9
An lạc bắt nguồn từ sự biến mất
Trong khi Đức Phật truyền giảng bài học đầu tiên, Kinh Chuyển Pháp Luân (SB 56:11), tôn giả A-nhã Kiều Trần Như (Aññā Koṇdañña) chứng đắc A La Hán. Một nội dung thâm hậu của Tạng Kinh này là giải thích triền dốc của sự sầu khổ, mà Đức Phật nhấn mạnh là “phải được hiểu thấu đáo”. Trong số năm đệ tử nghe lời truyền giảng của Ngài, duy chỉ có A-nhã Kiều Trần Như hiểu được đầy đủ. Rất khó biết đầy đủ về bể khổ bởi vì chúng ta tự nhiên có khuynh hướng chống lại thực tế này. Do vậy, tôi nghĩ sẽ dễ trở thành người chứng ngộ Niết Bàn bằng cách tập trung vào vô ngã và nguồn cội của việc chúng ta nghĩ mình là ai.
Tất cả mọi thứ đều có điều kiện
Trong Kinh Chánh Tri Kiến Sammādiṭṭhi Sutta (MN 9), có điển tích về tôn giả Xá Lợi Phất (Sāriputta) bền bỉ truyền giảng về vô ngã. Áp dụng theo khung Tứ Diệu Dế, ngài thuyết pháp mọi khía cạnh của Tâm và Thân, chỉ ra mỗi đối tượng hoàn toàn phụ thuộc vào Nhân như thế nào và giải thích Nhân có thể bị bỏ đi ra sao. Tính phụ thuộc có điều kiện này có nghĩa là tất cả mọi thứ đều có Nhân: không có bản ngã vĩnh hằng hay Thượng Đế, cũng không có gì là vĩnh viễn. Khi bạn thấy tất cả mọi thứ đều có Nhân – nhiên liệu và nền tảng cho chúng đâm chồi nảy lộc – bạn cũng thấy rằng một khi Nhân bị diệt thì sự vật tự nó sẽ biến mất.
Cũng trong Kinh Chánh Tri Kiến, tôn giả Xá Lợi Phất chứng đạt tận nguồn gốc, nguyên căn của sự phụ thuộc, để chứng minh ý thức cũng có Nhân, và nếu không có Nhân sẽ không có ý thức. Đây là chân lý bởi vì nó vận chung cho tất cả mọi người, ngoại trừ các vị A La Hán.
Vô ngã của năm giác quan
Bạn thấy mình không có khả năng buông bỏ trong khi hành thiền. Tại sao bạn không thể bỏ qua cơn ngứa ngáy ở đầu gối? Tại sao bạn không thể dứt ra khỏi tiếng ồn? Tại sao bạn không thể buông bỏ quá khứ và tương lai? Tại sao không ngừng bận tâm? Thay vì cố tĩnh tâm, hãy cố hiểu tại sao Tâm mình không tĩnh? Nhân của sự bất an là gì, nó xuất phát từ đâu? Hãy nhớ, đây là con đường hành trì của Đức Phật, con đường tìm hiểu. Bạn sẽ không thể buông bỏ khi dùng ý chí. Cái gì sinh ra bất an? Dĩ nhiên có nhiều loại Nhân, nhưng nếu bạn tiếp tục tìm hiểu, cuối cùng bạn sẽ thấy tất cả Nhân đều dẫn tới cảm giác về cái “tôi”.
Chúng ta không thể buông bỏ là vì chúng ta đang giữ chặt Thân và Tâm của mình. Chúng ta nghĩ mình sở hữu chúng. Chúng ta không sẵn lòng buông chúng đi giống như người ta không cam lòng cho tên trộm cuỗm mất chiếc ví của mình. Hãy nghĩ xem, sẽ dễ ra sao khi buông bỏ cái gì không thuộc về mình. Nếu cái gì đó không mắc mứu tới bạn thì nó đi, tất cả chỉ thế. Vì vậy nếu bạn không sở hữu ý thức, nếu bạn không nghĩ ý thức là thứ sở hữu quan trọng nhất của mình, bạn sẽ không lo lắng khi ý thức bắt đầu mờ đi trong quá trình hành thiền. Nếu ý thức về âm thanh mờ đi và bạn không nghe thấy bất kỳ cái gì, bạn không có thiên hướng cảnh báo cho Tâm bật thính giác lên. Bạn không thích thú tức là bạn để nó đi. Khi các bộ phận thân thể tan đi và bạn không thể cảm nhận chúng, bạn không quan tâm. Bạn không bật xúc giác lên, bởi vì bạn sẵn sàng tồn tại mà không có nó.
