh khắc hiện tại cũng là tại đây; bạn không thể thay đổi nó, thật sự bạn chỉ có thể chấp nhận nó.
Lắng dịu ý chí và giảm ý thức về cái “tôi”
Khi bạn chống lại khoảnh khắc hiện tại, bạn đang làm điều sai trái – bạn đang kích thích ý chí và tiếp sức cho nó mạnh hơn. Ý chí mạnh hơn tức là bản ngã mạnh hơn. Nhưng khi ý chí yếu đi, tức là bản ngã giảm xuống, và khi ý chí bị xóa bỏ thì bản ngã được trấn áp. Sự biến mất của ý thức về cái “tôi” là điều mà chúng tôi gọi là anattā (vô ngã). Ý thức về cái “tôi” vừa là cái bạn nghĩ mình là ai trong mối quan hệ với người khác (bản ngã ngoại diện) và quan trọng hơn, vừa là cốt tinh của bản ngã, tức là bạn thật sự nghĩ mình là cái gì bên trong. Rốt cuộc, mọi cái móc bạn có thể treo chiếc mũ mang tên “tôi” hoàn toàn bị lấy đi. Chính vì vậy mà Đức Phật truyền rằng chỉ có rất ít người hiểu được sabbasaṅkhārasamatha, cho nên nó thật đáng sợ với hầu hết mọi người (MN 26:19).
Để thấy ý thức về cái “tôi” biến mất là cả một cuộc đấu tranh gian khổ trong những năm đầu của đời sống tu hành. Mọi thứ hoàn toàn trái ngược với thế giới, nơi mà hầu hết mọi người đều ráo riết đi tìm nhân dạng độc đáo, rõ ràng về tên, tuổi, ngày sinh, quá khứ, học bạ, địa vị, giới tính và các kỹ năng. Con người ta phải làm việc cật lực để làm vui lòng người khác, và để tạo dựng cái “tôi” được thế giới chấp nhận – bạn bè chấp nhận; đồng nghiệp chấp nhận; cha mẹ, thầy cô chấp nhận. Bạn có ý niệm rõ rệt về mình là ai. Bạn đã có ý thức vững chắc về cái tôi của mình. Thế mà giờ đây bạn được bảo là hãy vứt bỏ tất cả những điều đó đi. Nghe cứ như là bấy lâu nay bạn đã phí phạm thời gian. Thật vậy, nhìn lại quãng thời gian tôi còn học ở Đại học Cambridge, bây giờ tôi biết rằng mình đã phung phí thời gian, cố trở thành ai đó bằng cách học miệt mài để thi đậu tất cả các môn. Có lẽ bạn từng trải qua thời kỳ như thế, và bởi vì bây giờ bạn đang cố biến mất thì bạn phải đối mặt với cái Nghiệp đó.
Hãy nhớ rằng bạn không thể biến mất bằng cách nói: “Tôi sẽ không ở đây nữa; đây sẽ là kiếp sống cuối cùng của tôi”, bởi vì ý chí là thứ điểm trang cho bản ngã. Giống như ý chí, khao khát không tồn tại là một hành saṅkhāra, mà tất cả các hành saṅkhāra đều tạo ra thêm nhiều sự vật hiện tượng trong tương lai. Bạn sẽ không bao giờ có thể chấm dứt sự tái sinh theo cách này. Cách duy nhất để diệt sinh mà bạn có thể làm là bước đi trên con đường hành thiền. Bằng cách luyện tập dấn sâu vào nhập thiền, từng bậc một, ý thức về bản ngã bắt đầu biến mất.
