• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Hành trình của hổ
  3. Trang 16

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 30
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 30
  • Sau

13Nàng tằm

K

hi chúng tôi đã tiếp tục hành trình, tôi đi lên buồng lái để hỏi thăm thuyền trưởng.

“À, chào cô, cô Kelsey. Tối lay cô mạnh giỏi chứ, hể?” “Chào bác, Thuyền trưởng Dixon.”

“Gọi tui là Dix.”

Tôi cười vang. “Được ạ, bác Dix, bác Kadam nói cháu mang bữa tối lên cho bác vì bác không có thời gian ăn tối nay.”

Ông mỉm cười và thoáng liếc tôi, rồi quay lại nhìn qua cửa sổ buồng lái. “Cô cứ để đằng đó, là được rồi.”

Tôi đặt khay thức ăn xuống, tỳ hông vào bàn điều khiển và lặng lẽ quan sát ông làm việc.

Ông ngó tôi qua khóe mắt. “Lói không phải, nâu rồi mới thấy cô thoải mái vậy.”

Tôi gật đầu. “Cháu khá hơn nhiều. Kishan chăm sóc cháu chu đáo, và cuối cùng chúng ta cũng thoát khỏi ả phù thủy đại dương kia.”

“Và khi cô ta xuống khỏi thuyền tui cũng vui quá vui.” Tôi cười vang. “Cháu nghe nói bác cấm cô ta vào buồng lái.” “Cô ta cứ đến nàm phiền tui cả ngày cả đêm. Cô ta cứ kêu nà cô ta say sóng lài lọ và cảm thấy tồi tệ.” Ông điều khiển vài thiết bị rồi nhón thức ăn trong khay. “Cô vui nòng bầu bạn với chó biển già lày trong lúc tui ăn tối chớ?”

“Tất nhiên ạ.”

Ông ngồi sâu vào chiếc ghế thuyền trưởng và thở dài. “Mỗi nần tui đặt cái thân già lày vào ghế là mỗi nần thêm khó nhấc mình lên.”

Tôi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh ông. “Một chiếc ghế tử tế đáng giá bằng cả khối vàng có trọng lượng đúng bằng chiếc ghế, mẹ cháu vẫn bảo thế.”

Ông cười hiền. “Phải đó. Khối ông già thà được ngồi cái ghế tử tế còn hơn nà giàu có.”

“Còn bao lâu nữa mới tới điểm tiếp theo ạ?”

Ông nuốt miếng thức ăn rồi nói. “Tui mong nà chúng ta không dừng nại nữa. Ít nhứt nà không có đón thêm ai. Kế hoạch nà đi thẳng tới Đền Bờ. Chúng ta sẽ đi quãng một tuần gì đó.”

Chúng tôi chuyện trò thoải mái cho tới khi ông đặt khay thức ăn xuống. Ông kiểm tra các thiết bị và nói. “Hôm lay cô có muốn nghe một câu chuyện huyên thuyên khác về biển cả không cô Kelsey?”

“Bác có câu chuyện khác ư?”

“Ngày lào mà thuyền trưởng tui không còn chuyện để kể thì ngày đó tui xin bỏ mũ áo về vườn.”

Tôi nhoẻn cười, bắt tréo chân ngồi thoải mái. “Vậy thì, bác kể đi. Cháu sẵn sàng rồi.”

Ông đẩy chiếc mũ thuyển trưởng ra sau và gãi gãi trán. “Cô có bao giờ coi mấy con chim biển bay qua đại dương hông?”

“Cũng đôi khi ạ.”

“Nếu mà cô coi kỹ, cô sẽ thấy tụi ló mang theo rơm rạ, cành cây và đôi khi sỏi đá nữa. Chúng thả mấy cái đó xuống lước.”

“Sao chúng lại làm như vậy?”

“Nghe lày, rồi cô sẽ học được. Một nần, có một trinh nữ xinh đẹp tên nà Jingwei rất yêu biển cả. Làng có một con thuyền nhỏ và ở ngoài biển hàng giờ. Làng chèo thuyền ra biển mỗi sáng và chỉ trở về lúc hoàng hôn. Bao nhiêu lăm biển cả chấp thuận làng, nhưng có một chàng thuyền trưởng duyên dáng, đẹp trai, đẹp gần bằng tui đó.”

Ông nhướn mày, khiến tôi cười khúc khích.

“Jingwei phải nòng thuyền trưởng và muốn được cưỡi trên những ngọn sóng với chàng. Nhưng chàng thì muốn làng ở lại nhà chăm sóc gia đình. ‘Biển cả không phải lơi của phụ nữ,’ chàng lói vậy.”

“Rồi cô ấy làm gì?” Tôi hỏi.

“Làng lói với chàng rằng lếu như làng không thể ra biển, thì chàng cũng vậy. Họ ở nại bên bờ biển, nhưng cả hai đều nhớ biển khơi. Một ngày, Jingwei nói với chàng rằng làng sẽ có con. Thoạt đầu cả hai vui nắm. Nhưng khi người lày không để ý, người kia nại chằm chằm nhìn ra biển. Chàng thuyền trưởng nghĩ rằng nếu vợ mình có con thì đứa con sẽ giữ chân làng ở nhà. Vậy nà chàng ta đi câu cá một buổi sớm. Nhưng biển khơi đã phục sẵn. Cô thấy đó, biển khơi, nà người tình ghen tuông và rất tức giận với bọn họ.

“Biển cả dậy sóng và luốt chửng con thuyền. Jingwei, với đứa trẻ trong bụng, đợi người đàn ông của mình cả ngày, nhưng chàng không bao giờ trở về. Rồi làng được báo tin chàng chết đuối. Làng nấy con thuyền nhỏ của mình và chèo ra khơi. Rồi làng dứ dứ nắm đấm vào biển khởi và hỏi vì sao biển cả nại nấy đi người đàn ông của làng?”

“Rồi chuyện gì xảy ra?”

“Biển khơi chỉ cười nớn và lói với Jingwei, chàng thuyền trưởng đẹp trai đã thuộc về biển. Làng không thể cướp được chàng đi.”

“Hừ... nghe chẳng khác gì Randi hết.”

Dixon cười ha hả. “À cái đó thì trúng. Jingwei tranh nuận và đe dọa biển khơi nhưng biển chỉ cười và gửi bọt vào bờ. Khi đã nghe chán rồi, biển lổi sóng nhấn chìm Jingwei, nhưng Jingwei cũng có chút phép thuật và hóa thành chim biển. Đó nà ný do vì sao chim biển nuôn ồn ã trên bờ. Giờ lày chúng vẫn còn mắng mỏ đại dương. Chúng thả đá và que xuống biển để nấp biển khơi, sao cho không người đàn ông lào còn chết đuối nữa. Nhưng biển cả ư? Ló vẫn cười vang, hể? Lếu cô nắng nghe cô sẽ nghe được những bọt sóng. Đó nà câu chuyện về Jingwei và khởi thủy.”

“Khởi thủy là gì ạ?”

“Khởi thủy nà lước của trái đất. Đó nà lước bao bọc hành tinh. Nà nguồn lước chính. Nhiều hơn đất nhiều.”

“Em đây rồi.” Kishan dựa vào khung cửa và mỉm cười. “Chào anh!” Tôi đứng dậy và choàng tay quanh eo anh.

“Em vừa được nghe một câu chuyện mới.”

