• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Hành trình của hổ
  3. Trang 17

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 16
  • 17
  • 18
  • More pages
  • 30
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 16
  • 17
  • 18
  • More pages
  • 30
  • Sau

14Những con rồng và lục địa mất tích

T

ôi đưa tay ra phía trước, bước đi dò dẫm trong bóng tối, và thốt lên khi cảm thấy những ngón tay ấm áp chạm vào tay tôi. Tôi thuận theo bàn tay kéo tôi nhẹ nhàng, để nó dẫn mình tiến lên phía trước cho tới khi tôi va phải một rào cản. Lần tay theo bề mặt của nó, tôi tìm kiếm một khoảng hở. Bàn tay nắm tay tôi kéo mạnh hơn và lôi bật tôi ra khỏi bóng tối. Tôi va vào một bộ ngực đàn ông rất rắn chắc vạm vỡ, trong khi hai cánh tay đỡ sát lấy tôi. Tôi quay trở lại căn phòng chính của đền.

Tôi chớp mắt và ngước nhìn khuôn mặt của người đã giải thoát tôi. “Ren.”

“Em ổn chứ?”

“Vâng. Cám ơn anh.”

Anh thở ra nhẹ nhõm và thoáng chạm vào một lọn tóc tôi.

Tôi đang định hỏi anh một câu thì nghe có tiếng nói to, “Kells à? Bác Kadam! Cháu nghe thấy cô ấy rồi!”

Từ một gian phòng khác, bác Kadam và Kishan nhanh chóng tiến lại gần.

Kishan kéo tôi khỏi vòng tay của Ren và ôm lấy tôi. “Em ở đâu thế?” Anh quay sang hỏi Ren. “Làm sao anh tìm được cô ấy?”

Ren đáp. “Anh không biết. Hình chạm trổ một con ngựa quấn khăn quanh cổ xuất hiện trên bức tường này, mà lúc trước không hề có. Con ngựa hóa thành một người đàn ông chỉ vào một hình chạm trổ khác cũng mới xuất hiện. Đó là hình Kelsey ngồi trên một chiếc ghế bên cửa sổ và thêu thùa. Khi anh chạm vào đó, bàn tay anh chìm vào bức tường. Thế rồi, hình ảnh chạm trổ của Kelsey bỗng đứng lên và tiến về phía anh. Anh chìa tay ra, chạm vào ngón tay cô ấy và kéo cô ấy lại gần. Rồi thì cô ấy đứng trước mặt anh.”

Kishan nói khẽ. “Em không sao chứ, bilauta? Em có bị thương không?”

“Không, em không sao. Em đã biến mất bao lâu?”

Bác Kadam tiến đến. “Cháu biến mất cả giờ đồng hồ rồi. Mọi người bắt đầu... lo lắng.”

Tôi có thể đọc thấy trên vẻ mặt bác rằng sự tình còn tệ hơn thế nhiều. Tôi ôm lấy Kishan và vỗ vỗ vào cánh tay Ren để an ủi mấy con hổ của mình. “Cháu đến thăm Nàng Tằm.” Tôi nhìn xuống chiếc khăn lụa gấp gọn ghẽ trên tay. “Đi thôi. Hãy quay trở lại thuyền. Cháu có nhiều chuyện để kể lắm.”

Chúng tôi nhanh chóng lên đường rời khỏi Đền Bờ và quay trở lại chỗ chiếc thuyền.

Kishan vòng tay ôm lấy tôi. “Anh đã rất lo Kells à.” “Không sao mà. Mọi thứ đều ổn cả, và chúng ta đã lấy được thứ chúng ta cần.”

“Anh không thích khi em biến mất như vậy. Bọn anh thậm chí không thể theo dấu em trên GPS. Em bốc hơi. Dấu chấm của em biến mất.”

“Em xin lỗi.” Tôi hôn lên má anh và siết cánh tay anh. “Cho tới khi phá bỏ được lời nguyền, thì những sự bất ngờ cứ sẽ xảy ra với rất cả chúng ta. Anh biết vậy mà.”