Ban đầu, điều này có nghĩa là ra khỏi vùng an toàn, thoải mái của bạn, bởi vì cách bạn trải nghiệm thế giới thông qua những giác quan không còn sẵn cho bạn nữa. Nhưng bạn sẽ sẵn sàng đi tới đó bởi vì bạn có niềm tin, bởi vì bạn bắt đầu hiểu các giác quan không thuộc về bạn. Bạn càng hiểu rằng Tiền Ngũ Thức (sense-consciousness, ý thức về sự tồn tại của bản thân thông qua các giác quan) không là bạn thì bạn càng ít lo lắng về chúng. Tuy nhiên, nếu chúng ta vẫn nghĩ rằng mình sở hữu chúng, chúng ta đang sử dụng chúng để xây dựng cảm giác về nhân dạng bản thân. Chúng ta nghĩ mình tồn tại thông qua các hành động, như là nhìn và ăn. Cần phải có đức tin, phải qua phép thử và sai, để bóc đi lớp vỏ bên ngoài của cái “tôi”, bao gồm Tiền Ngũ Thức. Khi Tiền Ngũ Thức bắt đầu mờ đi, toàn bộ cảm nhận về sự tồn tại của bản thân thay đổi – chúng ta không còn sống trên trần gian này nữa. Tôi không có ý nói còn sống trên đời tức là lái xe, kinh doanh chứng khoán, xây nhà, làm tình, xem phim. Điều tôi đang nói ở đây là sự sống trong thế giới của năm giác quan: nhìn thấy, cảm nhận, lo lắng về những gì người ta nói, hoặc quan tâm đến vật chất.
Tôi nhấn mạnh điểm này bởi vì nếu bạn có thể thấy bạn không phải là Tiền Ngũ Thức, và chúng chẳng có gì liên quan đến bạn, thế thì rõ ràng chúng không nằm dưới tầm kiểm soát của bạn. Quá nhiều người mất cả đời để cố bảo đảm mình không trông thấy gì xấu, không nghe thấy lời chói tai hay bài phát biểu ngông cuồng, hoặc không trải qua đau đớn. Họ đi bác sĩ, uống aspirin và tiêm morphine, hay làm bất cứ thứ gì để tránh cho thân thể khỏi đau đớn, nhưng họ không bao giờ thành công. Nhân của tuổi già, bệnh tật, cái chết là sinh. Bạn sinh ra, vậy là bạn đã mắc nạn – bạn sẽ phải chịu đau đớn, tuổi già, bệnh tật, suy yếu và chết. Vì bạn không thể trốn thoát khỏi những thứ này nên bạn cần chấp nhận chúng và từ bỏ đấu tranh.
Khi bạn hiểu rằng các giác quan không liên quan gì đến bạn, rất tự nhiên bạn thôi lo lắng, quan tâm đến chúng và cho phép chúng biến mất – cho dù đó là vết thương đau đớn. Làm thế nào để bạn trải qua cơn đau đớn tột cùng mà vẫn mỉm cười? Nếu các giác quan không liên quan đến bạn, thì cơn đau đớn cũng thế. Nếu cơn đau không liên quan đến bạn thì nó chẳng quan trọng đối với bạn, bạn đơn giản cứ phớt lờ nó. Bạn chỉ quan tâm đến những gì bạn nghĩ là quan trọng.
Thật tuyệt diệu khi ngẫm nghĩ xem cái gì là quan trọng đối với con người. Họ xem bóng đá hay xem phim trên ti vi trong lúc đang ăn tối, thế nhưng họ lại không để ý xem những món mình đang ăn có hương vị gì. Ấy là do món ăn không quan trọng đối với họ; bởi vì họ nghĩ trận bóng đá hay bộ phim mới quan trọng. Có khi họ thậm chí còn không biết mình đang ăn cái gì. Liệu bạn có thể nhìn hơi thở một cách tập trung trong khi ăn mà không biết mình đang ăn cái gì hay không? Liệu bạn có thể thiền về Tam Pháp Ấn (khổ, vô thường, vô ngã) đến mức bạn thậm chí không chú ý đến vị của thức ăn? Lý do bạn nhận ra vị thức ăn là bởi vì bạn nghĩ nó quan trọng. Lý do nó quan trọng đối với bạn đó là: những trải nghiệm từ các giác quan xây dựng nên cảm nhận về bản thân, cảm nhận về nhân dạng, cảm nhận về sự tồn tại. Nhưng khi tu luyện theo con đường của Đức Phật, bạn sẽ đi theo hướng ngược lại. Khi thiền và thấu đạt những giáo huấn Kinh Chánh Tri Kiến Sammādiṭṭhi Sutta (MN 9) hoặc Kinh Vô Ngã Tướng Anattalakkhaṇa Sutta, bạn sẽ nhìn sự vật theo một cách hoàn toàn khác. Năm giác quan chẳng có việc gì liên quan đến bạn. Chúng được bật lên bởi các Nhân, điều đó có nghĩa là chúng cũng có thể được tắt đi khi những Nhân đó bị xóa bỏ. Khi chúng tắt thì chẳng còn là thỏa hiệp béo bở – bạn không quan tâm. Bạn không bật chúng lên lại, mà chỉ buông bỏ chúng đi.