“Tốt quá. Tý nữa em có thể kể lại anh nghe.” Anh ngước nhìn lên. “Bác không phiền chứ nếu cháu bắt trộm Kelsey nốt buổi tối nay, Thuyền trưởng?”

Thuyền trưởng Dixon cười khẽ. “Được chớ. Chỉ cừn cậu giữ cô ấy tránh xa lước tối lay. Biển cả, ló nắng nghe. Ló kiếm cách nhấn chìm những tình nhân trẻ.”

Tôi cười vang. “Chúc bác ngủ ngon, bác Dix.” “Cô ngủ ngon, cô Kelsey.”

Kishan kéo tôi sát vào anh sau khi chúng tôi đã xuống cầu thang, tôi rúc đầu dưới cằm anh. “Em nhớ anh. Mình đi dạo chút nhé.”

Đó là một khung cảnh mộng mơ. Trăng tròn mới lên, và nước tối đen, mịn màng như lụa. Nước vỗ khe khẽ vào thân thuyền, nhẹ nhàng thì thầm những bí mật trong lúc con thuyền rẽ nước, lướt vào vòng tay ôm mát lạnh của biển cả. Hàng ngàn những ngôi sao lấp lánh lơ lửng trên bầu trời đêm dường như vô tận. Tôi mường tượng ra chúng như những chiếc đèn lồng được treo đó để những chàng thuyền trưởng đẹp trai của biển cả tìm được đường về với những người phụ nữ yêu thương họ. Một vài ngôi sao tắt dần sau những tháng năm, nhưng những ngôi sao khác vẫn sáng rực lên, thu hút ánh nhìn.

Hút tầm mắt chẳng thấy đất liền, chỉ thấy trập trùng nước dưới trăng bất tận. Chúng tôi đứng bên lan can thuyền, nhìn ra ngoài. Khi tôi rùng mình vì lạnh, Kishan kéo tôi vào ngực và choàng tay ôm lấy tôi. Dễ chịu trong vòng ôm của anh, tôi thấy mình thư giãn lơ mơ thoải mái.

“Thế này thật thích,” tôi lẩm nhẩm.

Anh cúi đầu xuống kề đầu tôi và bảo, “Ừm... đúng thế.” Anh xoa xoa hai cánh tay trần của tôi cho tới khi nó ấm lên rồi bắt đầu nhẹ nhàng mát xa hai vai tôi. Tôi thở dài khoan khoái và ngắm nhìn mặt trăng đầy mơ hồ trong khi để suy nghĩ của mình trôi đi. Thực ra, tôi đã trở nên tách biệt khỏi khung cảnh xung quanh tới mức không để ý Kishan đang bắt đầu hôn lên cổ tôi.

Một tay anh ve vuốt cánh tay tôi còn tay kia ôm lấy eo. Anh đặt những nụ hôn dịu nhẹ dọc theo vai tôi, rồi đôi môi anh du lịch tới hõm gáy. Anh tiến chậm, để lại một vệt dài nhột nhạt. Khi chạm tới chân tóc tôi, anh vòng tay qua người tôi, nắm tay tôi rồi xoay tôi lại đối diện với anh.

Tim tôi bắt đầu đập thình thịch. Anh lại lướt tay ngược lên cánh tay tôi, đỡ lấy khuôn mặt tôi, luồn tay vào tóc tôi. Anh mỉm cười, đôi mắt màu vàng kim lấp lánh dưới ánh sao.

“Đó. Em thấy không? Vẫn còn khối tóc để anh vùi tay vào đó.”

Tôi mỉm cười căng thẳng, hơi bồn chồn. Anh nghiêng đầu, bước lại gần hơn, áp những nụ hôn nhẹ nhàng, mềm như lụa lên cổ tôi. “Em có biết đã bao lâu anh ao ước được chạm vào em như thế này không?” anh thì thầm khẽ. Tôi lắc đầu và cảm thấy anh mỉm cười trong khi làn môi anh nhấm nháp xương quai xanh tôi. “Dường như hàng năm trời ấy. Hừm... thích hơn anh tưởng nhiều. Em thơm lắm. Cảm giác chạm vào em tuyệt lắm.”

Anh rải những nụ hôn chậm rãi từ cổ lên trán tôi. Tôi vòng tay mình ôm eo anh và nhắm mắt lại. Ngực anh rung khẽ áp vào ngực tôi. Anh hôn lên đôi mi tôi, mũi tôi, và đôi gò má tôi với đôi môi ấm áp, mềm mại của mình. Anh khiến tôi cảm thấy được nâng niu và trân quý, còn tôi thích thú tận hưởng sự vuốt ve của anh.

Làn da tôi nhột nhạt khi anh khẽ cù lên đó bằng mấy ngón tay. Tim tôi đập nhanh hơn khi anh thì thầm tên tôi, tôi đáp lại anh và vô tình ghé lại gần hơn. Tôi đợi môi anh chạm tới môi tôi nhưng anh kiên trì, chậm rãi hôn mọi nơi trên khuôn mặt tôi và lướt những đầu ngón tay anh lên đó, dường như sung sướng với những ve vuốt ngọt ngào. Những nụ hôn của anh dịu dàng, yêu thương, nhẹ nhàng và... không ổn.

Những ý nghĩ không mời cứ bật lên và tôi không tài nào gạt chúng đi được, dù đã cố. Bất chấp nỗ lực, tôi nén xuống những giằng co nội tại của mình – giấu nó đi – nhưng nó vẫn hiện ra. Kishan khựng lại và ngẩng đầu lên. Tôi thấy vẻ mặt anh thay đổi từ sự thương yêu ngọt ngào và hạnh phúc sang ngạc nhiên, và đỉnh cao là rút lui và thất vọng. Ôm lấy mặt tôi, anh gạt đi những giọt nước mắt trên má tôi và hỏi buồn rầu, “Chẳng lẽ khó yêu anh đến thế sao, Kelsey?”

Tôi cúi đầu và nhắm nghiền mắt.

Anh bước lui lại và tựa vào lan can boong thuyền, tôi giận dữ lau đi những giọt nước mắt trên mặt mình. Tôi rất giận mình vì đã làm hỏng khoảnh khắc ngọt ngào giữa chúng tôi và đặc biệt là làm Kishan tổn thương. Nỗi ân hận dâng đầy trong tôi. Tôi quay về phía anh, vuốt lưng anh, đan tay mình vào cánh tay anh. Dựa đầu lên vai anh, tôi nói. “Em xin lỗi. Và, không... anh chẳng hề khó yêu chút nào.”

“Không. Anh xin lỗi. Anh đã tiến quá nhanh.”

Tôi lắc đầu. “Không, không sao. Em cũng không biết tại sao em khóc nữa.”

Anh quay về phía tôi, nắm tay tôi và nghịch nghịch các ngón tay. “Anh biết. Và anh không muốn nụ hôn đầu của chúng mình khiến em phải khóc.”

Tôi mỉm cười như mếu, cố gắng trêu anh. “Đây có phải nụ hôn đầu đâu. Anh nhớ không?”

“Ý anh là nụ hôn đầu mà anh không hôn trộm.”

“Đúng thế.” Tôi cười khẽ. “Anh đúng là tên hôn trộm giỏi nhất thế giới.” Tôi hích vai và bóp chặt tay anh như lời xin lỗi, nhưng mặt anh vẫn nguyên vẻ buồn buồn.