“Anh biết.” Anh nói và hôn lên trán tôi. “Anh chỉ ước giá như anh luôn có mặt ở đó để bảo vệ em. Rất bực mình nếu anh không thể làm được gì hết.”

Tôi gật đầu và tựa đầu lên vai anh. Ren đang quan sát chúng tôi. Anh nhìn tôi đầy suy tư trong một thoáng rồi quay đi, nhìn ra biển. Khi chúng tôi dừng lại gần con thuyền lớn, Ren nhảy ra đầu tiên và nhanh chóng biến mất vào lòng thuyền. Kishan nhảy ra sau giúp bác Kadam rồi chìa tay cho tôi. Chúng tôi đi tới phòng khách trong khi bác Kadam hỏi han Nilima về các nhân viên.

Chúng tôi ngồi xuống, bác Kadam ngồi trên ghế bành còn Kishan và tôi ngồi ở sô pha. Tôi hỏi, “Ren không muốn biết chuyện gì xảy ra ư? Cháu nghĩ là anh ấy có thể giúp chúng ta trong việc này.”

Bác Kadam đáp, “Bác có thể nói với cậu ấy mọi chuyện sau. Cậu ấy... chỉ muốn có mặt khi nào chúng ta thực sự cần cậu ấy.”

“Cháu hiểu.” Tôi ngậm miệng và thở dài bỏ cuộc, trước khi nắm lấy tay Kishan và chia sẻ câu chuyện về Nàng Tằm, bắt đầu với những đường chỉ mà tôi lần theo trên bức tường và kết thúc với việc thoát ra khỏi bức tường ấy. Bác Kadam và Kishan im lặng trong suốt câu chuyện. Khi tôi kể xong, tôi chìa món quà bằng lụa cho bác Kadam xem. Bác thận trọng mở nó ra.

Đó là một chiếc kimono bằng lụa đen. Lưng áo thêu tay hình năm con rồng hết sức chi tiết. Trông chúng giống như những con rồng Trung Hoa. Thân mình dài, uốn khúc và cuộn lại. Chúng có râu, lưỡi dài và bốn chân ngắn có móng vuốt. Ở góc trên, bên trái chiếc áo là hình bản đồ có bảy chấm và các biểu tượng. Bác Kadam nghiên cứu thân trước chiếc áo một cách kỹ lưỡng, còn Kishan và tôi nghiên cứu thân sau.

“Đỏ, trắng, vàng kim, xanh lá và xanh lam. Đúng, đây chính là những con rồng của chúng ta.” Tôi lần theo các biểu tượng. “Kishan... anh nhìn này.” Tôi chỉ vào con Hồng Long. Trông như thể nó đang bước đi trên các vì sao vậy. Một biểu tượng khác bao quanh mỗi con rồng: những vì sao, những đám mây, chớp, sóng, và những bông tuyết. “Em tự hỏi nó có ý nghĩa gì.”

Bác Kadam đặt chiếc kimono xuống và đi tới chỗ bàn viết, mở khóa một ngăn đựng tài liệu và lấy một số giấy tờ. “Bác tin rằng chúng ta đang nhìn vào một tấm bản đồ với những chỉ dẫn. Nó cho chúng ta biết chúng ta cần tới đâu và cần tìm con rồng nào trước tiên.”

“Làm sao mà bác biết vậy?” Tôi hỏi.

“Có bảy chấm tượng trưng cho bảy ngôi đền. Chấm này chính là Đền Bờ. Có những con số tương ứng được viết bằng tiếng Trung cạnh mỗi ngôi đền. Cháu thấy ở đây không? Đền Bờ được đánh số một bên cạnh đây.”

Bác vẽ một hình thù bắt đầu từ biểu tượng trông như dấu ngắt và di chuyển từ chấm này sang chấm khác theo thứ tự số Trung Hoa.

a1

“Đó là một ngôi sao!” Tôi tuyên bố. “Đúng thế, bác cũng tin là vậy.”

“Vậy thì, bác Kadam, bác đang nói rằng chúng ta nên tìm con rồng đầu tiên ở ngôi đền hoặc ngôi chùa thứ hai phải không ạ?”

“Đúng vậy.”

“Có một vấn đề nhỏ với giả thuyết của bác.” “Đúng, bác biết.”