Khi năm giác quan biến mất trong một khoảng thời gian nhất định, bạn đã nhập vào Định jhāna. Theo pháp hành bằng tiếng Pali, bậc thiền jhāna đầu tiên bao gồm giai đoạn vivicc’eva kāmehi (ly dục) – tách biệt, xa cách và thoát ly khỏi hoạt động của năm giác quan. Bạn không thể cảm nhận thân thể bởi vì Tâm ở xa vượt tầm với của năm giác quan trong khoảng thời gian chứng đạt Định jhāna. Bạn thấy rằng năm giác quan không phải là bạn, đó là sự chứng ngộ quan trọng cho bạn bắt đầu thấm nhuần bài học của Đức Phật về vô ngã. Nếu bạn chưa trải nghiệm một Định jhāna nào, nếu bạn không thể đạt tới bậc thiền đó, hãy tự hỏi tại sao. Nhân của sự dính kết là gì? Nhân của sự quan tâm của bạn tới thân thể bạn, tới âm thanh, tới cảm giác, ảo giác, mơ màng và tự thoại nội tâm là gì? Hãy tự nhắc nhở mình rằng những thứ này nằm trong vương quốc của năm giác quan, vì thế không có gì dính líu tới bạn. Ý thức từ năm giác quan, Tiền Ngũ Thức, vẫn tiếp diễn là do những Nhân này, và một trong những Nhân chính yếu của nó là mối quan tâm và sự tham gia của bạn vào đó, nói cách khác, vào sự gắn kết, ràng buộc. Hãy cắt nó đi và buông nó ra.
Hãy ghi nhớ rằng sự gắn kết giống như một sợi dây thừng: một đầu buộc vào những thứ bạn nối kết, nhưng đầu kia lại neo vào nơi nó bắt nguồn. Khi chúng ta nói đến sự ràng buộc, chúng ta thường nói mình bị ràng buộc vào thức ăn, tình dục, phim ảnh, hay ngủ, nhưng chúng ta quên mất cái gì thật sự buộc vào những thứ đó. Cái gì ở cuối đầu dây thừng này? Đó là nhân dạng của bạn – thông qua sự vật, hiện tượng. Vấn đề là cái “tôi” bên trong: tôi cần ngủ, tôi cần đọc sách, tôi cần nghe đài, tôi cần… Bạn hành thiền không sâu là bởi vì cái “tôi” đang nối buộc vào Tiền Ngũ Thức.
Thành công trong hành thiền không chỉ là quan sát hơi thở hết giờ này sang giờ khác, tìm kiếm nơi yên tĩnh trong rừng, kiểm soát nhiệt độ trong phòng, hoặc ngủ đúng chừng mực. Các điều kiện thân thể có thể hoàn hảo, nhưng thế chưa đủ, còn cần thứ khác nữa. Thứ khác đó là sự hiểu biết thông suốt rằng ý thức năm giác quan không liên quan đến bạn. Khi bạn thấy chúng không phải là việc của bạn, bạn ngừng chơi với chúng, sau đó bạn bỏ chúng và nhìn chúng tan đi. Khi chúng tan đi, bạn đạt tới sự chứng ngộ quan trọng: niềm an lạc của Định jhāna nổi lên bởi vì cả bể khổ – năm giác quan – đã biến mất.
Buông bỏ tâm thức
Bước tiếp theo là theo dõi Tâm, xem nó là cái gì. Đây là bước rất quan trọng, bởi vì nhiều người bị kẹt luôn ở tầng này. Cũng hệt như với những dạng ý thức khác, Nhân của loại ý thức thứ sáu – tâm thức – là nāmarupa (danh sắc). Về cơ bản, danh sắc nāmarupa là đối tượng của ý thức, bởi vì ý thức cảm nhận được những cảm xúc, linh cảm và ý chí. Danh sắc nāmarupa và ý thức tựa lẫn vào nhau; nếu bạn lấy đi một thứ, bạn lấy mất giá đỡ của cái kia, do đó nó cũng biến mất luôn. Ý thức không hề tồn tại một mình, không cảm nhận được bất kỳ thứ gì, nếu danh sắc nāmarupa biến mất thì ý thức cũng biến mất. Đây là điều mà bạn bắt đầu thấy khi nhập sâu vào tới Định jhāna. Khi bạn chứng đắc điều này, bạn không còn bị kẹt ở Định jhāna đầu tiên nữa, bởi vì bạn biết rằng ngay cả tâm thức cũng chẳng có gì liên quan đến bạn.
Tôn giả Xá Lợi Phất răn dạy trong Kinh Chánh Tri Kiến Sammādiṭṭhi Sutta rằng ý thức là giác quan thứ sáu; nó có Nhân sinh ra, do đó nó có thể hoàn toàn ngưng tồn tại (MN 9.58). Ngài cũng chỉ dạy phương cách ngừng ý thức – đó là con đường pháp hành Bát Chánh Đạo. Vì vậy, tận diệt bể khổ bao gồm tận diệt ý thức. Nhờ thuyết dạy điều này, tôn giả Xá Lợi Phất được liệt vào hàng ngũ những đệ tử sáng thế của Đức Phật, truyền dạy tinh hoa Phật Pháp. Đây chính là ý nghĩa của việc mất đi các giác quan – giống như người phụ nữ đã nhập khóa tu thiền của tôi cách đây nhiều năm, đã mất đi ý thức về đôi bàn tay của mình. Thật sự, mất đi ý thức, đó là đi đến cùng của tận diệt. Tuy nhiên, như Đức Phật răn dạy, đây mới chỉ là một phần, một gói của sự đoạn diệt bể khổ. Nó khiến chúng ta ngồi thẳng, chí thú đón nhận từng nội dung thâm thúy của Ngài.