Anh vỗ hai tay vào thành lan can. “Em vẫn chắc chắn về chuyện này chứ? Về anh nữa?”

Tôi gật đầu gục vào vai anh. “Anh làm em hạnh phúc. Phải, em chắc chắn về điều đó. Anh sẽ thử lại chứ?” Tôi cố gắng rúc gần hơn vào anh.

Anh choàng tay ôm tôi và hôn lên trán tôi. “Để lúc khác vậy. Đi nào. Anh đang có hứng nghe kể chuyện.”

Chúng tôi xuống thang, tay nắm chặt tay.

Chúng tôi không thấy Ren trong suốt cả tuần. Theo máy định vị GPS, anh trốn chỗ này chỗ khác ở tầng dưới con thuyền.

Kishan không cố gắng hôn tôi thêm lần nào, ít ra là không như trước kia. Anh vuốt tóc tôi và ôm tôi, xoa vai tôi và ở bên tôi cả ngày, nhưng khi tôi bước lại gần hơn để ôm và chúc anh ngủ ngon mỗi tối, anh chỉ ôm tôi một lát rồi hôn lên trán. Anh cho tôi thêm thời gian, một điều khiến tôi vừa nhẹ nhõm, vừa căng thẳng.

Một tuần sau đó, chúng tôi cũng cập bến Mahabalipuram, hay Thành phố Bảy Ngôi Đền. Chúng tôi giờ đây đang ở phía bên kia Ấn Độ, tại bờ đông, bồng bềnh trong vịnh Bengal, bên rìa của Ấn Độ Dương.

Đã tới lúc bắt đầu hành trình thứ ba của chúng tôi, và ý nghĩ sẽ phải đối phó với những con rồng khiến tôi vừa hào hứng vừa sợ hãi. Tôi ngứa ngáy muốn được vào bờ. Kishan buộc phải đưa tôi đi vãn cảnh bằng xe máy. Chúng tôi dành cả ngày đi ngắm cửa hàng. Anh mua cho tôi một chiếc vòng tay tuyệt đẹp được cẩn kim cương trông như những bông sen. Đeo vòng vào tay tôi, anh nói, “anh từng mơ thấy em cài bông sen nở trên tóc. Chiếc vòng này nhắc anh nhớ tới em.”

Tôi cười vang. “Có lẽ anh mơ thấy hoa sen vì anh ngủ ngay cạnh chiếc bàn nơi em đặt chuỗi vòng hoa sen đeo cổ của Durga.”

“Có thể thế,” anh nói và mỉm cười. “Nhưng một giấc mơ đẹp vẫn là một giấc mơ đẹp. Em hãy đeo nó nhé.”

“Được thôi. Nhưng với điều kiện anh để em sắm cho anh thứ gì đó.”

Kishan nhoẻn cười. “Đồng ý.”

Tôi để anh ngồi lại bên chiếc bàn ngoài trời rồi bước vào một cửa hàng. Vài phút sau, tôi căng thẳng ngồi xuống. Anh ghé gần lại để giằng chiếc túi, nhưng tôi giật nó ra.

“Anh đợi chút đã. Trước khi em đưa cái này cho anh, anh phải để em giải thích nó được dùng vào việc gì và anh phải hứa đừng giận nhé.”

Kishan cười vang và đưa tay ra nhận chiếc túi. “Làm anh giận hơi khó đấy.”

Hào hứng lôi món quà của tôi ra khỏi túi, anh giơ nó lên, nhìn chằm chằm bối rối, rồi quay sang nhìn tôi và nhướn mày. “Cái gì thế này?”

“Đó là một chiếc vòng cổ cho một chú chó nhỏ.”

Anh đung đưa chiếc vòng cổ bằng da màu đen. “Trên này có viết chữ Kishan bằng nhũ vàng.” Anh cười phá lên. “Em nghĩ anh sẽ đeo vừa cái này hay sao?”

Tôi cầm chiếc vòng cổ từ tay anh và đi vòng quanh chiếc bàn. “Anh đưa tay đây nào.” Anh quan sát tôi vẻ tò mò trong lúc tôi đeo chiếc vòng cổ vào cổ tay anh. Anh không có vẻ gì là giận cả, chỉ thắc mắc thôi.

Tôi giải thích, “Khi Ren hóa thành người lần đầu tiên, anh ấy còn đeo chiếc vòng cổ. Anh ấy đưa nó cho em như để chứng minh rằng anh ấy chính là con hổ đã đồng hành cùng em. Anh ấy nhanh chóng vứt bỏ chiếc vòng cổ đó. Với anh ấy, đó là lời nhắc nhở về sự giam cầm anh ấy trải qua.”

Kishan cau mày. “Em tặng quà cho anh mà lại nói tới Ren?” “Để em nói nốt. Khi em gặp anh lần đầu tiên, anh là một kẻ hoang dã, thực sự thuộc về rừng già. Anh đã bỏ qua phần người trong mình rất nhiều năm. Em nghĩ một chiếc vòng cổ sẽ là một biểu tượng khác, một biểu tượng của việc được thuần hóa, gia nhập trở lại với thế giới này, biểu tượng của sự thuộc về. Có nghĩa là anh đã trở về nhà. Có nghĩa là anh có một mái nhà... với em.”

Tôi buông tay anh ra và đợi anh đáp. Tôi không đọc được phản ứng của anh. Kishan nhìn tôi đăm đăm đầy suy ngẫm trong vài giây. Bỗng dưng, anh nắm tay tôi, kéo tôi ngồi lên đùi và đưa tay tôi lên môi anh.

“Đó là một món quà anh sẽ luôn nâng niu. Mỗi lần nhìn thấy nó, anh sẽ nhớ rằng anh hoàn toàn thuộc về em.”

Tôi áp trán mình lên trán anh và thở ra nhẹ nhõm. “Tốt quá. Em cứ lo là anh sẽ ghét món quà này. Giờ thì việc ấy đã xong, chúng ta nên trở về thuyền nhỉ? Bác Kadam muốn họp mặt một tiếng trước khi mặt trời lặn rồi sau đó đi đến Đền Bờ. Trừ phi anh muốn em mua thêm dây buộc nữa để anh không thể lang thang đi mất,” tôi đùa.

Với vẻ nghiêm túc, anh nắm tay tôi, “Có dây buộc hay không, anh cũng không bao giờ rời em cả. Nữ chủ nhân, xin người hãy dẫn đường.” Anh mỉm cười mãn nguyện và khoác tay lên vai tôi.

Trên thuyền, bác Kadam đã đợi sẵn. Chẳng bao lâu Ren cũng từ nơi trú ẩn của mình xuất hiện. Sau khi Kishan cất xe máy, chúng tôi leo lên chiếc xuồng máy.

Gió thổi tung tóc tôi, và tôi tươi nét mặt với Kishan khi anh ngoảnh lại xem tôi có ổn không. Ánh mắt tôi lãng đi và bỗng dưng tôi thấy mình nhìn thẳng vào đôi mắt xanh biếc của Ren.

“Vòng tay mới hả?” Anh hỏi.

Tôi cúi nhìn những viên kim cương lấp lánh và mỉm cười. “Vâng.”

“Rất... đẹp. Hợp với em.” “Cám ơn anh.”