Đồng thanh, chúng tôi nói, “Chỉ có năm con rồng.” Kishan ghé lại. “Em nghĩ điều gì sẽ chờ đợi chúng ta ở ngôi đền cuối cùng nào?”

Bác Kadam áp hai bàn tay vào nhau và ngồi ngả ra sau, ngẫm nghĩ. Cuối cùng, bác nói, “Bác nghĩ rằng mối nguy hiểm không nhất thiết đến từ những con rồng mà là từ những gì chúng ta tìm được ở ngôi đền cuối cùng. Trong thần thoại Trung Hoa, rồng được tôn sùng vì phù trợ và giúp đỡ, đặc biệt là rồng nước.”

“Thế thì tại sao chúng ta phải đi đúng thứ tự chứ? Nếu chúng ta biết Chuỗi Ngọc Durga được cất giấu ở ngôi đền cuối cùng, thì tại sao chúng ta không tới thẳng đó để lấy cho xong?” Tôi hỏi.

Bác Kadam lắc đầu. “Không. Các chỉ dẫn được trao cho chúng ta là có ý cả. Có lẽ những con rồng sẽ dẫn lối hoặc giúp chúng ta tìm tới ngôi đền tiếp theo. Các cháu không thể bỏ qua bốn ngôi nhà ở Shangri-la. Các cháu phải được thử thách ở từng ngôi nhà trước khi chứng tỏ mình xứng đáng để tiếp tục. Bác ngờ rằng đối diện với các con rồng cũng là một thử thách tương tự.”

Tôi rên lên. Bác Kadam bắt đầu kể cho chúng tôi nghe những mẩu chuyện về rồng, và trước khi bác kịp để ý, tôi đã ngủ thiếp đi trên vai Kishan.

Tôi thức dậy khi bác Kadam cười khẽ. “Sao hai cháu không ngủ đi, bác sẽ nghiên cứu thêm chút nữa. Ngày mai, bác sẽ dạy lại cho các cháu những gì bác đã tìm hiểu được về bảy ngôi đền. Gặp bác ở đây sau bữa sáng nhé.”

Kishan khẽ siết tay tôi khi tôi gật đầu ngái ngủ. Chúng tôi chúc bác ngủ ngon, và Kishan đưa tôi về phòng.

Sau khi đã đánh răng và thay quần áo ngủ từ trong phòng tắm bước ra, tôi thấy Kishan ngả mình trên giường và chỉ mặc có chiếc quần dải rút trễ hờ trên hông.

“Ờ... chuyện gì vậy?” Tôi lắp bắp căng thẳng.

Anh chớp đôi mắt vàng kim và nhìn tôi. “Anh nghĩ chúng ta có thể dành chút thời gian bên nhau nếu em không quá mệt.”

“Ồ.”

Anh vỗ vào bên cạnh chỗ anh ngồi, tôi lưỡng lự tiến lại.

Mình bị làm sao thế nhỉ? Anh ấy là bạn trai mình, phải không nào? Nếu như người ở trên giường là Ren hẳn là mình đã không dừng lại. Tại sao mình lại căng thẳng thế với Kishan?

Anh quan sát tôi với sự tò mò pha lẫn thoáng buồn, vậy nên tôi xóa đi ý nghĩ vẩn vơ trong đầu và nằm xuống bên anh. Anh choàng tay quanh tôi, ôm sát tôi vào vầng ngực rộng và ấm áp, xoa xoa lưng cho tôi. Tôi thấy thư thái hơn và cơn buồn ngủ ập đến.

“Có chuyện gì thế?” Anh hỏi khẽ.

“Chẳng có gì đâu. Thật đấy. Em đoán là em chỉ căng thẳng một chút.”

Tôi nghe có tiếng rung trong ngực anh. “Em không cần phải lo lắng với anh, Kells. Anh sẽ không bao giờ làm em tổn thương.”

Trong đầu tôi lóe lên một đốm lửa xanh. Tôi được ôm ấp trong vòng tay Ren khi anh nói những lời y hệt như thế. Anh hy vọng em hiểu rằng anh không bao giờ làm tổn thương em, Kells. Tim tôi lỗi nhịp. Trong một giây tôi cảm thấy như tim mình sẽ bị xé làm hai.