Không chỉ chấm dứt ý thức, mà cả cảm xúc và những yếu tố khởi thủy phụ thuộc cũng chấm dứt luôn. Đức Phật truyền rằng nếu ta tu luyện con đường Bát Chánh Đạo, nó sẽ dẫn tới đoạn tuyệt tất cả cảm xúc, đau đớn, niềm vui, thậm chí cả những cảm xúc trung tính hay trạng thái bình thản. Rõ ràng, mục tiêu của Phật Pháp không phải là đạt đến trạng thái an lạc đời đời, mà là nhập diệt hay nhập Niết Bàn trọn vẹn, parinibbāna. Có thể bạn nghĩ mục tiêu như vậy là quá tham vọng, nhưng điểm cốt yếu là bạn không mất bất kỳ cái gì – không hề có “ta” ngay từ đầu. Toàn bộ ảo tưởng về “ta” – ta sở hữu những cảm xúc, ta làm điều này điều nọ, ta là trung tâm của kiếp sống này – bây giờ được hiểu súc tích là quy trình Nhân - Quả. Ta đang trải nghiệm bằng trạng thái Tâm cụ thể nhất - rằng không có ai ở đây, và ta an lạc trên con đường đi tới Niết Bàn.
Bể khổ là vấn đề
Đa số mọi người nghĩ rằng kết thúc ý thức giống như một kiểu tự sát tinh thần. Nhưng điểm mấu chốt là nếu bạn không làm thế, bạn sẽ phải chịu sầu khổ như rơi vào địa ngục. Bạn có sự lựa chọn: tiếp tục sầu khổ hay tu luyện để đạt tới nhập diệt parinibbāna. Khi bạn hiểu Tứ Diệu Đế cùng sự tồn tại cố hữu của bể khổ, thì bạn thấy nhập diệt parinibbāna thật sự là lựa chọn duy nhất.
Khi sầu đau hiển hiện thì sẽ sinh ra khát khao (tham). Sầu khổ là vấn đề mà chúng ta cấp bách bị thúc giục phải làm gì đó với nó, khiến chúng ta phải chuyển động – từ nơi này tới nơi khác, từ người thường cho tới nhà tu hành, rồi từ nhà tu hành cho tới người thường đều phải vậy. Bể khổ khiến cho thế giới xoay vần – nếu bạn không sầu khổ, nếu bạn hoàn toàn hài lòng, bạn không cần phải chuyển động. Chính vì thế mà càng hài lòng và hạnh phúc, bạn càng tĩnh tại. Lý do khiến cho các Định jhāna là những trạng thái Tâm an tịnh khác nhau là chúng quá hạnh phúc đến nỗi không cần chuyển động, không cần tìm kiếm hạnh phúc ở đâu khác. Mức độ chuyển động thân thể hay tinh thần của bạn là dấu hiệu cho thấy bạn đang nếm trải sầu đau tới mức nào. Bạn càng có nhiều nỗi sầu khổ thì trong khi hành thiền, bạn càng cảm nhận nhiều nỗi bất an. Nếu không có sầu đau, hoặc sầu đau ít thôi, bạn có thể ngồi hàng giờ, yên bình và tĩnh tại. Vì sao lại thế? Bởi vì khi không có vấn đề, bạn không có gì để làm cả.
Vì vậy, sầu khổ là đối tượng bắt bạn cứ dịch chuyển từ nơi này tới nơi khác, từ kiếp này qua kiếp khác nhằm cố tìm một giải pháp. Cố tìm giải pháp cho sầu khổ là ý nghĩa của cuộc sống, nhưng không thể nào tìm thấy được mốc cuối của sầu khổ trong thế giới, hay trong vòng Luân Hồi. Không có vương quốc thiên đàng nơi mà bạn sống hạnh phúc mãi mãi; và nếu bạn nghĩ về nó, bạn sẽ nhận ra rằng thiên đàng thật ra không tồn tại. Lấy ví dụ về việc thưởng thức sơn hào hải vị, hay thậm chí đạt đến cực khoái trong tình dục, nếu bạn nghiện nó thì sau một thời gian bạn sẽ chán. Đó chỉ là những thứ như cũ lặp đi lặp lại. Bạn không thể có niềm vui vĩnh cửu, bởi vì bất kỳ niềm vui nào, bất kỳ niềm hạnh phúc nào cũng đều phụ thuộc vào những gì đến trước đó. Nếu bạn chiêm nghiệm xem niềm vui là gì, bạn sẽ thấy nó chỉ là khoảng dừng giữa hai sự kiện sầu khổ. Lý do bạn thưởng thức đồ ăn ngon là bởi vì bạn chưa ăn trong một thời gian, và bạn sẽ không ăn sau đó. Nếu bạn liên tục nhồi nhét đồ ăn suốt 24 tiếng một ngày, liệu bạn có nếm được món ngon hay không, huống hồ là thưởng thức nó? Một thiên đường hạnh phúc kéo dài mãi mãi sẽ không xảy ra, bởi vì bạn chỉ có thể biết đến niềm vui khi bạn trông thấy viễn cảnh sầu đau. Nói cách khác, không bao giờ có sự hài lòng, thỏa mãn tuyệt đối, vĩnh cửu trên thế giới này.