Hành thiền là nền tảng giáo lý dẫn tới con đường chứng ngộ của Phật Pháp. Theo đó, tất cả các nấc, như sīla (Giới) và thậm chí cả Tuệ, đều được xem là yếu tố hỗ trợ(8). Giáo huấn samādhi (Định) là trung tâm, bởi vì khi bạn học cách bình thản, tức là bạn đang học cách nhòa tan dần đi và biến mất. Dĩ nhiên, ban đầu sẽ rất khó tan đi, bạn muốn “hiện hữu” bởi vì đó là mục đích duy nhất của bạn trong vô số kiếp sống. Chính vì thế mà đời sống trong tu viện được dựng lên cho bạn biến mất; nó giúp bạn trôi về hướng biến tan. Bạn là nhà tu giữ một cấp bậc nào đó trong hệ thống Tăng Già, hoặc kết cục chỉ là một nhà tu tập sự. Tất cả đều mặc cùng một loại áo cà sa, tất cả đều trông giống như nhau. Ngay cả những chúng sinh hay lui tới tu viện cũng không biết tên bạn. Vậy bạn có biết tên bạn? Tên bạn là ngũ uẩn? Hay tên bạn là vô thường, sầu não và vô ngã. Chuyển động hướng về biến mất là chuyển động đúng hướng. Khi bạn hành thiền, bạn thấy chỉ cần biến mất một chút xíu thôi, bạn đã trở nên an lạc hơn, tự do hơn và hạnh phúc hơn. Đó là những củ cà rốt (món quà) đưa bạn đi sâu hơn về phía làm lắng dịu tất cả các hành saṅkhāra. Thậm chí chỉ cần làm lắng dịu chúng một chút thôi, bạn cũng cảm nhận được mình đang đi đúng đường.
Lắng dịu và làm biến mất các hiện tượng
Mới đây tôi được hỏi về ý nghĩa của saddhā (Tâm tịnh tín). Vậy, chúng ta hàm ý gì khi định nghĩa saddhā như thế này: niềm tin vào đoạn kết của tất cả các hành saṅkhāra; niềm tin vào sự chấm dứt; niềm tin vào Niết Bàn. Thuật ngữ saddhā không hàm ý nhiều đến niềm tin vào Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) mà đặt niềm tin vào những thứ Tam Bảo chỉ dẫn tới. Niềm tin thật sự là niềm tin vào sự chấm dứt; niềm tin vào sự tuyệt diệt của bể khổ; và niềm tin rằng những điều này có thể thực hiện. Nếu bạn có niềm tin vào khả năng làm lắng dịu tất cả các hành saṅkhāra, thì khả năng đó là thật. Làm sao bạn ngộ được niềm tin ấy? Nó sẽ nổi lên khi bạn làm lắng dịu từng chút hành saṅkhāra, khi bạn đi vào nhập thiền sâu và an tịnh. Cuối cùng, các hành saṅkhāra an trụ vào điểm mà chúng tự nhiên không còn ở đó nữa. Khi bạn hoàn toàn làm lắng dịu cái gì đó, tức là bạn làm lắng dịu nó hoàn hảo đến nỗi nó biến mất.
Thân thể tôi là một ví dụ. Tôi đang già đi, thỉnh thoảng khi tọa thiền, mình mẩy tôi đau nhức, mũi tôi ngứa ngáy. Nhưng khi tôi cứ ngồi đó, những cảm giác kia bắt đầu biến mất. Hồi sau, toàn bộ thân thể tôi cũng biến mất, đó là sự nhẹ nhõm vô cùng. Cách đây nhiều năm, có một thiền sinh tham gia khóa tu thiền của tôi, tay của cô ấy biến mất – cô không thể cảm nhận được tay mình! Vậy là rất tốt! Một chút hành saṅkhāra đang được làm lắng dịu. Cô ấy đã dẹp bỏ được nỗi sợ hãi, cú sốc, và khi được hỏi cô cảm thấy trải nghiệm đó như thế nào thì cô bộc bạch rằng nó thật là an lạc và tự do.
Khi những trạng thái hạnh phúc và an ổn như thế hiện ra, bạn thấm nhuần đức tin vào con đường làm lắng dịu và buông bỏ các hiện tượng. Khi bạn dấn theo con đường đó, bạn học được cách làm lắng dịu thêm nhiều hành saṅkhāra nữa. Tại sao phần này hay phần kia của thân thể biến mất? Nó biến mất bởi vì bạn không can thiệp vào nó, hoặc không cố thay đổi, kiểm soát nó, hay cố làm cho nó trở nên thoải mái; đơn giản là bạn phớt lờ nó hoàn toàn, buông bỏ nó rồi thoát ly nó luôn. Giống như cố cầm ly nước sao cho không sóng sánh. Cho dù bạn cố gắng thế nào chăng nữa, nước cũng không bao giờ tĩnh hoàn toàn. Chỉ khi bạn đặt ly nước xuống, khi bạn buông nó khỏi ý chí, thì nước mới đứng yên. Trong hành thiền, khi sự vật trở nên an tĩnh, chúng biến mất. Bạn hiểu rằng khi bạn lắng dịu phần chủ động của các hành saṅkhāra – phần thực hiện, ý chí, chọn lựa, cấu tạo – thì kết quả là những hành saṅkhāra thụ động sẽ biến mất. Toàn bộ con đường trở thành nghệ thuật biến mất từ từ.