“Anh...” anh lưỡng lự và ngọ nguậy trên ghế. “Có gì vậy?” Tôi thăm dò nhẹ nhàng.

“Anh mừng cho em. Em có vẻ... hài lòng.” “Ồ. Em đoán là em hài lòng.”

Tuy cảm thấy hạnh phúc ở bên Kishan, tôi nhận thấy có một lỗ thủng đâu đó trong tim tôi, một lỗ thủng không bao giờ liền lại. Nó rỉ ra sự thất vọng đắng cay chảy vào tứ chi tôi, và ở gần Ren chẳng khác nào xát muối vào vết thương ấy. Xót lắm.

Tôi gật đầu lơ đễnh và nhìn xuống nước. Giơ tay ra, tôi để nước táp vào đó. Tôi cảm thấy Ren vẫn quan sát tôi. Có điều gì đó hữu hình lóe lên giữa chúng tôi nhưng chỉ trong chốc lát. Chút níu kéo thoắt hiện trong một giây để rồi giây sau đó lại tan biến.

Khi chúng tôi cập bờ thì mặt trời đã lặn. Hai anh em nhảy khỏi xuồng, kéo nó lên bờ cát và buộc nó vào một cành cây vững chắc.

Tôi quan sát ngôi đền khi chúng tôi tiến lại gần. Nó có hình chóp nón nhưng gồm hai khối chứ không phải một. Bác Kadam lui lại đi bộ cùng tôi trong lúc Kishan và Ren sải bước hiên ngang lên trước. Cả hai đều mang theo vũ khí, để đề phòng – Kishan mang chakram, Ren thì cầm theo cây đinh ba mới.

“Bác Kadam, sao ngôi đền này có hai khối ạ?”

“Mỗi khối là một đền thờ. Ngôi đền này chính ra có ba, nhưng cháu không thấy được khối thứ ba từ đây. Nó nằm ở giữa, cao hơn hai khối kia khoảng năm tầng.”

“Ai được thờ cúng tại đền ạ?”

“Chủ yếu là Shiva, nhưng trong lịch sử, những vị thần khác cũng được thờ ở đây. Đền Bờ là ngôi đền cuối cùng trong số bảy ngôi đền vẫn còn nằm cao hơn mực nước.” Bác chỉ vào bức tường. “Cháu có thấy những bức tượng lớn kia không?”

“Những con bò đó ạ?”

“Thực ra đó là những con bò đực. Chúng tượng trưng cho Nandi, người hầu của Shiva.”

“Cháu nghĩ là Nandi mang hình dạng cá mập.”

“Đúng thế, nhưng thần cũng được biết đến dưới hình dạng bò đực. Lại đây, bác muốn chỉ cho cháu xem cái này.”

Chúng tôi đi qua cổng vòm bằng đá và tiến lại gần một bức tượng trông giống như một con hổ lớn có một con búp bê bám vào chân.

“Cái gì đây ạ?” Tôi hỏi

“Đó là Durga và hổ.”

“Tại sao Durga nhỏ xíu vậy?”

Bác ghé lại gần và đưa một ngón tay dọc theo nét hoa văn chạm trổ. “Bác cũng không chắc. Chắc đơn thuần do thiết kế, bác đoán vậy. Cháu có nhìn thấy chỗ hõm này ở ngực hổ không?”

Tôi gật đầu.

“Có lẽ nó cũng từng được dùng như ban thờ.” “Vậy chúng ta có nên dâng đồ lễ ở đây không?”

“Bác không chắc. Trước hết, hãy đi khảo sát ngôi đền và xem chúng ta có thể tìm thấy những gì.”

Chúng tôi bước qua cổng vòm cao vút để vào ngôi đền. Bác Kadam nói với tôi cổng vòm ấy được gọi là gopuram, một cổng vào đền được trang hoàng để gây ấn tượng và ngạc nhiên. Nó cũng tương tự như cổng linh hồn của người Nhật. Con người bước vào ngôi đền này sẽ cảm thấy họ rời xa những vấn đề của thế giới để tiến vào một nơi được coi là linh thiêng.

Chúng tôi đuổi kịp Ren và Kishan để cùng tiến vào trong ngôi đền tối om. Bóng tối càng thêm đậm đặc bởi những mái che đưa ra chắn hết ánh trăng. Kishan bật đèn pin lên để chúng tôi nhìn ra lối đi.

“Đằng này,” bác Kadam nói. “Nội điện thường nằm ngay bên dưới mái vòm chính.” Chúng tôi khảo sát khối đền nhỏ hơn trước và không thấy gì bất thường. Bác Kadam chỉ vào một tảng đá không chạm trổ gì ở giữa căn phòng. “Đây chính là murti – biểu tượng, tượng thần, của điện thờ.”

“Nhưng nó không được chạm trổ gì cả.”

“Một biểu tượng không được chạm trổ có thể đại diện cho một điều gì đó chẳng kém gì một biểu tượng được chạm trổ. Căn phòng này là garbhagriha, hay còn gọi là lòng điện.”

“Cháu có thể hiểu được tại sao họ gọi nơi này là lòng điện. Trong này tối om.” Tôi nói.

Chúng tôi cùng bước lại chỗ bức tường để nghiên cứu các hình chạm khắc. Ở đây được vài phút thì tôi thoáng thấy có bóng trắng ngoài cửa. Tôi quay đầu lại nhưng không thấy có gì ở đó. Bác Kadam nói đã đến lúc di chuyển tới điện thờ tiếp theo. Khi chúng tôi đi qua cổng vòm mở ra ngoài, tôi nhìn xuống phía biển. Một người phụ nữ xinh đẹp, mặc đồ trắng với vải the che tóc, đang đứng bên bờ biển. Bà áp một ngón tay lên môi, nhìn tôi trước khi tan biến vào cây dâu tằm gần đó.

“Kishan? Bác Kadam?” “Gì vậy em?” Kishan hỏi.

“Em nhìn thấy gì đó. Một người phụ nữ, bà đứng ở đó. Bà mặc đồ trắng, và trông như người Ấn Độ hoặc người châu Á. Hình như bà biến mất vào một cây dâu tằm.”

Kishan cúi xuống và quan sát phía dưới. “Anh chẳng thấy gì, nhưng chúng ta hãy đi sát nhau nhé.”

“Được thôi.”

Anh cầm lấy tay tôi khi chúng tôi bước vào điện thờ tiếp theo. Chúng tôi đi qua chỗ Ren, đang ở sau lưng chúng tôi trong bóng tối. Anh khoanh tay trước ngực trong một tư thế cổ điển, “trông chừng cho tôi”. Trong điện thờ tiếp theo, tôi đi sát bên Kishan, cùng anh xem xét các hình chạm khắc trên tường. Tôi thấy có hình khắc một người phụ nữ đang dệt, và lướt ngón tay theo nét chạm ngoài. Ở dưới chân người phụ nữ có ba giỏ sợi, và một trong mấy cuộn sợi đang tuột ra. Tò mò, tôi lần theo đường vẽ mảnh qua một vài chỗ chạm trổ nữa.