Nếu bạn hỏi người ta xem họ có thật sự thỏa mãn hay không, đừng tin vào câu trả lời của họ. Bạn hãy tự tìm hiểu: Liệu họ có thật sự tìm thấy điểm chấm dứt sầu đau, hay là họ chỉ tạm gác chúng qua một bên? Tôi thấy người ta ốm, người ta chết, người ta gặp hoàn cảnh éo le. Tôi cũng thấy người ta hạnh phúc, nhưng tôi biết niềm hạnh phúc đó chỉ là điểm dừng giữa hai sự kiện đau khổ. Rốt cuộc, rồi họ cũng lâm bệnh mà chết. Những cặp vợ chồng hạnh phúc mặn nồng một thời gian, rồi họ cũng đến giai đoạn cãi nhau, hoặc giai đoạn ly dị, kèm theo là sự bực bội, tức giận, trầm cảm. Có những người có tuổi thơ êm đềm, nhưng sau đó lại hoàn toàn khác. Những người khác có tuổi thơ ngục tù, nhưng sang kiếp sau họ có cha mẹ cũng xấu tương tự hoặc tệ hơn. Kiểu hình dung này có lẽ đã đủ để khiến bạn sợ bị tái sinh. Bạn thông minh và tạo Nghiệp tốt trong kiếp đời này không có nghĩa là bạn sẽ tự do thoát khỏi bể khổ trong những kiếp đời sau. Mọi người đều tích lũy cả Nghiệp xấu lẫn Nghiệp tốt, tương lai luôn luôn bất định.
Một trong những bài giảng hay nhất của Đức Phật là ví von về cây gậy (SN 15:9, 56:33). Lần đầu đọc nó, tôi đã run lên vì sợ hãi. Tích này nhấn mạnh điểm chín rụng của Nghiệp vào lúc lìa đời; nó bất định hệt như phải chờ xem đầu gậy nào sẽ chạm đất đầu tiên sau khi bị tung lên không trung. Cây gậy có đầu nặng đầu nhẹ, và thông thường đầu nặng có khuynh hướng rơi xuống trước. Nhưng cho dù nặng thế nào chăng nữa thì vẫn luôn có cơ hội cho đầu nhẹ chạm đất trước. Tương tự, nếu bạn tạo nhiều Nghiệp tốt, rộng lượng, tử tế, từ bi, luôn tuân thủ giáo huấn, luôn giữ Tâm thuần khiết và tu luyện hành thiền, luôn có khả năng Nghiệp xấu chín muồi ngay lúc chết. Tất cả mọi người đều tích Nghiệp xấu – nếu không từ kiếp đời này thì cũng từ nhiều kiếp trước. Thậm chí, cho dù Nghiệp xấu của bạn không chín muồi khi bạn chết ở kiếp này, vì vẫn còn vòng Luân Hồi, bạn vẫn phải trải nghiệm sầu đau khủng khiếp trong địa ngục, trong lãnh địa thú dữ, và trong những hoàn cảnh khó khăn khi vào kiếp người. Bạn chỉ an toàn khi bạn đi xuyên qua vô ngã hoàn toàn, và trở thành quả vị đắc ngộ.
Ý thức về cái “tôi” là gốc rễ của vấn đề
Vòng Luân Hồi thật đáng sợ. Bạn không thể phí phạm thời gian – bạn không thể xáo trộn, lẩn quẩn. Ý niệm trở lại thế giới trần tục khi bạn đã bắt đầu buông bỏ là hoàn toàn điên rồ, đặc biệt là khi đã quy y mà quay đầu lại thì càng điên. Điều duy nhất hợp lẽ cần phải làm là trụ lại trên đạo lộ pháp hành và chí thú tu thiền. Mục tiêu không hề nhằm chứng đạt Định jhāna hoặc trở nên an tịnh, mặc dù đó là phần chính. Thật sự là ta cần thăm dò để hiểu xem bên trong con người mình thật ra là ai, hoặc là cái gì. Cái gì luôn tạo ra sự kích động, luôn đến rồi đi? Cái gì bức bối? Cái gì đang suy nghĩ? Cái gì nổi giận? Cái gì tức tối? Nguồn tiếp liệu của cái này là gì? Ý chí xuất phát từ đâu khi “tôi” ra quyết định chọn lựa thứ gì đó? Khi Tâm lay động và vươn ra đòi cái gì đó, thật sự cái gì đang vươn ra? Bạn càng vận dụng sự thông hiểu và Tâm định mà bạn đã rèn được trong hành thiền để giám sát quy trình đó, thì nó càng trở nên rõ ràng.
Hãy cẩn thận, đừng nhìn ra ngoài, nhìn đi đâu đó, mà hãy nhìn vào ngay đây, tại chỗ bạn bị buộc vào, chứ không phải tại chỗ bắt nguồn sự nối buộc, cũng không phải vào cái gì thực hiện sự nối buộc. Hãy nhìn vào nơi sự vật khởi sinh, và đặc biệt tập trung vào những mối quan hệ Nhân - Quả. Dòng suy nghĩ bắt nguồn từ đâu? Cứ nhìn tiếp, bạn sẽ thấy rằng chúng bắt nguồn từ ý thức về nhân dạng và khao khát muốn tô điểm, xây dựng hình ảnh nhân dạng đó. Không phải cứ “Tôi suy nghĩ, tức là tôi tồn tại”, mà nó là một vòng xoáy khác “Bạn muốn tồn tại, cho nên bạn suy nghĩ”. Bạn chuyển động để sáng tạo ra thế giới của bạn, nhân dạng của bạn.