Tôi choàng tay lên ngực Kishan và ôm lấy anh. “Em biết anh sẽ không bao giờ làm tổn thương em. Việc hai người đang tìm hiểu nhau cảm thấy... lưỡng lự và hơi vụng về là chuyện bình thường. Anh đừng lấy thế làm phiền. Em thích ở gần anh như thế này.”

“Tốt lắm,” anh nói khẽ, “bởi vì anh sẽ không đi đâu đâu.” Anh cầm lấy tay tôi và áp lên ngực mình, giữ chặt nó ở đó. “Em có mệt không?”

Tôi gật đầu. “Anh không mệt sao?” “Chưa mệt. Em cứ ngủ đi.”

Tôi nằm thoải mái gối lên vai anh và ngủ, không hề biết gì kể cả khi anh hóa hổ.

Sau bữa sáng của ngày hôm sau, chúng tôi gặp bác Kadam, bác đã rút ra các nghiên cứu về Thành phố Bảy Ngôi Đền.

“Những câu chuyện đầu tiên được ghi lại về thành phố này là những ghi chép của ông John Goldingham vào năm 1798. Ông này viết, bảy ngôi đền được xây dựng ở gần biển. Hoặc là những ghi chép của ông dựa trên những gì ông nghe kể lại hoặc những ngôi đền này còn chưa bị chìm dưới nước ở thời điểm đó.

“Như bác đã nói lúc trước, người ta đồn rằng, Marco Polo đã đặt chân đến thành phố này bởi nó được liệt kê trên một trong những tấm bản đồ Catalan năm 1275 của ông, nhưng không có lưu trữ nào còn lại. Điều khiến bác quan tâm nhất về thành phố này là những mối liên hệ mà bác tìm được với Shangri-la.”

“Chính xác thì nó có liên quan như thế nào tới Shangri-la ạ?” Tôi hỏi.

“Cháu có nhớ những xã hội không tưởng mà chúng ta đã tìm kiếm và câu chuyện về trận lụt có những mối liên hệ chung trong mọi nền văn hóa hay không?”

“Có ạ.”

“Ở Shangri-la, cháu tìm thấy những điều xuyên suốt truyền thuyết của nhiều tộc người. Quạ Hugin và Munin của người Bắc Âu, những nàng tiên cá của người Hy Lạp, Thầy Giáo Đại Dương ở Tây Tạng, Những Cánh Cổng Linh Hồn ở Nhật Bản, hay thậm chí Kappa của người Trung Hoa ở Kishkindha... tất cả những điều đó vượt ra ngoài biên giới của Ấn Độ và kết quả là, bác bắt đầu khám phá về các thành phố chìm dưới đáy đại dương trong các nền văn hóa khác. Thành phố nổi tiếng nhất chính là...”

“Atlantis.”

Bác Kadam mỉm cười với tôi. “Đúng rồi. Atlantis.” “Atlantis là gì thế?” Kishan hỏi.

Bác Kadam quay sang phía anh. “Người ta vẫn nghĩ rằng Atlantis là một sáng tạo giả tưởng của Plato, mặc dù có những học giả tin rằng câu chuyện này dựa trên thực tế. Theo như câu chuyện, thì hòn đảo Atlantis là một vùng đất xinh đẹp thuộc sở hữu của thần Poseidon. Vua của hòn đảo này là con trai của Poseidon, Atlas, chính là nguồn gốc cái tên của hòn đảo. Tương truyền, hòn đảo còn lớn hơn lục địa Úc châu, nằm ở đại dương Atlantic, cũng là cái tên có nguồn gốc từ Atlas, nằm ngoài khơi cách Trụ Chống Trời của Hercules, hay eo biển Gibraltar, vài dặm.