Sợi vải ấy được buộc quanh mắt cá chân của một nông dân, và một con mèo đang chơi với nó. Sợi vải chạy qua một cánh đồng lúa mì, tôi bị mất dấu ở đó và phải tìm thêm vài hình chạm trổ khác nữa mới lần ra sợi vải. Nó nối với một chiếc khăn quấn quanh cổ một người phụ nữ, rồi tự đan vào một sợi dây dày dặn đang bừng cháy trong lửa. Nó trở thành một chiếc lưới đánh cá, bọc quanh một cây lớn, nó dạo qua một con khỉ, rồi níu gót chân chim, và rồi... dừng lại. Nó dừng lại ở góc phòng, tôi tìm kiếm trên bức tường tiếp theo nhưng chẳng thấy gì nữa cả.

Tôi ấn vào đường chạm để cảm nhận độ dày mỏng của nó. Nó thực mảnh, đến mức ngón tay tôi gần như không cảm thấy gì. Khi tôi ấn vào góc cuối cùng của vệt sợi vải, một điều lạ lùng xảy ra. Ngón tay tôi ánh đỏ - chỉ ngón tay – và khi tôi bước lui ra khỏi bức tường, tôi nhìn thấy một con bướm bò ra khỏi vết nứt. Nó bắt đầu đập cánh thật nhanh, nhưng không bay. Tôi nhìn nó gần hơn và nhận ra rằng nó không phải là bướm mà là một con thiêu thân lớn màu trắng.

Nó đầy lông lá, gần như rậm rạp, với đôi mắt đen và một thứ ăng ten màu nâu như lông chim, làm tôi nhớ tới những chiếc răng của cá voi. Khi nó đập cánh, có điều gì đó diễn ra với bức tường. Mảng nhỏ này của bức tường rất nhẵn nhụi, thật lạ, bởi phần còn lại của bức tường phủ đầy những hình khắc.

Những vệt mảnh màu trắng xuất hiện, chúng tỏa ra từ sợi chỉ chạm trổ mà tôi đang lần theo. Chúng ánh lên thứ ánh sáng đậm đặc, khiến tôi phải nheo mắt mới thấy được. Khi tôi đưa tay chạm vào, ánh sáng nhảy nhót từ bức tường lên tay tôi. Cùng lúc ấy, những vệt trắng bùng lên, tỏa ra đủ màu như cầu vồng. Chúng viền theo hình xăm henna của Phet trên tay tôi với ánh sáng trắng đang nhanh chóng đổi màu.

Tôi quay lại nhìn Kishan, nhưng phía sau tôi chỉ thấy tối đen. Tôi không thể nói được gì. Tôi không làm được gì khác ngoài việc quan sát bức tường trong lúc các vệt lan dài ra mỗi lúc một nhanh hơn. Chúng vẽ nên điều gì đó – một người phụ nữ, ngồi bên cửa sổ, đang thêu. Một giây trước, tôi đứng bên bức tường, ngắm nhìn bức vẽ, nhưng giây sau đó, người phụ nữ đã thở và chớp mắt, và tôi hòa nhập vào bức vẽ cùng bà. Bà chính là người mà tôi đã nhìn thấy khi nãy. Bà mặc váy lụa dài màu trắng và đeo mạng the che tóc.

Bà mỉm cười, chỉ vào chiếc ghế đối diện. Khi tôi ngồi xuống, bà đưa cho tôi một khung thêu hình tròn, trên đó đã có những mũi thêu đẹp nhất hình nữ thần Durga. Những mũi thêu nhỏ và tinh tế, trông như một bức vẽ vậy. Bà thêu những bông hoa trông như hoa thật, và mái tóc Durga chảy dài như sóng dưới chiếc mũ vàng, trông mềm mại tới độ tôi phải chạm vào đó. Người phụ nữ đưa cho tôi một cây kim và một chiếc hộp đầy ắp những hạt trai nhỏ tí xíu.

“Bà muốn cháu làm gì cơ?” “Durga cần một Chuỗi Ngọc.”

“Cháu chưa từng đính cườm bao giờ.”

“Nhìn này... các hạt ngọc đều có lỗ nhỏ. Ta sẽ chỉ cho cô cách đính hai hạt đầu tiên, sau đó cô có thể làm nốt phần còn lại.”

Khéo léo, bà xâu kim, thắt một nút nhỏ, luồn hạt ngọc trai qua cây kim, thắt một nút quanh hạt ngọc, rồi cắm kim vào miếng vải. Tôi quan sát bà lặp lại quy trình đó thêm một lần nữa trước khi đưa cây kim cho tôi và đặt hộp hạt trai lên bệ cửa sổ.

Bà cầm khung thêu của mình lên, chọn vài sợi chỉ màu xanh lơ, tiếp tục làm việc. Sau khi đã đính xong hai hạt cườm và hài lòng với nỗ lực của mình, tôi hỏi, “Bà là ai thế ạ?”

Người phụ nữ không ngẩng lên khỏi tác phẩm của mình và đáp, “Ta được gọi bằng nhiều cái tên, nhưng cái tên hay được sử dụng nhất là Nàng Tằm.”

“Durga gửi cháu tới chỗ bà. Nữ thần nói bà có thể giúp chúng cháu về chuyến hành trình.” Tôi chớp mắt. “Ồ! Bà được nhắc tới trong lời tiên tri. Bà là người phụ nữ mặc đồ lụa.”

Người phụ nữ mỉm cười trong khi vẫn nhìn cây kim. “Đúng, ta dệt và thêu lụa. Đã có thời ta sống nhờ vào nghề này, nhưng giờ đây công việc này là hình phạt của ta.”

“Hình phạt của bà ư?”

“Phải rồi. Vì ta đã phản bội người đàn ông ta từng yêu.” Tôi buông khung thêu đặt lên đùi, đăm đăm nhìn người phụ nữ, chờ bà nói tiếp. Nhưng bà ngước lên và xua tay, nên tôi cầm lấy khung thêu của mình rồi tiếp tục.

“Ta nên kể cho cô nghe chuyện đã xảy ra như thế nào chứ nhỉ?” Bà hỏi. “Đã bao năm rồi ta chưa chia sẻ câu chuyện này với ai, và có điều gì đó mách bảo với ta rằng cô sẽ hiểu.”

Tôi gật đầu không nói, và người phụ nữ bắt đầu kể. “Đã rất nhiều năm về trước, những người phụ nữ được xem trọng nhờ có tay nghề thêu thùa, khâu vá. Các cô gái được học nghề từ khi tuổi còn rất trẻ, và những người thạo nghề nhất được tuyển vào cung để thêu thùa cho hoàng đế. Một số ít người, rất ít, đã trở thành vợ của những người đàn ông quý tộc nhờ tay nghề của mình, và gia đình của họ luôn được no đủ.

“Vào dịp đầu năm mới, những cô gái trẻ được chọn lựa để học việc. Họ tập trung quanh chiếc bát lớn đựng nước và nhúng ngón tay vào đó. Một cây kim được đặt trên mặt nước và xoay tròn. Khi cây kim ngừng lại, nó chỉ vào người con gái nào thì người đó được đưa đi để đặc cách học nghề thêu.

“Những bé gái sinh ra với những ngón tay dài và mảnh được để ý kỹ lưỡng với hy vọng họ có thể mang tới cho gia đình danh vọng và của cải nhờ nghề thêu. Ta là một trong những đứa bé ấy. Ta được ca ngợi là người thợ thêu tài hoa nhất trong khắp vương quốc, và những mẫu thêu do ta tạo nên được những người giàu có nhất săn tìm. Cha ta nhận được năm mươi lời hỏi cưới ta trước khi ta tròn mười sáu tuổi, nhưng cha ta chối từ tất cả. Cha ta là người đàn ông rất tự hào và nghĩ rằng ta sẽ nhận được những lời cầu hôn xứng đáng hơn khi ta lớn.”