Khi bạn tạo ra cái gì đó, ban đầu nó rất đẹp, nhưng giống như trong các câu chuyện cổ tích, cuối cùng tất cả các đối tượng được kiến tạo đều quay lưng chống lại người tạo ra nó. Tôi đã tận lòng dốc sức để xây nên tu viện Bodhinyana, nếu bạn thích, đó là sáng tạo của tôi. Nhưng nếu tôi không cẩn thận, tu viện do tôi sáng lập này rốt cuộc rất có thể thống trị tôi – đêm ngày tôi lo lắng và suy tư về tu viện. Nếu bạn tìm một cộng sự và làm cho anh ta trở thành bạn, đầu tiên bạn nghĩ bạn sở hữu anh ta, nhưng sau một thời gian bạn nhận thấy chính anh ta sở hữu bạn. Khi bạn mất đi quyền lực và sự tự do, đối tượng bạn sáng tạo biến thành con quỷ ăn thịt bạn. Khi bạn trở nên bình tĩnh và an ổn, Tâm trở nên bằng phẳng, không có nhu cầu phát sinh ra ý thức về nhân dạng. Bạn bình ổn sự vật bằng cách dỗ yên sự sáng tạo. Khi tham (khao khát, ý chí và chọn lựa) tan đi và biến mất, sự kích động cũng biến mất.
Nếu bạn muốn an lạc đúng nghĩa, hãy biến mất
Mỗi năm tôi đều đi dự lễ trao giải Curtin Medal Awards. Tôi vốn rất thích những buổi lễ trao giải – ta được nghe kể những câu chuyện truyền cảm hứng về những người đã phục vụ và cống hiến cho cộng đồng. Cách đây vài năm, đến lượt chính tôi được trao tặng huy chương. Tôi nhận ra rằng, với tư cách là một nhà sư, khi ta càng biến mất thì ta càng được nhận ra và được trao giải thưởng. Nhưng vì ta đang biến mất cho nên chẳng có chỗ nào để gắn huy chương cả. Người ta cố gài kim vào nhưng nó cứ trôi tuột đi; nó không dính lại bởi vì không có chỗ nào để cài cho dính.
Khi bạn tu luyện, bạn đang từ từ biến mất. Nếu bạn hiểu ý tưởng tan đi và biến mất – tức là Tâm định và an ổn – bạn đang bắt đầu hiểu về vô ngã. Bạn càng tĩnh lặng, bạn càng ít tồn tại – càng có ít cảm nhận về cái “tôi”, về sự tồn tại. Điều này có vẻ đáng sợ, nhưng thật ra nó rất đẹp. Thực tế nó là niềm hạnh phúc thật sự duy nhất, bởi vì bạn càng buông bỏ cảm nhận về cái “tôi”, bạn càng tự do thoát khỏi bể khổ ở dưới bất kỳ dạng thức nào. Chính khuynh hướng tự do thoát khỏi bể khổ sẽ dẫn bạn đi sâu hơn vào con đường hành thiền. Có khi phải mất nhiều năm, có khi chỉ vài năm, nhưng cuối cùng việc hợp lý nhất cần làm là hãy kiên nhẫn, ở lại trên con đường, và tìm thấy niềm hạnh phúc trong sự biến mất.
Trong cuộc sống tu hành, một phần của sự biến mất đó là mặc cùng loại áo cà sa và cùng xuống tóc. Chúng tôi không có bất kỳ vật tượng trưng nào để mặc định nhà sư này khác với nhà sư kia. Nếu tôi không đứng ở đầu hàng thì không ai biết tôi là nhà sư bề trên. Chúng tôi cũng cần giữ im lặng. Tại sao người ta nói? Người ta nói để đánh tiếng: “Tôi ở đây này”. Nhờ im lặng, chúng tôi biến mất, hòa tan vào khung cảnh, cho đến khi hầu như không ai biết chúng tôi ở đó, kể cả bản thân chúng tôi. Bạn càng biến mất, bạn càng hạnh phúc. Bạn càng tan đi, bạn càng trải nghiệm niềm an vui. Bạn càng ít tồn tại, bạn càng cảm thấy sung sướng, an lạc. Nội dung này phản ảnh cốt tinh của giáo huấn Phật Pháp. Nhưng từ ngữ thuyết giảng chẳng có trọng lượng gì so với tính sâu sắc của trải nghiệm.
Làm lắng dịu ý chí hoàn toàn
Cuối cùng, bạn đạt tới sự tĩnh tại đến mức Tâm không hề lay động, và bạn trải nghiệm niềm an lạc do không bị ý chí kiểm soát hay làm phiền. Từ những trải nghiệm này, nhất là ở tầng Định jhāna thứ hai, bạn thấy rõ rằng cái mà chúng ta gọi là “ý chí” hoặc “sự lựa chọn” là một tên đồ tể, giống như kẻ quất roi vào bạn, đốt bạn và nhổ móng tay bạn. Nhưng đa số chúng ta đều nâng niu ý chí – chúng ta muốn tự do lựa chọn; chúng ta muốn làm theo khát khao của mình. Chúng ta không nhận ra mình đang bị lừa dối bởi ý thức về cái “tôi”.
