• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Hành trình tình yêu
  3. Trang 10

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 31
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 31
  • Sau

Chương 7

Ngày hôm sau, Dora cảm thấy khá bải hoải. “Cháu đã có một khoảng thời gian vui vẻ và bây giờ cháu phải đối mặt với thực tại và đi tìm việc.” Cô ngán ngẩm nhìn vào danh sách các trung tâm giới thiệu việc làm mà cô đã in ra hôm trước. Sáng hôm đó họ đều dậy sớm.

“Cháu chỉ cần nhận công việc ở xưởng tàu là xong,” Jo nói, bà đang phân vân không biết phải bắt đầu sửa những tiểu thiên sứ bằng thạch cao như thế nào, ước ao rằng giá mà bà chỉ cần dùng kem bơ thôi. Bà đã dành cả ngày hôm qua để dọn dẹp loanh quanh, tận hưởng sự yên bình và tĩnh lặng, email cho Karen và ngẫm nghĩ về tương lai của mình, bà nhận ra bà đã lạc quan hơn một chút sau những cuộc tán gẫu với Miranda.

“Cháu biết,” Dora nói, “nhưng cháu cảm thấy cháu nên tìm kiếm ở nơi khác trước đã. Cháu có thể không muốn công việc ở xưởng tàu khi cháu biết nhiều hơn về nó, và lý do cháu đến sống với cô – hay ít nhất là cái lý do mà cháu đang nói với mọi người – là vì cháu muốn một công việc ở London.”

“Nghe này, hay là cô cùng đi lên thành phố với cháu nhỉ? Đằng nào cô cũng phải mua vài món vật liệu mà. Khi mỗi người đã làm xong việc của mình, chúng ta có thể ăn trưa ở đâu đó. Cô cũng cần ra ngoài một hôm. Mặt trái của việc có một khoảng thời gian thú vị là sau đó cháu có thể cảm thấy khá buồn chán.” Bà có cảm giác khoảng thời gian vui vẻ ở trường đua đã có tác động như vậy đến tinh thần Dora.

“Cháu hoàn toàn có thể đi một mình…”

“Dĩ nhiên! Nhưng cô muốn đi với cháu.” Jo cười. “Và có lẽ cô không muốn đi lên tận London mà không có người hộ tống.”

Dora cười khúc khích. “Vâng ạ.”

“Cháu hãy sắp xếp vài cuộc hẹn với các trung tâm đó đi. Để chúng ta còn tính xem nên xuất phát lúc nào.”

Sau khi Dora gọi điện thoại xong, họ về buồng riêng để chuẩn bị. Jo kinh hãi nhận ra bà không có loại quần áo nào đủ lịch sự để mặc đi London, và rồi nhớ ra rằng chỉ mình Dora cần tỏ ra lịch sự thôi. Bà có thể ăn mặc “theo kiểu nghệ sỹ”. Bà đeo thêm một chuỗi hạt và mấy chiếc khuyên tai có hình dạng con vẹt và rồi trở lại phòng khách trong khi bà chờ đợi Dora.

Dora đang mặc quần vải lanh và một chiếc áo phông bó sát màu đen. “Trông cháu có ổn không ạ? Đã lâu lắm rồi cháu chưa dự một cuộc phỏng vấn nào.”

“Hồi đó cháu mặc gì?”

“Một bộ vét màu xanh hải quân. Mẹ cháu đã mua nó cho cháu.”

“Cháu có mang bộ đồ đó theo không?”

“Không ạ. Ngoài thứ cháu mặc hôm qua, đã bẩn và cần được giặt, thì đây là bộ đồ lịch sự nhất mà cháu có.”