“Vậy thì bà gặp được người bà đem lòng yêu bằng cách nào?”

Người phụ nữ tặc lưỡi. “Bình tĩnh nào, cô gái. Để tạo ra được những thứ đẹp đẽ, cần phải rèn luyện và kiên nhẫn thật nhiều.”

“Cháu xin lỗi. Bà nói tiếp đi ạ.”

Người phụ nữ lại cúi xuống tiếp tục công việc của mình. “Cô biết thêu thùa, nhưng cô phải đính lại hai hạt cườm cuối cùng. Chúng còn cách nhau hơi xa.”

Tôi nhìn thật sát vào tấm vải. Những hạt cườm dường như được đính hết sức đều đặn với tôi, nhưng đó là tác phẩm của bà, vậy nên tôi tháo cườm ra và bắt đầu đính lại.

“Vài năm sau đó, khi đã hai mươi tuổi, ta gặp một người, một chàng trai trẻ đẹp có nghề làm lụa. Gia đình chàng nuôi tằm, kéo sợi và nhuộm, họ là những người rất giỏi, giỏi nhất trong vương quốc. Khi đã nhìn thấy những sợi chỉ mịn màng và màu sắc được nhuộm hoàn hảo, ta quyết ý đặt hàng của họ.

“Ta được đặt để thêu quần áo cho cô dâu tương lai của hoàng đế. Hoàng đế đã lên kế hoạch cho một đám cưới tuyệt diệu dù người còn chưa chọn được người con gái có diễm phúc ấy. Cha ta được trả tiền hậu hĩnh để đưa ta vào cung điện. Ta sẽ sống ở đó một năm và thêu những thứ quần áo tuyệt đẹp cùng một chiếc mạng cô dâu cho hôn thê mới của hoàng đế. Viễn cảnh thật hào hứng cho một cô gái. Ta được thu xếp sống sung túc gần bên hoàng đế, và ta không muốn gì hơn. Gia đình ta thỉnh thoảng được phép vào thăm ta, và ta có thể thấy niềm vui mà ta mang lại cho gia đình.

“Chỉ có hai vấn đề. Vấn đề trước hết là hoàng đế hết sức kén chọn và sở thích của người thay đổi mỗi ngày. Người thăm ta hàng tuần để xem công việc tiến triển tới đâu. Ta chỉ vừa bắt đầu một mẫu mới, là người lại đổi ý. Tuần này thì người muốn mẫu chim, tuần sau lại muốn hoa, tuần thì người đòi chỉ vàng, tuần sau lại đòi dùng chỉ bạc và lơ, rồi thì đỏ, tím oải hương nhạt, tím thẫm... vân vân. Người đổi ý như thay áo. Có lẽ vì thế mà người mãi không chọn được một hôn thê nào.”

Tôi khẽ cười.

Người phụ nữ nhíu mày. “Vấn đề thứ hai là hoàng đế đã bắt đầu nói lời ong bướm mỗi lần đến thăm ta. Khi ta nhắc về hôn thê của người, hoàng đế cười lớn và đáp, ‘Ta chắc rằng hôn thê của ta không lấy thế làm phiền. Ta còn chưa quyết chọn ai, nhưng cuối năm nay ta sẽ thành thân. Một hoàng đế cần phải có người nối dõi, ngươi có nghĩ vậy không? Trong khi ấy chúng ta còn khối thời gian để biết nhau, phải không cô gái ngọt ngào?’ Ta thường gật đầu và nói với người là ta bận, và thường thì người để ta yên.

“Bởi sở thích đa dạng và chiết trung của hoàng đế, ta trở nên rất thân với chàng trai chuyên giao vải lụa. Chàng hết sức bận rộn mang thêm chỉ và nguyên liệu mới. Đôi khi chàng ngồi lại và trò chuyện với ta khi ta thêu. Chẳng bao lâu ta ngóng chờ những chuyến thăm của chàng, và rồi chẳng mấy chốc ta bắt đầu tạo ra các lý do để chàng đến với ta. Ban ngày ta thường mơ đến chàng, khiến công việc của ta bắt đầu bê trễ.

“Mặc dù thích thêu thùa, ta mất hứng và mất tập trung vào các dự án của hoàng đế. Một hôm, ta nhìn qua cửa sổ và thấy chàng trai của ta đi qua khu vườn. Cảm hứng đến, ta trở nên phấn khích với một dự án mới, dự án mà ta muốn làm. Ta chưa từng thêu gì ngoài những thứ được đặt hàng. Ta đã làm thuê cho người khác từ khi là một cô gái trẻ và chẳng bao giờ có thời gian rảnh. Ta mường tượng chính xác điều ta muốn làm – một món quà cho chàng thợ dệt trẻ. Ta không ngủ được, đắm đuối bởi nhiệm vụ của mình.

“Ngày đêm ta làm việc, biết rằng cuối tuần chàng trai trẻ lại tới gặp ta. Cuối cùng, chàng gõ cửa. Ta giấu những thành quả của mình sau lưng khi mời chàng vào. Chàng chào ta với nụ cười ấm áp và đặt gói đồ của mình xuống. “Em có cái này tặng chàng,” ta nói.

“Cái gì vậy?”

“Một món quà. Một thứ em làm riêng cho chàng.”

“Mắt chàng trai sáng lên vì ngạc nhiên và hạnh phúc khi ta đưa cho chàng món quà được bọc trong giấy màu nâu. Chàng thận trọng mở nó ra và cầm chiếc khăn lên. Những cây dâu tằm chạy dọc theo chiều dài của tấm vải vàng kim, và những kén tằm rủ xuống từ các cành cây. Những con tằm màu trắng nằm trên vài chiếc lá, và những sợi tơ đủ màu cuộn quanh con thoi ở hai đầu khăn. Chàng trai gượng nhẹ cầm chiếc khăn lên và chạm vào một chiếc lá thêu. “Đáng yêu quá,” chàng nói. “Anh chưa bao giờ được tặng món quà nào tinh tế nhường này.”

“Có gì đâu,” ta lắp bắp.

“Không. Anh biết tác phẩm này đã khiến em mất nhiều thời gian. Em đã tặng anh một vật hết sức quý giá.”

“Ta nhìn xuống và nói lưỡng lự, ‘Em có thể tặng anh nhiều hơn thế, nếu anh yêu cầu.’ Đó là lúc chàng chạm vào ta. Chàng tiến lên và lướt ngón tay trên đôi gò má ta. “Anh không thể... đến với em,” chàng nói.

“Ôi,” ta thốt lên, thất vọng và bước lui ra.

“Chàng dấn tới, ‘À, em đã hiểu lầm anh rồi. Nếu như anh có thể làm bất cứ điều gì để em là của anh, anh sẽ không ngần ngại đâu. Nhưng anh không phải là một người đàn ông giàu có. Chắc chắn là không đủ giàu có để đến với một người như em. Nhưng nếu có thể, hẳn là anh sẽ chọn em.’ Chàng ấp lòng bàn tay lên má ta. ‘Xin em hãy tin điều đó,’ chàng nói.