Thật tuyệt vời khi ngồi trong cái am, túp lều, hay căn phòng của bạn và không muốn bất kỳ thứ gì hết. Nếu có ai đó hỏi liệu bạn có cần thứ gì đó hay không, bạn không quan tâm. Hãy tưởng tượng bạn gặp một vị thần trong chai, và vị thần này đồng ý ban cho bạn ba điều ước. Hoàn toàn thành thật, bạn nói: “Không, xin cảm ơn”. Nếu điều đó xảy ra, bạn đã tiến tới tự do khỏi những khao khát (tham). Sự tự do đó là trạng thái Tâm rất đẹp. Trong suốt khóa tu thiền, có lẽ bạn thấy chính bạn đang ngồi trong phòng, hoặc đang đi bộ trên con đường thiền, và không muốn ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới này. Cảm giác đó mới dễ chịu làm sao. Cảm giác đó là kết quả của tự do, không ao ước gì cả; bạn không cần gì hết; bạn không cảm thấy thiếu thốn. Khi khát khao biến mất, trạng thái hoàn hảo nổi lên.
Bạn thấy rằng khao khát và tác ý (cetanā), tức ý chí, là phần hiển hiện của bể khổ. Ý chí là tên đồ tể giằng xé bạn tới lui, xoay bạn mòng mòng. Đôi khi con người cố ngăn chặn ý chí, cố chặn dòng suy nghĩ. Nhưng chính hành động cố chặn đó lại khuyến khích và kích động thêm cho ý chí. Cố dập tắt ý chí chỉ gây ra thêm nhiều xáo động và ngăn Tâm định, không cho sự an hòa và thiền đích thực diễn ra.
Bạn phải cực khổ thực hiện những bổn phận của mình trên trần đời. Bạn càng tránh, không làm gì cả, không có bổn phận gì hết càng tốt. Có thể bạn nghĩ như thế là lười biếng, nhưng chừng nào bạn vẫn còn làm gì đó thì chừng ấy bạn chưa thật sự hiểu “lười biếng” có nghĩa là gì? “Lười biếng” thật sự, nghỉ ngơi thật sự không phải là thân thể bạn nằm trên giường, mà là Tâm của bạn nằm xuống, chẳng làm gì, chẳng sáng tạo cái gì – ý chí của Tâm đã im lặng và dừng lại. Khi bạn trải qua điều đó, bạn biết rằng “lười biếng” thật sự là sự tĩnh tại của Tâm, là những tầng Định jhāna thâm sâu, nơi không có chuyển động mỗi lúc kéo dài hàng giờ. Đây là những trạng thái lạ thường, tới 99% cảm nhận về cái “tôi” biến mất, nơi đó có một tảng đá rắn chắc, một sự an định không thể lay chuyển. Tiếp sau đó, khi bạn tỉnh thức, bạn nhận ra vừa rồi ý chí đã im lặng, bởi vì chỉ khi ý chí lắng dịu hoàn toàn thì mới không có sự chuyển động. Khi không có sự chuyển động, đó là trạng thái an lạc siêu thế – rất thâm trầm, rất tự do. Bạn hiểu ra rằng ý chí là tên đồ tể chuyên đi ngăn chặn hạnh phúc và yên bình.
Trải nghiệm đầy đủ cái vô ngã
Có hai thành lũy ảo tưởng về cái “tôi”: tự xem mình là “người làm”, và tự xem mình là “người biết”. Hầu hết mọi người nghĩ và làm những việc mà họ thông thạo, có thể kiểm soát hoàn toàn. Nhưng khi bạn tu luyện pháp hành Bát Chánh Đạo, bạn thấy rằng cố gắng kiểm soát dù là những lĩnh vực mình thông thạo chỉ gây thêm đau đớn, khó khăn và sầu khổ. Sau một thời gian, bạn nhận ra không có hy vọng tìm được sự hài lòng trên lộ trình kiểm soát sự vật, hiện tượng.
Khi bạn bắt đầu trân trọng những giáo huấn này, bạn bị kéo đi một hướng hoàn toàn khác. Ý chí bắt đầu biến mất và bạn cảm thấy dễ chịu vô cùng, các giác quan mờ đi. Bạn đang đi trên con đường Phật Pháp, con đường mà Đức Thế Tôn đã đi qua. Khi có thêm nhiều thứ biến mất, bạn hiểu rằng bạn chẳng hề sở hữu chúng ngay từ đầu. Bạn hiểu khao khát là Nhân gây ra bể khổ, không phải là lối thoát; việc bạn cố kiểm soát thế giới là Nhân gây nên sầu khổ, không phải giải pháp. Bạn từ bỏ sự kiểm soát, bản ngã phai đi, ý thức về cái “tôi” biến mất, sự vật trở nên tĩnh tại và bạn biến mất. Cuối cùng còn lại an bình. Ôi hạnh phúc làm sao! Bạn đã hiểu được cái vô ngã.