“Vậy thì trông cháu ổn lắm rồi. Xét cho cùng, đây chỉ là một cuộc tư vấn ban đầu thôi, cháu đâu có đi phỏng vấn ở một đại sứ quán. Trông cháu duyên dáng, gọn gàng, và thoải mái. Rất ổn.” Jo cảm thấy Dora đang lo lắng về việc phải thể hiện những kỹ năng của mình với những người lạ, và mặc dù nếu là bà thì bà sẽ mặc thêm một cái áo khoác hay đại loại thế, để khiến bà trông nghiêm túc hơn một chút, song bà không phải một cô gái đang trong độ tuổi đôi mươi. Nhưng Dora thì có. Con bé nên có vẻ ngoài trẻ trung.

“Cô nói đúng. Nhưng nếu cháu biết suy nghĩ, cháu đã giữ lại bộ đồ ổn nhất cho ngày hôm nay, chứ không mặc nó để đến trường đua một cách phí hoài như vậy.”

“Nhưng cháu đã rất vui mà.”

“Đúng thế ạ, và việc hoàn thành thách thức đầu tiên của Tom đã đem lại cho cháu sự tự tin. Hy vọng rằng sự tự tin của cháu sẽ còn kéo dài cả ngày hôm nay nữa!”

Họ ngồi đối diện nhau trên tàu hỏa. Dora nhìn ra ngoài cửa sổ, ngắm những khu vườn ngoại ô trôi qua bên đường, mỗi cái mang một vẻ khác nhau, có những khu vườn kiểu mẫu đẹp không tì vết, những khu khác lại chỉ là một nơi để vất xe đạp cũ, với những hồ bơi cạn rò rỉ và những chiếc bếp nướng gỉ sét.

“Cháu thích đi tàu hỏa,” cô nói, “khi cháu không phải tay xách nách mang, và không biết chắc cháu sẽ đi đâu.”

“Cô cũng thế,” Jo đồng ý.

“Vậy thì chúng ta có thể vui vẻ đi làm hằng ngày bằng tàu hỏa được,” Dora nói.

“Ừm. Cô không chắc là cô có thích đi lại thường xuyên bằng phương tiện công cộng không. Nhưng cô thích những buổi đi chơi.” Jo lục tìm trong chiếc túi rơm nhạt màu và lấy ra một tấm bản đồ A-Z. “Để xem những nơi chúng ta muốn đến nằm ở đâu nào. Địa chỉ của mấy trung tâm đó là gì?”

Dora đưa cho bà tờ giấy ghi địa chỉ. Sự lo lắng nổi lên rồi lắng xuống. Ngày hôm qua, sau khi hoàn thành xuất sắc thách thức đầu tiên, cô đã cảm thấy tràn đầy tự tin. Có lẽ khi cô vượt qua hết cả năm thách thức, sự tự tin sẽ kéo dài lâu hơn một chút.

“Tất cả đều khá gần trung tâm,” Jo nói. “Cháu đã hẹn cả ba nơi à?”

“Chỉ một nơi thôi ạ. Hai nơi kia thì ghé qua lúc nào cũng được. Cô muốn đi đâu?”

“Miranda bảo với cô rằng gần bảo tàng Anh có một cửa hàng nhỏ bán những vật liệu dành cho nghệ sĩ. Chúng ta sẽ chỉ cách nhau vài trạm tàu điện ngầm thôi. Cháu hãy gọi điện cho cô khi cháu xong việc và chúng ta sẽ tìm một nơi tử tế để ăn trưa.”

“Vâng, nghe hay đấy ạ. Giống như được nhận một phần thưởng sau khi đi khám nha sĩ vậy.”

“Chính xác,” Jo nói. “Cô luôn luôn tự thưởng cho mình một thứ gì đó sau khi cô đi khám nha sĩ, bác sĩ, hoặc bất cứ thứ gì như thế. Sau đó chúng ta có thể ghé vào cửa hàng Selfridges nếu chúng ta cảm thấy vẫn còn đủ sức.”

“Và thử nước hoa? Tuyệt vời! Điều đó sẽ rất thú vị.”

Jo nhớ lại những chuyến đi tương tự khi bà và Karen lên London trong một ngày và thử mỹ phẩm và quần áo; bà thực sự nhớ con gái, mặc dù Dora là một người thay thế không tồi.