Lắng dịu thời gian
Thời gian là tên đồ tể tàn bạo nhất của loài người. Còn bao nhiêu ngày nữa thì khóa tu thiền kết thúc? Cữ thiền này dài hơn bao lâu? Tôi có thể đi toa-lét vào lúc nào? Chừng nào tôi đi ngủ được? Tôi ngủ bao nhiêu tiếng một đêm? Chừng nào tới bữa sáng? Mấy tiếng nữa thì đến bữa trà? Tất cả những lo lắng về thời gian này tra tấn con người. Bạn cần phải làm lắng dịu thời gian.
Chính ý chí hoặc khát khao (tham) tạo ra tương lai; chính tà ý (sân) tạo ra quá khứ. Khi bạn buông bỏ ý chí, thời gian bắt đầu biến mất, và đó là một trải nghiệm đẹp. Bạn chứng ngộ trạng thái phi thời gian: bạn thực tập thiền, nhưng bạn không biết là trong bao lâu. Bạn hoàn toàn tỉnh thức, nhưng thời gian chẳng có nghĩa lý gì đối với bạn nữa. Cho dù bạn ngồi suốt hai tiếng, ba tiếng, thậm chí chỉ là năm phút, tất cả đều giống như nhau. Duy chỉ có một khoảnh khắc, đó là khoảnh khắc này. Tất cả là hiện tại. Bởi vì bạn đã làm lắng dịu các hành saṅkhāra chủ động – công việc của ý chí – nên bạn cũng làm lắng dịu luôn thời gian. Khi thời gian được làm lắng dịu, bạn có thể hành thiền hai, ba tiếng đồng hồ mà không thành vấn đề. Điều này thậm chí có thể xảy ra ngay cả khi hành thiền không sâu. Làm lắng dịu thời gian là một pháp thâm hậu, có kèm theo sự tưởng thưởng: tự do, hạnh phúc và an lạc.
Làm lắng dịu dòng suy nghĩ
Trước khi lắng dịu thời gian, bạn cần làm lắng dịu dòng suy nghĩ và Tâm lang thang. Để làm điều này, bạn cần một ý chí rất tinh tế: ý chí… đừng làm gì cả. Ý chí đó sẽ lập ra một “người lính” canh gác cánh cổng Tâm của bạn. Giống như người vệ sĩ cao to tại hộp đêm, ý chí đó báo rằng: “Có những vấn đề như thế này, đừng để cho chúng vào”. Kiểu ngăn giữ này, ít nhất vào lúc ban đầu, là một kiểu sức mạnh của ý chí, là kiểu kiểm soát. Nó là một nỗ lực có ý thức nhằm làm cho Tâm phải khuất phục, và để kiềm chế những chiều hướng bất lợi. Bạn vừa vẽ ra một lối đi và đặt một vệ sĩ tại đấy. Bạn giống như người làm vườn, trồng nhiều loại hoa và cây trái, bạn bảo vệ và canh giữ để đảm bảo không có gì làm hại chúng. Tất cả những gì bạn cần là thiết lập sự canh giữ với chủ đích rõ ràng. Sau đó, khi Tâm trở nên an định, sự canh giữ vẫn còn, bảo vệ sự an định đó, nâng niu giá trị của nó, chăm sóc và nuôi dưỡng nó. Theo cách này, những khoảnh khắc Tâm định, yên hòa không suy nghĩ, sẽ kéo dài hơn nữa.
Cái gì đó mất đi khi bạn ngừng suy nghĩ, đó chính là “bạn”. Nhiều người tự đo lường, đánh giá bản thân qua trí thông minh và khả năng suy nghĩ rạch ròi, tranh luận có sức thuyết phục. Nhưng điều bạn đang thật sự làm là để cho những khuôn mẫu suy nghĩ đấu với nhau, tựa như hai võ sĩ sumo giao đấu trong xới vật của những ý niệm. Tuy nhiên, chiến thắng thật sự xuất phát từ việc làm lắng dịu tất cả mọi thứ. Bạn tĩnh tới mức mà những ý niệm không còn nổi lên nữa. Bạn tĩnh lặng, nghĩa là bạn yên bình và tự do.