“Poseidon rất tự hào về con trai của mình và về những người dân mạnh mẽ và dũng cảm sống trên đảo. Mặc dù thiên đường này đã mang đến cho những người dân mọi thứ họ mong muốn, họ vẫn trở nên tham lam và muốn nhiều hơn. Họ biết có những vùng đất trù phú nằm cách đó không xa, nên người Atlantis đã thành lập quân đội và bắt đầu chinh phục các vùng lãnh thổ nằm bên trong Trụ Chống Trời của Hercules. Bản thân điều này được các vị thần tha thứ, nhưng những người Atlantis còn ép buộc những người bị chinh phạt làm nô lệ.

“Các vị thần họp bàn để thảo luận về việc đã xảy ra, và các bước được tiến hành để can thiệp vào việc đó. Động đất, hỏa hoạn, ngập lụt được tạo ra để làm chùn chân những người Atlantis, nhưng lòng tham quyền lực và của cải quá nặng nề khiến họ từ chối thay đổi cung cách của họ. Cuối cùng, các vị thần buộc Poseidon hủy diệt Atlantis. Thần biển dâng sóng và tạo ra những trận động đất để xé toạc vùng đất này. Trong cơn giận, thần biển đã quẳng các mảnh của hòn đảo khắp đại dương, nơi chúng chìm vào quên lãng. Atlas, vốn là một nhà toán học và thiên văn học thông thái, đã bị các vị thần trừng phạt và buộc phải đội trên vai sức nặng của cả bầu trời.”

“Đợi một phút, cháu cứ nghĩ là Atlas phải gánh sức mạnh của trái đất trên vai,” tôi nói.

“Không đâu. Thực ra, Atlas phải chống đỡ cả bầu trời. Homer có nói rằng Atlas là ‘người biết được độ sâu của đại dương, nắm cao độ của những cây cột, và chống đỡ cả đất trời.’ Điều ấy được nói ra khi Atlantis đã bị hủy diệt và xé thành từng mảnh nhỏ. Atlas cảm thấy sự tuyệt vọng và thống khổ bao trùm những thần dân của mình. Các vị thần thất vọng vì Atlas, và, tệ hơn cả, Atlas đánh mất sự tôn trọng của cha mình. Cứ mỗi mảnh bị xé toạc ra, Atlas lại cảm thấy như lồng ngực chính mình bị xé rách. Atlas buồn khổ bởi phải chịu sức nặng của thành đô bị đánh mất của mình. Đó là lý do vì sao rất nhiều bức hình về Atlas lại thể hiện thần cúi đầu tuyệt vọng trong khi làm nhiệm vụ của mình.”

“Cháu đâu biết. Giờ bác nói rằng còn những thành phố bị nhấn chìm khác nữa. Cháu chưa từng nghe nói tới thành phố nào khác.”

“Có rất nhiều thành đô bị nhấn chìm. Nhiều hơn những gì bác có thể liệt kê. Mỗi câu chuyện mà bác tìm ra lại dẫn bác tới những câu chuyện khác. Có đô thành Meropis, theo lời kể của Theopompus; có lục địa mất tích tên gọi là Mu nằm sâu dưới lòng Thái Bình Dương, giữa Polynesia và Nhật Bản; có Lemuria, vùng đất bị lãng quên chìm đắm đâu có giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Rồi lại có cả Kumari Kandam, một vương quốc bị nhận chìm, có tên gọi là Vùng Đất Tinh Khiết ở mũi cực nam của Ấn Độ và Ys hay Ker-Is ở Britany. Người Đan Mạch có Vineta, người Ai Cập có Menouthis và Herakleion, Jamaica lại có Port Royal, và Argentina có Santa Fe la Vieja.

“Một số đô thành ấy đã được tìm thấy, và một số khác chỉ còn lại trong những chuyện kể được sẻ chia giữa những nền văn hóa khác nhau. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt ở đây là các cư dân đã chọc giận các vị thần và bị biển khơi trừng phạt. Rất nhiều truyền thuyết nói rằng để tìm kiếm các thành phố này thì trước hết cần phải tìm được những lời nguyền đã ám lên chúng.”

“Liệu có tồn tại một lời nguyền như vậy đối với Thành phố Bảy Ngôi Đền không ạ?” Tôi hỏi.

“Bác không biết nữa. Bác hy vọng là không. Có lẽ bằng cách dò theo hình thêu của Nàng Tằm, chúng ta có thể tránh trở thành nạn nhân của cùng số phận ấy. Có lẽ biển cả sẽ tha cho chúng ta.”