Dora không thích thú gì khi bị ngồi trước một chiếc máy vi tính và làm một bài kiểm tra đánh máy. Cô là người đánh máy rất nhanh, cô biết, nhưng không hiểu sao sự hiện diện của một phụ nữ có làn da rất rám nắng với những vệt highlight chói mắt trên tóc khiến những ngón tay cô trơn trượt và trí óc cô tha thẩn khắp nơi.

Cô đến trung tâm mà cô đã gọi điện hẹn trước, cảm thấy mình có thể “tạt vào” với vẻ tự tin hơn nếu cô đã có một kinh nghiệm giắt lưng. Đáng lẽ cô nên nói với Tom rằng trước đây cô chưa từng đến một trung tâm giới thiệu việc làm nào và thuyết phục anh rằng đây sẽ là một thách thức tốt. Giờ cô đang gánh chịu sự tra tấn của một thứ đáng nguyền rủa mà chẳng đến gần hơn được chút nào với cái phần thưởng hiện vẫn còn vô danh của Tom.

Vấn đề là, sơ yếu lý lịch của cô rất ngắn, mới chỉ có một công việc, và cô không có bằng đại học. Nó có vẻ là thứ bắt buộc với các trợ lý riêng năng động ngày nay.

Cô biết cô đã ăn mặc hoàn toàn không phù hợp ngay khi cô bước qua cửa và tự nguyền rủa mình một lần nữa vì đã mặc bộ đồ duy nhất thích hợp cho một cuộc phỏng vấn vào ngày hôm qua.

Ban đầu chính điều hòa nhiệt độ được mở với công suất cực mạnh đã làm cô khó chịu. Đó là một ngày nắng, nhưng không đến nỗi quá nóng. Cô cảm thấy bình thường khi ở ngoài trời nhưng lúc cô bước vào, văn phòng này giống như một cái tủ lạnh. Cô gái ngồi sau bàn làm việc đang mặc một cái áo vét bằng lụa và có đôi tay mảnh dẻ. Mái tóc xoăn bồng bềnh của cô ta có những vệt highlight màu vàng hoe khá lớn và hình như thường mua vé mùa của một tiệm nhuộm da gần nhà. Cô ta rõ ràng không cảm thấy lạnh.

“Vâng?” Cô ta liếc nhìn bộ đồ không thích hợp lắm của Dora và lập tức nhận ra sự thiếu tự tin ở cô, và chẳng làm gì để giúp Dora cảm thấy khá hơn.

“Tôi có hẹn trước. Lúc nãy tôi đã gọi điện. Lúc mười rưỡi,” cô nói thêm.

“Tên?”

Dora xưng tên, cố gắng không nói, “Vâng, tôi có một cái tên”.

“Ừm, tôi là Charlene. Đưa cho tôi sơ yếu lý lịch của cô. Ồ, cô nên ngồi xuống đi.”

Dora ngồi xuống, nghĩ rằng người phụ nữ này cần phải xem lại những kỹ năng giao tiếp, ứng xử của mình.

Charlene liếc vào sơ yếu lý lịch của Dora trong một giây trước khi nói, “Cô nên làm một bài kiểm tra đánh máy. Hãy lại cái máy vi tính đằng kia. Đây là bài kiểm tra.” Cô ta lấy ra một tờ giấy từ ngăn kéo mà không thèm nhìn vào nó.

Dora tới chỗ máy tính và lập tức nhận ra đó không phải là chương trình mà cô quen thuộc. Giữ bình tĩnh, cô thầm nhủ, dễ thôi mà. Những chương trình máy tính không được lập ra để đánh đố người khác, chúng được lập ra để giúp ích. Mặc dù cô đã tự nhủ điều này với tất cả sức thuyết phục mình có thể có, trong thâm tâm cô biết rằng chương trình này, trên chiếc máy tính này, thực sự là một cái bẫy khổng lồ. Cô chùi tay vào quần, không còn nghĩ rằng nhiệt độ trong phòng quá khắc nghiệt nữa.