Thậm chí khi bạn không thể làm lắng dịu suy nghĩ trong một thời gian dài, hãy cảm nhận xem nó có cảm giác thế nào. Nếu bạn tìm hiểu về nó, bạn sẽ nhận ra nó dễ chịu biết dường nào. Bạn bắt đầu thấy mỗi lần bạn có một suy nghĩ, bạn bị quấy rầy – giống như kết hôn với một tên độc tài, bạo chúa, luôn tra tấn bạn, hoặc bạn làm việc cho một ông chủ liên tục đòi hỏi bạn hết làm cái này lại làm cái kia, thậm chí còn lăng mạ bạn. Thật dễ chịu khi những hình ảnh đó tắt đi. Bạn vui sướng trong Tâm lắng đọng và phát triển niềm tin, sự tự tin. Ban đầu, có lẽ bạn sợ hãi về sự biến mất của mình. Bởi vì suy nghĩ làm bạn cảm thấy bạn đang kiểm soát, còn việc không suy nghĩ lúc mới đầu có cảm giác như bạn buông tay khỏi bánh lái. Bạn tự hỏi làm sao để giữ thăng bằng khi suy nghĩ không ở đó để bảo bạn phải làm gì, để thúc giục bạn cách này cách khác. Nhưng một hồi sau, bạn thấy rằng không suy nghĩ và không kiểm soát cũng tốt. Thực tế điều đó mang lại cảm giác rất dễ chịu. Ngoài ra, bạn đang chứng ngộ những tầng đầu tiên để thâm nhập vào vô ngã – chấm dứt, buông bỏ và biến mất.
Làm lắng dịu các giác quan
Khi bạn đã sẵn sàng đi xa hơn trên con đường thiền, bước kế tiếp là tập trung. Tại sao bạn phải quan sát hơi thở? Tại sao bạn không thể ngồi im trong khoảnh khắc hiện tại? Bởi vì sự đa đoan của các giác quan và những đề mục khác nhau của chúng, bạn liên tục bị oanh tạc bởi những tiếng ồn mà các giác quan cảm nhận. Để lắng dịu những điều đó, đầu tiên bạn phải tập trung, lược bỏ sáu giác quan, chỉ còn bám vào hai thôi: xúc giác (dưới dạng hơi thở) và Tâm. Cuối cùng, bạn buông luôn hơi thở và giảm tập trung vào Tâm. Tập trung vào Tâm là một trong những tri kiến vĩ đại nhất của Đức Phật, bởi vì đó là phần quan trọng trên con đường dứt khỏi vòng Luân Hồi. Tập trung vào Tâm làm một gióng thang bắc tới Tâm định.
Vấn đề với việc im lặng tập trung là Tâm vẫn cứ lay động. Tâm bất an, nó đi tìm hạnh phúc lúc thì ở đây lúc thì ở kia. Tâm nghĩ rằng trải nghiệm tiếp theo sẽ thú vị hơn hoặc bổ ích hơn. Chính vì thiếu thỏa mãn như thế này nên Tâm cứ lèo lái cuộc sống của con người, xui khiến chúng ta đọc sách, xem phim, hoặc thôi thúc chúng ta phải đi lang thang khắp thế giới. Chúng ta đang tìm kiếm cái gì? Suy ngẫm kỹ thì bạn sẽ thấy rằng cho dù bạn đi đâu chăng nữa, về cơ bản mọi thứ vẫn như cũ. Cây cối vẫn như cũ, con người vẫn như cũ. Tại sao phải đi tới Vạn Lý Trường Thành tận Trung Hoa? Đâu có gì lớn lao – tường nào cũng là tường thôi. Tại sao lại phải tốn bộn tiền để lên tận đỉnh tháp Eiffel? Phong cảnh thì đâu cũng là phong cảnh. Tại sao người ta muốn làm những điều này? Thường là vì họ muốn có thứ gì khác để làm, muốn điều tiếp theo phải mang lại cho chúng ta cảm nhận mình là ai. Chúng ta đi săn lùng nhân dạng của mình bằng cách cứ luôn hành động.