“Ta gật đầu, và khi chàng đi, ta cố gắng chấp nhận rằng chúng ta không thể đến với nhau. Dẫu thế, ta vẫn ngóng trông chàng từ tuần này sang tuần khác và ngày tháng trôi qua, chúng ta yêu nhau sâu sắc. Mặc dù tình yêu ấy có thể mang đến cho gia đình ta sự hổ thẹn và thất vọng, ta nói với chàng rằng tình yêu của ta dành cho chàng quá mạnh mẽ không thể chối bỏ được. Chúng ta bí mật lên kế hoạch bỏ trốn và làm đám cưới ngay khi ta hoàn thành đơn đặt hàng của hoàng đế. Ta sẽ để lại tất cả cho gia đình ta và bỏ đi. Chàng sẽ mang theo ít tằm giống, còn ta đã có tay nghề của mình, và cùng với nhau, chúng ta có thể bắt đầu một cuộc sống mới ở một nơi xa xôi.

“Cuối cùng, một năm cũng hết, hoàng đế để ta hoàn thành tấm mạng của mình. Đó là một tác phẩm tinh xảo. Không phải là tác phẩm tinh xảo nhất bởi tác phẩm tinh xảo nhất đã thuộc về người ta yêu, nhưng cũng rất đẹp. Tấm mạng có màu hồng nhạt và được thêu những bông hồng màu sẫm hơn viền xung quanh. Khi ta dâng nó lên hoàng đế, người nâng nó lên và tuyên bố người đã sẵn sàng để kết hôn với hôn thê của mình. Sau đó người lệnh cho ta chuẩn bị.

“Chuẩn bị để làm gì vậy thưa hoàng đế?” Ta hỏi. “Chuẩn bị cho đám cưới, dĩ nhiên rồi.”

“Thần phải giúp hôn thê của hoàng đế đeo mạng ư?” “Không đâu, cô gái. Nàng là hôn thê của ta.”

“Những người phụ nữ đổ vào phòng để giúp ta chuẩn bị. Ta hoảng sợ và van xin hoàng đế cho ta một ngày nữa. Ta nói rằng ta cần phải nói chuyện với cha ta. Hoàng đế nói cha ta đã vui mừng chấp thuận đám cưới và đang chờ để hộ tống ta. Cuống cuồng suy nghĩ, ta lắp bắp nói rằng ta muốn thêu cho hoàng đế một chiếc khăn tay màu hồng, tiệp với mạng của cô dâu. Hoàng đế vỗ vỗ lên má ta và nói rằng người sẽ chiều lòng ta. Người cho ta thêm một ngày.

“Ta lập tức nhắn tin cho chàng trai trẻ của mình, yêu cầu mang tới chỉ màu hồng ngay. Khi chàng tới, ta choàng tay ôm lấy chàng và siết thật chặt. Chàng cũng ôm ta đáp lại và hỏi ta có chuyện gì xảy ra. Ta giải thích rằng hoàng đế có kế hoạch cưới ta và cha ta đã chấp thuận. Ta xin chàng hãy đưa ta đi, nhanh chóng, trong buổi tối hôm đó. Chàng nói rằng chàng không nghĩ chúng ta có thể thoát khỏi lính gác cung điện, nhưng chàng biết một người, một thầy pháp mà chàng nghĩ có thể lo liệu giúp ta. Chàng nói ta đợi chàng, rằng đêm đó sẽ có người tới đón ta và người đó sẽ quàng chiếc khăn ta đã tặng cho chàng. Chàng đề nghị ta hãy tin tưởng chàng.”

“Chuyện gì đã xảy ra?” tôi hỏi. “Có ai đến không ạ?” “Có. Một con ngựa cày màu nâu tầm thường đã đến.” “Một con ngựa cày ư?”

“Phải rồi. Nó chạy nước kiệu chậm rãi tới cửa sổ và hí khe khẽ. Nó quấn chiếc khăn quanh cổ.”

“Con ngựa quấn chiếc khăn ư? Vậy chàng trai trẻ đâu rồi?” “Ta không biết. Ta sợ hãi. Con ngựa dậm chân và hí to hơn, nhưng ta đứng bên cửa sổ, tay ta vã mồ hôi. Ta không biết phải làm gì. Liệu ta có nên trèo qua cửa sổ rồi nhảy lên lưng ngựa không? Ta sẽ phải đi đâu? Con ngựa trở nên bồn chồn hơn, đánh động một tên lính canh khó chịu, và tên lính canh cố gắng đuổi ngựa đi. Những người đàn ông được cử tới để đưa ngựa vào chuồng, nhưng ngựa đá, cắn và hí rất to. Cuối cùng, một trong những chỉ huy đội gác tiến ra và nói bọn họ hãy khiến con ngựa câm đi trước khi nó đánh thức hoàng đế.

“Mọi thứ họ thử đều không làm con vật bình tĩnh lại. Chiếc khăn tuột khỏi cổ nó và rơi xuống bùn. Các lính gác dẫm đạp lên, làm hỏng món quà đẹp đẽ. Ta khóc và tự hỏi không biết chàng trai trẻ của ta đang ở đâu. Ta tuyệt vọng khi nghĩ rằng chàng đã bị bắn và bị giết trên đường. Cuối cùng họ cũng thành công và đưa được con ngựa đi, vậy là mọi người đều yên giấc. Chàng trai trẻ của ta chẳng thấy mặt đâu. Ta ngóng trông chàng bên cửa sổ suốt đêm đó.

Sáng hôm sau, hoàng đế tới chỗ ta và cho người đưa ta đi sửa soạn. Những người phụ nữ tắm rửa và mặc cho ta những thứ quần áo đẹp do chính ta thêu, và ngay trước khi dẫn ta ra đại sảnh, hoàng đế đến phòng của ta, cho người hầu lui ra, rồi đóng cửa lại sau lưng. ‘Ta có quà tặng nàng.’ Hoàng đế đưa cho ta chiếc khăn mà ta đã tặng cho chàng trai trẻ. Nó đã được giặt sạch và là phẳng, nhưng rất nhiều mũi thêu tinh xảo đã bị đứt. Nước mắt ta lăn dài.

“‘Một sự việc thú vị đã xảy ra đêm qua. Dường như một con ngựa cày đã vào sân cung điện, choàng chính chiếc khăn này. Nó đã gây nhiều tiếng động đến nỗi lính canh đưa nó đi và nhốt trong chuồng ngựa. Sáng hôm sau, chúng ta kinh ngạc khi thấy trong chuồng không phải là một con ngựa mà là người thợ dệt lụa. Chúng ta đã hỏi gã xem gã đã dùng phép thuật gì và vì sao gã vào đó. Gã không chịu nói. Gã từ chối chia sẻ lý do lẻn vào chỗ của ta vào lúc nửa đêm.’

“Hoàng đế chạm khẽ chiếc khăn lên mặt ta và nói, ‘Ta chỉ có thể giả sử rằng gã đến đây để ám sát ta. Thật may cho nàng là chồng-tương-lai của nàng được an toàn.’

“Trước khi kịp ghìm lại, ta đã buột miệng, ‘Anh ấy không đến để giết bệ hạ!’

“Hoàng đế nghiêng đầu ngẫm nghĩ. ‘Không phải ư? Nàng có chắc không? Nàng biết gã hơn tất cả mọi người ở đây. Có lẽ gã đến đây vì lý do nào khác. Nàng nghĩ vì sao gã lại tới đây nào?’