Cuối cùng cô cũng tìm được cách tạo ra một tệp tin mới.

“Cô đã sẵn sàng chưa?” Charlene hỏi.

“Rồi,” Dora nói với giọng lí nhí.

Charlene bấm đồng hồ bấm giờ. “Được rồi, bắt đầu.”

Dora gõ từ từ để bảo đảm sự chính xác và cố gắng tập trung nhưng cứ bị phân tâm bởi thứ tiếng Anh thậm tệ của bức thư mà cô đang đánh máy. Cô muốn cắt bớt những sự lặp lại không cần thiết và cách đặt dấu chấm câu tồi tệ nhưng nghĩ rằng mình không nên làm thế. Cô đã đảm nhiệm toàn bộ việc viết thư ở chỗ làm cũ khoảng một tuần sau khi bắt đầu đi làm. Ngữ pháp và nghệ thuật chấm câu là một trong vài kỹ năng của cô, nhưng, cô nhận ra, chúng không phải là những khả năng có thể đem lại sự thành công rực rỡ.

Charlene bấm đồng hồ lần nữa và khi Dora in bài kiểm tra ra và nộp cho cô ta, cô ta quăng ánh nhìn từ đôi mắt đã trang điểm hoàn hảo lên tờ giấy.

“Được rồi,” cô ta nói, ném bài kiểm tra lên một đống giấy tờ và không thèm nói cho Dora biết cô có làm tốt hay không. “Cô đang tìm kiếm loại công việc gì?”

Dora định nói, “Trong một văn phòng bất động sản nhỏ nơi tôi sẽ hiểu rõ công việc tôi đang làm,” nhưng nghĩ rằng cô gái tóc vàng kia sẽ coi thường cô nếu cô làm thế. “Như chị sẽ thấy trong bản sơ yếu lý lịch của tôi, tôi chỉ có kinh nghiệm với các đại lý bất động sản…”

“Thực tế là chỉ có một văn phòng bất động sản thôi.”

“Vâng, do vậy đó sẽ là lựa chọn đầu tiên của tôi, nhưng tôi sẵn sàng lắng nghe gợi ý của chị.” Cô mỉm cười, hy vọng Charlene sẽ cười đáp lại.

Có lẽ khuôn mặt cô ta mới được tiêm Botox nên cô ta không thể cười nổi, bởi vì Charlene chỉ gõ móng tay lên mặt bàn trong khi nhìn Dora chằm chằm. Dora tự hỏi phải chăng cô ta đã bôi bút xóa vào móng tay trong lúc buồn chán, nhưng rồi nhận ra có lẽ cô ta đã chi rất nhiều tiền để tạo cho chúng một vẻ vuông vức, các đầu móng tay xòe ra như những lưỡi xẻng nhuộm trắng ở phần đầu. “Chà, chúng tôi không có công việc nào như thế vào lúc này. Vấn đề là, kinh nghiệm của cô rất hạn chế, đúng không? Cô bị sa lầy trong công việc đầu tiên cô được đề nghị. Cô thậm chí không có công việc làm thêm vào thứ Bảy ở bất cứ đâu.”

Dora muốn nói rằng cô không có lỗi gì khi không thể làm thêm vào thứ Bảy bởi vì “việc học của cô quá quan trọng”, và đó cũng không phải là công việc đầu tiên mà cô được đề nghị, mọi người khắp thị trấn đã năn nỉ cô gia nhập với họ, nhưng điều đó không đúng sự thực. “Tôi thích công việc của tôi. Tôi làm khá tốt.”

“Vậy tại sao cô nghỉ việc?”

Không đời nào cô giãi bày tâm sự với người phụ nữ này. “Tôi đã nói rồi. Tôi muốn một việc gì đó ở London, một việc gì đó hơi – mang tính thử thách hơn. Xét cho cùng, chị không thể mãi mãi chỉ làm một công việc trong đời, đúng không nào?”