Cuộc sống giống như một cuộc hành trình, và hành thiền là những trạm dừng trên cuộc hành trình đó. Dừng lại và ngồi xuống ở đâu đó, tập trung vào hơi thở, bạn có thể vượt qua khuynh hướng luôn muốn đi tới nơi khác của Tâm. Nếu bạn thật sự quan sát hơi thở, bạn không thể cảm nhận những phần khác của thân thể. Bạn không biết trời nóng hay lạnh, không biết mình bị đau chân hay nhức đầu gối – bạn không còn cảm thấy những thứ đó nữa. Bạn tập trung hoàn toàn vào hơi thở ra hít vào, không nhận ra bất kỳ cái gì khác. Bạn buông bỏ những giác quan – bạn lắng dịu chuyển động của Tâm, không cho nó đi tới những giác quan khác. Nói cách khác, bạn đã làm lắng dịu bốn giác quan (thị giác, thính giác, khứu giác và vị giác). Bạn cũng làm lắng dịu phần lớn xúc giác, để tất cả những gì còn lại là hơi thở, rồi bây giờ bạn cũng đang bình ổn và lắng dịu nó luôn.
Bạn không thể thành công trong quy trình làm lắng dịu bằng cách kiểm soát và ngừng thở. Chính tôi đã cố làm điều đó nhưng không thành công. Nếu bạn nín thở, bạn không thể duy trì hành thiền – bạn bị căng thẳng và đánh mất niềm hạnh phúc của sự lắng dịu. Nhưng nếu bạn luyện tập đúng cách, bạn tử tế với hơi thở, bạn cho phép quy trình tự nhiên diễn ra. Bạn lắng dịu Nhân của tất cả những thứ lạc vào Tâm, cho đến khi tất cả những gì còn lại chỉ là hơi thở.
Khi bạn chỉ còn quan sát hơi thở đi vào đi ra, trạng thái Tâm sẽ thay đổi – nó cảm thấy dễ chịu, an ổn. Nếu bạn tiếp tục quan sát, niềm vui sẽ nổi lên. Tôi gọi đây là hơi thở đẹp. Nó đẹp, nó vui và nó hạnh phúc bởi vì bạn thoát khỏi đống sầu khổ, bạn tự do. Trong trạng thái tiềm ẩn đạt tới Tâm thanh tịnh, bạn nên đào tìm tất cả những gì xứng đáng. Tại sao chỉ quan sát hơi thở thôi cũng khiến bạn hạnh phúc đến thế, trong khi hầu hết mọi người phải xem bóng đá, đọc tạp chí, hay đi du lịch tận London, Paris? Người ta thấp thỏm lo lắng xem ai thắng tại Thế vận hội hoặc ai đoạt chức vô địch giải Ngoại hạng Anh. Họ lo lắng về mối quan hệ, về tình dục, tiền bạc, lo cần phải làm cái này, cái kia. Còn bạn, tất cả những gì bạn có là hơi thở, và tất nhiên bạn hạnh phúc hơn bất kỳ ai trong số họ. Tất cả những gì bạn có là hơi thở – và là hơi thở an lạc. Bạn chẳng phải làm gì ngoài việc nhận thức hơi thở và cho phép nó càng lúc càng an định.
Khi bạn tự do, thoát khỏi những gánh nặng, hạnh phúc sẽ nổi lên; khi bể khổ không còn, bạn cảm thấy bình an, dễ chịu. Khi bạn bình ổn được các hành saṅkhāra, từng chút một, bạn sẽ bình yên hơn, tự do hơn, hạnh phúc hơn và có cảm giác được giải phóng hơn. Bạn nhận ra: “Wow! Con đường Phật Pháp là đây, tất cả là buông xả, bỏ lại sầu đau, cảm nhận hạnh phúc và tự do”. Bạn không nối kết với niềm hạnh phúc mà với con đường làm lắng dịu các hành saṅkhāra, bởi vì bạn biết điều này sẽ dẫn bạn đi xa, xa hơn nữa. Bạn lại tiếp tục buông bỏ thêm hành saṅkhāra – càng buông bỏ, càng an lạc. Rốt cuộc là niềm vui đến. Hãy xem niềm vui đó nhiều đến thế nào. Như tôi từng chứng ngộ, niềm vui ấy lớn lao vô cùng, lớn lao hơn bạn tưởng tượng nhiều.