Bác Kadam trải ra các bức vẽ mà bác tìm được về năm con rồng. “Trong văn hóa Trung Hoa, mỗi con rồng đều được chỉ định một lãnh thổ riêng, mỗi con nằm ở một đỉnh của la bàn: Bắc, Nam, Đông, Tây. Như vậy sẽ còn lại con rồng thứ năm.”

“Có thể đó là con rồng tha hương hoặc nằm ở điểm giữa của la bàn ạ,” tôi gợi ý.

“Phải. Thực tế là, bác có nghe nói tới con rồng tha hương, nhưng bác ngờ rằng điểm giữa của la bàn sẽ chính xác hơn trong trường hợp này. Chúng cũng được gọi là những con rồng của năm đại dương.”

“Đó là năm đại dương nào vậy?”

“Đại dương phía bắc là Bắc Băng Dương, Thái Bình Dương nằm ở phía đông, phía tây là Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương nằm ở giữa và Nam Đại dương nằm ở phía nam.”

“Vậy là mỗi con rồng có một đại dương. Bác nghĩ là chúng ta phải tới từng đại dương hay sao?”

“Không. Bác tin rằng chúng ta sẽ tìm thấy thứ chúng ta muốn tìm ở đây. Có lẽ chúng sẽ được triệu hồi về đây.”

“Có thể chúng phải đi để tác nghiệp.”

Bác Kadam cười khô khan. “Phải. Có lẽ thế.”

Tôi cầm một tờ giấy có hình ảnh một màn múa rồng Trung Hoa lên. “Cháu đã từng xem một trong những điệu múa như thế khi cháu đến dự đám cưới cùng Li.”

Tôi đưa tấm hình cho Kishan trong khi bác Kadam gật đầu và giải thích, “Thường chúng ta thấy các màn múa rồng vào dịp năm mới của người Hoa. Nó tôn vinh rồng và cầu mong rồng mang đến những điều tốt đẹp trong năm mới. Rồng mang mưa tới, trông chừng hệ thống đường thủy, canh giữ báu vật và mang lại sức khỏe, sự sung túc, tài lộc và màu mỡ. Hàng thế kỷ trôi qua, người Trung Hoa thậm chí còn gọi mình là con Rồng cháu Tiên.

“Vào ngày cưới, cặp tân lang tân nương cầu nguyện xin rồng ban phước cho đám cưới; vào dịp năm mới, người người đều cầu xin điều đó. Tình cờ, bác cũng có nghiên cứu thêm về màu sắc. Có vẻ như mỗi màu sắc đều có một quyền năng và đặc tính khác nhau. Rồng đỏ và đen rất dữ dội và có tính hủy diệt. Chúng có thể gây nên những cơn bão tàn bạo; chúng đấu với nhau trong các đám mây và tương truyền chính là nguồn cơn của sấm chớp.

“Rồng đen được coi là xấu xa và dối trá. Màu đỏ kết hợp với tất cả các biểu tượng có màu đỏ: máu, sự tức giận, cuồng nộ, tình yêu, lửa, sự nồng nàn, núi lửa. Màu lam thì bình an hơn. Chúng như đá và nước mát. Màu vàng kim là vua và hoàng hậu của rồng; chúng tích trữ của cải. Màu xanh lá có thể làm lành vết thương và sự an lạc, nhưng cũng có thể tạo nên động đất, phun a xít cũng như ăn thịt người. Rồng trắng suy tư và thông thái: hiếm khi người ta thấy chúng, chúng chỉ nói nửa sự thật, là điềm báo cái chết và vảy của chúng bóng như gương.”

“Nghe hay đấy.”

Kishan choàng tay quanh tôi và bóp nhẹ vai tôi.

“Hãy nhớ, Kelsey à, đó là tất cả các nghiên cứu. Những con rồng của cháu có thể tương tự mà cũng có thể hoàn toàn khác.”

“Cháu biết ạ.”

“Một nửa những nghiên cứu về bí ngô của bác không bao giờ áp dụng được, cháu nhớ không?”