“‘Thiếp... thiếp chắc là anh ấy chỉ mang thêm chỉ cho thiếp mà thôi. Có lẽ anh ấy bị thầy phù thủy yểm, và anh ấy cần được giúp đỡ.’

“‘Hừm... một gợi ý thú vị đấy. Nhưng tại sao gã lại tới chỗ nàng chứ không phải là gia đình gã nhỉ? Hay tới chỗ một trong các lính canh chẳng hạn?”

“‘Thiếp... không biết.’

“‘Đi theo ta,’ hoàng đế nói.

“Hoàng đế buộc ta đứng bên cửa sổ nhìn ra vườn thượng uyển. Tình yêu của ta bị trói vào một cây cột, còn một người đàn ông đứng gần đó cầm cây roi. Hoàng đế đột ngột giơ tay lên rồi hạ xuống. Ta nghe tiếng roi rít trong không khí và nhăn nhó tưởng chừng như chính mình có thể cảm nhận được sự rát bỏng của sợi dây đang xé rách lưng người thương. Hoàng đế thì thầm lạnh lùng, ‘Nàng nghĩ rằng ta không nhận ra đường kim mũi chỉ của nàng sao? Nàng đã trao gửi tình cảm cho người đàn ông đó.’ Ta rúm lại khi nghe tiếng roi tiếp tục rít lên.

“‘Xin bệ hạ đừng làm đau anh ấy,’ ta van xin.

“‘Nàng có thể kết thúc sự tra tấn ấy ngay khi nàng muốn. Chỉ cần nàng nói với ta rằng ta đã lầm và rằng kẻ kia không đến đây vì nàng. Rằng tất cả chuyện này chỉ là hiểu lầm. Và... nàng phải nói thật to để tất cả cùng nghe.’

“Ta nghe tiếng rên rỉ của người ta yêu và ta quay sang hoàng đế. ‘Chàng trai trẻ kia...’

“‘Nói to lên nào. Sao cho tất cả mọi người ngoài đó có thể nghe thấy nàng.’

“‘Chàng trai trẻ đó không đến đây vì thiếp, và thiếp không có tình ý với anh ta! Thiếp không mong muốn nhìn thấy anh ta bị đau đớn! Anh ta chỉ là một người thợ dệt lụa nghèo khó và tầm thường. Thiếp không bao giờ hứa hẹn với một kẻ tầm thường và nghèo khó như vậy. Xin hãy để anh ta đi!’

“Tình yêu của ta ngước lên nhìn ta, đôi mắt của chàng như bừng cháy bởi sự phản bội. Ta những muốn được hét lên rằng đó chỉ là lời nói dối. Rằng ta có yêu chàng. Rằng ta chỉ muốn được ở bên chàng, nhưng ta giữ yên lặng, hy vọng cứu được mạng sống của chàng.

“‘Ta chỉ cần nghe có thế,” hoàng đế nói. Người thét lên ra lệnh cho quân lính, ‘giải phóng cho gã kia khỏi sự khốn khổ đi.’

“Hoàng đế giơ tay lên và làm một cử chỉ quất vào không khí. Người đàn ông với cây roi tránh sang bên nhường chỗ cho hàng lính cầm cung tên. Chúng giương cung lên và bắn ngập đầy những mũi tên lên ngực tình yêu của ta. Chàng chết đi mà tin rằng ta không quan tâm tới chàng, rằng ta không còn yêu chàng nữa. Ta ngã gục xuống sàn nhà trong tuyệt vọng, còn hoàng đế đe dọa ta, ‘Hãy nhớ bài học này, con chim nhỏ của ta. Ta sẽ không chịu làm người chồng bị cắm sừng. Giờ thì... hãy sửa soạn tươm tất để làm đám cưới.’

“Khi hoàng đế bỏ đi, ta nằm phủ phục trên sàn nhà và khóc cay đắng. Giá mà ta tin vào điều ta không thể hiểu. Nếu như ta không hèn nhát, tình yêu của ta và ta hẳn đã trốn thoát và sống một cuộc sống hạnh phúc bên nhau. Chàng đã hóa thành ngựa. Chàng đã ở bên ta, gần ta, suốt cả thời gian đó, và ta khước từ không chịu nhìn thấy điều đó. Bởi vì ta thiển cận, ta đã mất tất cả.

“Sau đó, một người phụ nữ tốt bụng đặt tay lên vai ta và lau khô nước mắt với chiếc khăn lụa của mình. Bà nói rằng bà yêu thích những tác phẩm của ta và rằng tài năng của ta vẫn có thể có ích cho mọi người. Người phụ nữ đó là Durga. Bà đề nghị đưa ta đi xa, giúp ta thoát khỏi tên hoàng đế, nhưng nói rằng ta không bao giờ có thể quay lại với cuộc đời trần thế. Bà nhặt chiếc khăn lụa vàng mà ta đánh rơi và nói với ta rằng chàng thợ dệt lụa của ta sẽ luôn ở gần ta, bởi ta đã khâu yêu thương vào từng đường kim, mũi chỉ.

“Vậy là ta ngồi đây. Ta là Nàng Tằm. Vẫn cuốn trong chiếc kén của đau thương. Thêu hoài thêu mãi. Ta thêu để kết nối người khác, còn ta vẫn mãi cô đơn. Ta kết những sợi chỉ vào nhau, để mang đến cho sự tồn tại của ta chút ý nghĩa và mục đích. Nó mang lại cho ta chút hạnh phúc được giúp người khác se bện cuộc đời với nhau.” Bà cúi lại gần. “Nhưng bây giờ ta nói với cô, cô gái trẻ, không có tình yêu – cuộc đời chẳng là gì cả. Không có bạn đời, người ta tuyệt đối cô đơn.” Bà buông khung thêu và nắm tay tôi. “Trên hết, ta xin cô hãy tin vào người cô yêu.”

Bà cầm sản phẩm đã hoàn thành của tôi lên. “Đây, bây giờ. Cô thấy chưa? Cô đã làm việc rất hoàn hảo.” Bà mỉm cười. “Đã đến lúc cô quay về. Hãy mang cái này theo cô.”

Bà tháo tấm vải mà bà đang thêu khỏi khung, cẩn thận gấp lại, và ấn vào tay tôi. “Nhưng cháu...”

Bà đưa mắt nhìn khiến tôi im lặng và dẫn tôi lại chỗ bức tường. Giơ bàn tay tinh tế, bà lướt ngón tay dọc theo những sợi chỉ thêu. “Hôm nay, ta không thể nói gì thêm về chuyện này nữa. Nỗi buồn của ta lớn quá. Đã đến lúc cô đi rồi. Hãy đi theo những con tằm, cô gái trẻ.”

Bà úp một bàn tay lên bức tường, và khi bà bỏ tay ra, một con tằm trắng đung đưa trên sợi chỉ. Khi con tằm tiến lên dọc theo vệt chỉ, tôi quay lại để chào tạm biệt, nhưng Nàng Tằm đã biến mất rồi. Con tằm chậm rãi tiến đến một vết nứt trên tường rồi chui vào bên trong. Tôi thận trọng chạm vào vết nứt đó. Trước tiên là các ngón tay rồi lần lượt cả bàn tay tôi biến vào bức tường. Thở một hơi thật sâu, tôi bước lên trước và thấy mình bị bao bọc trong bóng tối.