Tâm chói sáng
Khi hơi thở được lắng dịu, cuối cùng bạn buông nó đi, và một Định Tướng nimitta tuyệt đẹp xuất hiện. Định Tướng nimitta đó là gì? Chính xác đó là Tâm ở trạng thái sáng chói – một trạng thái mà Đức Phật gọi là pabhassara citta (AN 1:49 – 52). Nó là giác quan thứ sáu được phóng thích từ năm giác quan kia, giống như mặt trăng ló dạng sau những đám mây. Chúng ta có ý gì khi dùng thuật ngữ “phóng thích”? Nghĩa là khi những đám mây không còn ở đó nữa, và năm giác quan đã được lắng dịu tới mức biến mất thì tất cả còn lại là Tâm. Bạn không còn có cảm giác về thân thể, kể cả hơi thở. Bạn không đạt được điều này bằng cách kiểm soát và lo lắng về các giác quan, mà bằng cách ngó lơ chúng, mặc kệ chúng và quan sát hơi thở. Bạn đơn thuần chỉ tập trung vào góc đẹp của hơi thở và điều này khiến cho nó bình ổn. Bạn cho phép toàn bộ quy trình tự nó xảy ra. Sau đó chỉ còn lại Tâm.
Định Tướng nimitta nổi lên ở tầng thiền này không chỉ đẹp và an lạc khôn tả, mà nó còn dẫn đến những chứng ngộ quan trọng trên con đường lắng dịu thứ gì đó cho đến lúc thứ ấy biến mất. Hãy nhớ hình ảnh ví von về con nòng nọc, chính vì bây giờ thân thể và năm giác quan đã hoàn toàn được lắng dịu nên bạn biết chúng thật sự là gì. Chỉ bây giờ bạn thật sự hiểu Đức Phật răn dạy ta những gì. Bạn cũng biết tại sao đôi lúc người ta nghĩ cụm từ pabhassara citta (Tâm chói sáng) có nghĩa là “Tâm nguyên bản”, “tinh túy của vạn vật chúng sinh”, “Thượng đế” hoặc “ý thức vũ trụ”. Đó là bởi vì Định Tướng nimitta quá đỗi thâm diệu và thần kỳ. Nhưng khi bạn đạt tới chứng ngộ chiết ra từ trải nghiệm Định Tướng nimitta lặp đi lặp lại, bạn biết nó đầy đủ, bạn nhận ra: “Thật là sai lầm khi nghĩ Tâm chói sáng như một thứ năng lực mạnh hơn, hoặc thực tế siêu việt hơn. Tâm chói sáng đơn giản là gương mặt của Tâm khi năm giác quan hoàn toàn trở nên lắng dịu”.
Các Định jhana – nghệ thuật biến mất thặng thừa
Những gì còn lại ở tầng thiền này là Tâm, vì vậy bước kế tiếp là làm lắng dịu chính Tâm. Tiếp tục thiền samatha và xem bạn có thể buông bỏ thêm bao nhiêu nữa. Khi bạn thoát khỏi Định Tướng nimitta – không kiểm soát nó – bạn đi vào các Định jhāna, những trạng thái hạnh phúc dâng trào. Mỗi Định jhāna là kết quả của sự bình ổn, lắng dịu mọi thứ – thân thể, hơi thở, Tâm và quan trọng nhất là ý chí. Ý chí không thể vận hành trong Định jhāna – nó đã ngừng lại rồi. Do ý chí đã dừng lại, bạn không cho nó ăn, bạn không nuôi nó, cho nên nó bắt đầu tan héo đi.
Nếu bạn thực tập Định jhāna liên tục, kiên trì, dần dần bạn sẽ tiến bộ từ Định jhāna đầu tiên đến Định jhāna thứ hai, thứ ba, thứ tư – đó là thiền Hữu Sắc; xong rồi bạn tu tập đến tầng thiền Vô Sắc Giới āruppa; để cuối cùng bạn sẽ nhập đến tầng thiền Diệt Thọ Tưởng Định nirodha. Do bởi ý chí không còn điều khiển Tâm nữa, nó bắt đầu mất đà khỏi quá khứ, tức là đối tượng ngăn không cho bạn đi sâu hơn vào các Định jhāna. Chỉ khi bạn cắt đứt nguồn tiếp liệu cho chiếc xe hơi của bạn, bạn sẽ đi càng lúc càng chậm hơn cho đến khi ngừng hẳn, đó là lúc bạn tiến tới Định jhāna – càng ngày càng có nhiều thứ tan biến. Định jhāna là trạng thái biến mất thâm diệu của Tâm. Khi bạn chứng đắc điều này, nó thật sự làm thay đổi hành vi của ảo tưởng. Khi bạn thấy Tâm biến mất, bạn biết một hành saṅkhāra biến mất – hành saṅkhāra không phải do thánh thần tạo ra, mà do những hành động, lời nói và hoạt động tinh thần tích tụ nhiều thiên niên kỷ tạo nên. Và bây giờ bạn đang làm lắng dịu nó, từ từ cho phép nó tan đi. Theo đó, sabbasaṅkhārasamatha (lắng dịu tất cả các hành saṅkhāra) có nghĩa là nhập vào các Định jhāna và luyện tập hướng tới Diệt Thọ Tưởng Định nirodha cho đến khi Tâm dừng lại. Khi bạn tới được tầng thiền này, không có gì còn lại – không ý thức, không thánh thần, không trải nghiệm, không cảm nhận, không cảm giác, không cảm xúc, không thực tại. Ngay cả không cái gì cũng chẳng còn. Hiểu điều này tức là hiểu Niết Bàn được chứng đắc như thế nào và tại sao nó lại hạnh phúc tuyệt đỉnh đến vậy.