Nếu bạn thật sự hiểu cái vô ngã, bạn có thể tự gọi mình đã đắc quả A La Hán. Bạn biết ý chí không là gì với bạn cả, cả Tiền Ngũ Thức và tâm thức cũng vậy. Bạn không khao khát trải nghiệm điều này điều nọ, đi tới nơi này nơi kia.
Tại sao bạn muốn có thêm nhiều trải nghiệm? Nếu bạn muốn thấy một khu rừng, hãy nhìn cây cối từ bên ngoài. Cây là cây, thế thôi. Vậy mấu chốt là gì? Gần đây, có người chỉ cho tôi xem một bức hình cũ chụp mấy cô gái đã phụ lòng tôi hồi tôi còn trẻ. Bây giờ trông họ già nhăn nheo, trang phục họ mặc cũng đã thay đổi. Cách đây khá lâu tôi xem một tấm hình chụp đám cưới ông bà nội tôi. Bà tôi mặc bộ váy gợi cảm, nhưng so với ngày nay thì nó chẳng mảy may lay động cảm xúc của ai. Tất cả chỉ là phản xạ có điều kiện, nó không thật. Vì vậy, đừng đuổi theo những gì người khác nói và làm – đừng nổi loạn. Hãy tự tìm kiếm xem bạn là ai và niềm hạnh phúc thật sự là gì.
Giáo huấn Phật Pháp chỉ ra rằng những gì người bình thường nói là hạnh phúc, cao quý, chứng ngộ thì đều là khổ đau. Những gì các bậc thánh nhân cho là hạnh phúc thì người thường lấy làm đau khổ (Sn. 762). Niềm hạnh phúc của những bậc thánh nhân là sự an lành, Tâm định, và dứt bỏ. Lấy cuộc sống tu hành làm ví dụ. Bạn thức dậy sớm, ăn một hoặc hai bữa mỗi ngày, không hành dục, không xem ti vi, không xem phim. Khi có người hỏi tại sao phải làm như vậy, câu trả lời chính xác là tại vì hạnh phúc. Trải qua hai ngày, ba tuần hay sáu tháng một mình trong am, không hề nói chuyện với bất kỳ ai, thế thì sẽ bị xem là giam mình trong ngục tù. Nhưng những gì người trần cho là hình phạt thì những quả vị A La Hán gọi là hồng phúc. Nếu bạn nhìn xa trông rộng về người chứng ngộ Niết Bàn, bạn sẽ có cái nhìn hoàn toàn khác về cuộc sống: đó là góc nhìn của Phật Pháp.
Một khi bạn thấy mình không có nhân lõi, thế thì không có gì cho bạn nắm giữ, bấu víu để tạo thành cái “tôi”. Bởi vì bạn đã nhận thấy sự thèm khát (tham) chỉ là nguồn gốc cho ý thức về cái “tôi”, bạn sẽ không còn thấy khó bình định ý chí nữa. Khi bạn lắng dịu được ý chí thì an bình nổi lên. Lắng dịu ý chí vĩnh viễn là một cách khác để mô tả về Niết Bàn. Phật Pháp chỉ dạy rằng có rất ít người trên thế giới có thể hiểu cặn kẽ sự lắng dịu ý chí hoàn toàn. Bạn chỉ việc xa lánh đám đông, tìm nơi quy ẩn, chỉ việc ngồi xuống và không làm gì cả, buông bỏ mọi khao khát, hãy an bình. Khi bạn làm thế, bạn trông thấy đạo lộ nơi mà các giác quan mờ đi. Khi bạn ở ẩn, không có gì nhiều để mà ý thức, không có gì để mà khát khao. Bạn chỉ còn ít ước ao, không đòi hỏi gì ở thiên nhiên, là người hầu như chẳng để lại dấu chân trên trần đời. Để lại dấu chân thông qua khao khát và ước muốn không phải là cách bạn bước đi trên đạo lộ này; thật ra bạn đang buông bỏ, bạn đang biến mất.
Rồi sẽ tới thời điểm bạn biến mất hoàn toàn. Khi bạn có nhận thức bao hàm, rằng bạn chỉ là một quy trình trống rỗng, khi đó bạn từ bỏ mọi sự gắn kết với ý chí và ý thức. Không còn gì ở đó; không có gì tái sinh. Bạn biết hạt giống cho sự tái sinh đã bị phá hủy. Như được truyền dạy trong Kinh Tam Bảo Ratana Sutta, “hạt giống đã bị diệt, không còn gì mới được tạo ra nữa” (Sn. 235). Đây là sự trải nghiệm Niết Bàn, sự giải thoát và yên bình tột cùng.
Vì vậy, hãy quay Tâm của bạn khỏi thế giới, đó là điều kiện cho cả bạn cũng được tự do. Như Ajahn Chah đã từng nói, đi loanh quanh trên trần thế tìm hạnh phúc thì giống hệt như truy tìm con rùa có ria mép. Thật là vô ích. Nếu bạn buông bỏ, bạn có thể tĩnh tại, an bình ở bất kỳ nơi đâu, bất kỳ lúc nào. Bạn không sợ Tâm định, nên Tâm định sẽ xuất hiện. Bạn không sợ biến mất, nên bạn an bình và tự do. Đây là cách nhận ra cái vô ngã, cách buông bỏ mọi thứ, cách tận diệt bể khổ.