“Vâng. Cháu nhớ chứ. Nhưng có chuẩn bị trước vẫn hay hơn.”

Kishan gợi ý, “Có lẽ bác nên nói qua về cách diệt rồng, để đề phòng.”

Bác Kadam đồng ý và tiếp tục nói thêm hai giờ nữa mô tả đủ loại rồng và xu hướng của chúng. Bác nói về vua rắn của Ấn Độ, về những cung điện pha lê dưới đáy đại dương nơi rồng ăn trong đĩa trai, bát ngọc, và được phục dịch bởi đám cá cua.

Bác tả về các hình thái thời tiết do rồng gây nên chẳng hạn như vòi rồng, bão lớn và những trận cuồng phong. Bác nói về rồng có râu, rồng lông lá, rồng đuôi dài, rồng đuôi cụt, rồng bốn vuốt, rồng năm vuốt, một số loài biết bay, số khác sống trong hang, một số loài rồng phun ra lửa và bác đọc tên của chúng: Ao Guang, Ao Qin, Ao Run, Ao Shun, những con rồng Trung Hoa ứng với bốn đỉnh la bàn. Bác không biết tên con rồng thứ năm.

Bác Kadam hài lòng khi chúng tôi đã biết mọi thông tin về loài rồng, bác gợi ý chúng tôi đi lên chỗ buồng lái để ngó qua vài chiếc bản đồ của thuyền trưởng. Khi tôi nhắc tới việc ăn trưa ở boong trên, bác nói rằng chúng tôi phải nhờ vào Quả Vàng bởi vì bác đã cho tất cả nhân viên lên bờ nghỉ một ngày, kể cả thuyền trưởng và trợ lý số một của ông.

Tôi lấy Quả Vàng trong khi bác Kadam thận trọng thu thập các ghi chép của mình và khóa chúng lại trong ngăn tài liệu. Sau đó ba chúng tôi đi lên buồng lái. Bác mang theo chiếc áo kimono để chúng tôi có thể so sánh với bản đồ. Khi tới nơi, bác lấy ra một tấm bản đồ tráng nhựa rất lớn của toàn vùng Vịnh Bengal. Quả Vàng xuất ra bánh mì kẹp, và một khay dưa thái lát mà tôi đem mời bác Kadam nhưng bác vẫy tay xua nó đi, bác tập trung cao độ khi nghiên cứu bản đồ. Kishan và tôi ăn mà không đợi bác.

Khi ăn xong, tôi cầm chiếc kimono lên và lần theo con rồng đỏ trước khi trải áo xuống, mặt có hình con rồng được úp xuống, ở kệ phía trên một hàng các màn hình điều khiển. Tôi đặt ngón tay lên Đền Bờ và lần theo đường khâu bên trên chấm đỏ, chấm đầu tiên của bảy ngôi đền. Chấm đỏ lớn dần và bàn tay tôi bắt đầu ánh lên. Sợi chỉ tuột ra và bắt đầu tự thêu nhờ một mũi kim vô hình. Chúng biến mất ở bên mép áo kimono.

Tôi căng thẳng gọi Kishan và bác Kadam, cả hai đang cắm cúi vào chiếc bản đồ, trong khi tôi lật chiếc áo kimono lại. Những mũi chỉ đỏ vẫn tiếp tục di chuyển cho tới khi chúng tới được chỗ Hồng Long. Con rồng chớp mắt và gầm lên trước khi nằm xuống mặt vải.

Hoảng hồn, tôi thốt lên, “Cháu vừa làm gì thế nhỉ? Chuyện gì xảy ra thế?”

Bác Kadam vội vã tiến lại và đặt tay lên cánh tay tôi nhưng rồi khựng lại. “Cháu có cảm thấy không, Kishan?”

“Có ạ.”

“Cái gì thế? Cái gì thế ạ?” Tôi hỏi. Cả hai cùng quay về phía cửa sổ và nhìn ra đại dương.

“Ai đó nói cho cháu biết đi. Có chuyện gì xảy ra thế?” Kishan đặt tay lên vai tôi. “Con thuyền đó, Kells. Chúng ta đang di chuyển.”