Chứng đắc tột cùng của Đức Phật bắt nguồn từ việc tập luyện Định jhāna và nhìn mọi thứ biến tan. Tu luyện để thấm nhuần giáo huấn Định samādhi là phần khó nhất, ít nhất vào lúc đầu, bởi vì khi bạn lắng dịu ý chí, dường như bạn đang biến mất. Vì lý do này, thật hữu ích khi luyện tập pháp Vô Ngã Tưởng anattāsaññā. Rõ ràng là trong những lời răn dạy của Đức Phật không hề có thứ gọi là bản ngã. Ngay cả trong tạp chí chuyên ngành khoa học, các nhà tâm lý cũng cho thấy là không có bản ngã – đó chỉ là một kết cấu. Do vậy, hãy cứ cần cù theo sự hiểu biết ấy, rồi từ từ bạn có thể buông bỏ ý chí trong khi hành thiền. Càng xuyên qua cái vô ngã, bạn càng dễ định Tâm, và quy trình lắng dịu sẽ càng tự động diễn ra. Tiếp theo, quả vị A La Hán rất dễ dàng thâm nhập vào Định jhāna, rồi ngay cả Tam quả A Na Hàm anāgāmī(9) cũng thiền được mà không gặp khó khăn hay vấn đề gì.
Lắng dịu các hành sankhara và kết thúc mọi sầu đau
Vậy là dần dần, từng chút một, bạn đang làm lắng dịu Tâm và giảm bớt sầu đau. Chừng nào vẫn còn hành saṅkhāra, chừng đó vẫn tồn tại bể khổ. Như được truyền đạt trong điển kinh, “tất cả các hành saṅkhāra đều là sầu khổ” (AN 3:136). Tôi không biết ngay lúc này bạn đang cảm thấy thế nào, nhưng tôi biết đó là sầu khổ. Thậm chí cả khi bạn ngập tràn cảm hứng từ cuốn sách bạn đang đọc, đó vẫn là sầu khổ. Mọi thứ đều là sầu khổ. Nếu bạn có thể lắng dịu mọi thứ thì khi đó mọi sầu đau sẽ biến mất. Khi tất cả biến mất và tan đi, từng giai đoạn một, bạn sẽ cảm nhận đức tin (saddhā) và Tuệ.
Lúc này đây, không phải bạn bắt đầu với rất nhiều đức tin và một ít Tuệ, rồi cuối cùng đạt tới cả khối Tuệ nhưng hầu như không có đức tin. Đúng ra, cả Tuệ lẫn đức tin đều cùng phát triển với nhau. Khi bạn có đức tin và lòng tự tin vào con đường tịnh hóa này, tức là bạn đang tu tập tầng Tuệ, mà khi Tuệ tăng cao thì đức tin cũng càng ngày càng tăng. Khi bạn đạt tới sự chứng đắc thì lòng tự tin tuyệt đối không gì lay chuyển được.
Nhưng đa số mọi người thậm chí còn không có một chút đức tin nào, bởi vì hầu hết họ đều có “bụi trong mắt” (MN 26.21). Nó đặc biệt đúng vào thời đại của chúng ta, khi mà con người đang nuông chiều và quá sung sướng với thế giới vật chất. Thật khó cho chúng ta hiểu sabbasaṅkhārasamatha, lắng dịu ý chí và tất cả mọi thứ tạo nên ý chí – tức là đoạn tuyệt các hành saṅkhāra. Thật khó cho họ hiểu rằng rất đáng bỏ công tu luyện nhắm tới đoạn tuyệt vòng Luân Hồi. Tuy nhiên, với những người đủ bình thản, những người chỉ có ít “bụi trong mắt”, họ có thể thấy đây là con đường duy nhất đi đến hạnh phúc và tự do. Không khởi hành trên con đường này, nghĩa là bạn nếm trải công việc, sự mệt mỏi, bực tức, cực nhọc và rắc rối bất tận – không chỉ một kiếp đời, mà còn kiếp này tới kiếp khác. Đức Phật dạy rằng số nước mắt ta khóc than lớn hơn các đại dương dồn lại (SN 15:3). Ta chết đi nhiều kiếp, nếu đem xương của ta chất lên thì đống xương đó cao hơn núi (SN 15:10). Lượng máu tươi đổ ra khi đầu ta lìa khỏi cổ gom lại cũng nhiều hơn nước mọi đại dương (SN 15:13). Điều này cho ta ý niệm về Tuệ nibbidā – kinh tởm, khiếp sợ – đối với bể khổ bất tận.
May thay, bạn có lối thoát. Khi bạn thực hành thiền, bạn tiệm tiến trên con đường chánh đạo, từng chút một, và lòng tự tin của bạn tăng lên. Hãy nhớ, con đường đó bao hàm bình ổn mọi thứ, lắng dịu mọi thứ. Hãy cắt ra một người lính gác cho mỗi giai đoạn hành thiền. Đừng tự làm ngốc mình khi nghĩ buông bỏ tức là cuộn tròn những mộng tưởng lại rồi vùi vào giấc ngủ sâu đã đời. Không làm gì cả cũng đã là một sự kiềm chế, một sự bảo vệ, một người lính gác, một vệ sĩ. Vệ sĩ gác hộp đêm giỏi nhất chỉ cần đứng đó. Họ không cần hành động, bởi vì chỉ cần sự có mặt của họ thôi đã đủ làm nhụt chí kẻ phá quấy. Tất cả những gì bạn cần làm là chánh niệm – mạnh mẽ, sáng suốt, bảo vệ, chăm sóc – để những trạng thái Tâm không đáng mong ước sẽ không có cơ hội nổi lên. Đồng thời, dần dần đức tin và Tuệ sẽ xuất hiện, cả ý thức về an bình và tự do cũng tăng lên. Bạn sẽ hiểu con đường này và việc hành thiền sâu là con đường dẫn tới Niết Bàn.
Không thể hành thiền tới tầng chứng đắc mà thiếu vắng Định jhāna. Không hề có con đường khác, bởi vì con đường Bát Chánh Đạo là duy nhất. Cách duy nhất là buông bỏ, lắng dịu các hành saṅkhāra và thành tựu Định jhāna. Khi bạn càng trải nghiệm Định jhāna, cuối cùng bạn lắng dịu được mọi hành saṅkhāra, và trong quá trình đó bạn từ bỏ ý thức về cái “tôi” giả tạo, bớt lang thang bất định quanh vòng Luân Hồi. Bạn rũ bỏ mọi sầu khổ và nhắm tới Niết Bàn. Đó là chứng đắc tầng Tuệ, bắt nguồn từ việc bình ổn Tâm. Đó là điều chúng ta làm, và đó là những gì Phật Pháp chỉ giáo.
(8) Trước khi thực hành thiền, chúng ta cần phải giữ giới. Sau khi đã thành tựu thực hành về giới, chúng ta có thể chuyển tiếp hành thiền Samatha để đạt được Định (samādhi) và kế đó là thực hành Minh Sát Tuệ (Vipassanā). Với cách thức này, chúng ta thực hành trọn vẹn ba giáo huấn: Giới (sīla), Định (samādhi), Tuệ (paññā). Lần lượt đề mục này nối tiếp đề mục kia.
(9) Anāgāmī còn gọi là bất lai, nghĩa là không trở lại nữa, xuất hiện nơi vị đã diệt sạch tham và sân. Nhân duyên làm chúng ta cứ bị liên lụy với cõi đời này chính là do tham lam, tham dục, hận thù, ganh ghét. Hết tham và sân thì nhân duyên với thế gian này cũng hết.