Charlene không thể không đồng ý với điều này. “Tôi phải cảnh báo cô rằng, cô đã thể hiện sự thiếu tham vọng vì đã ở mãi một vị trí quá lâu. Các doanh nghiệp ở London không giống như những văn phòng ở những ngôi làng nhỏ đìu hiu.”

“Thế à? Tôi tưởng rằng…”

“Vì vậy chúng tôi không thể tạo cho cô cơ hội làm một công việc ngang với vị trí trước đây.”

“Chà, dĩ nhiên là, tôi nghĩ tôi sẽ cố gắng…”

“Chúng tôi có nhiều vị trí còn khuyết trong lĩnh vực bán lẻ,” Charlene ngắt lời cô. “Cô có muốn làm việc trong một cửa hàng không?”

Dora suy nghĩ. Cô và Karen từng rất thích chơi trò bán hàng, nhưng cô nghi ngờ rằng mình sẽ không được đứng sau quầy của một cửa hàng bán thức ăn ngon thân thiện, hoặc một nơi nào đó thú vị, thay vào đó cô sẽ phải bán những món đồ lót cực kỳ đắt tiền, thứ mà không ai thực sự muốn và chắc chắn chẳng cần đến. “Không,” cô nói với vẻ dứt khoát.

“Thôi được. Thế còn công việc ở quán bar?”

“Không, trừ phi nó rất gần nơi tôi sống.”

“Cô đang sống ở đâu ấy nhỉ? À, hừm… nơi đó khá xa. Mỗi sáng cô sẽ phải di chuyển một đoạn đường khá dài đấy. Cô có hay phải đi lại không?”

“Không hẳn, nhưng tôi sẵn sàng thử.”

“Tốt. Chỉ có điều, hầu hết khách hàng của chúng tôi thích nhân viên ăn mặc lịch sự. Trông cô không được chỉn chu cho lắm nhỉ?”

“Vậy sao? Ý tôi là, tôi chỉ ghé qua để được tư vấn. Nếu tôi đến xin việc, tôi sẽ mặc một bộ vét, hoặc đại loại thế.”

“Và đi đôi giày thích hợp. Không nên đi xăng đan đến một cuộc phỏng vấn. Và cô cần cắt móng tay. Tôi sẽ không sắp xếp bất cứ một cuộc phỏng vấn nào quá gấp gáp, để cô có thời gian chỉnh trang lại bản thân. Ấn tượng ban đầu rất quan trọng.”

Dora càng lúc càng cảm thấy nhỏ bé hơn khi cơ hội làm việc của cô cứ mỗi lúc một tan biến dần vào khoảng không xa xăm trước mặt. “Vâng,” cô ngoan ngoãn nói.

“Cô có nghĩ đến chuyện làm một công việc tạm thời không? Đó sẽ là một cách tốt để kiếm thêm nhiều kinh nghiệm.”

“Không,” Dora nói. “Hoàn toàn không. Tôi không nghĩ tôi sẽ thích nó.” Cô đứng dậy, thừa nhận thất bại. “Còn gì nữa không?”

“Không. Chúng tôi sẽ liên lạc với cô nếu chúng tôi có bất cứ công việc gì phù hợp.”

Dora chẳng còn chút tự tin nào khi đến trung tâm tiếp theo, cô lảo đảo bước vào và ngồi xuống chiếc ghế được mời, đoan chắc rằng cô sắp bị giội thêm một gáo nước lạnh. Cô gái này thân thiện hơn nhiều, cô ta đưa cho Dora một cốc nước và rồi một tách trà. Cô ta chặc lưỡi trước bản sơ yếu lý lịch ngắn ngủn của Dora, nhưng thừa nhận rằng chắc hẳn cô phải làm tốt công việc của mình nên mới ở lại mãi một công ty như thế và được thăng tiến vài lần. Tuy nhiên, kết quả cuối cùng vẫn vậy, “Lúc này chúng tôi chưa có nhiều công việc phù hợp với cô lắm, trừ phi cô sẵn sàng đi tới tận Canary Wharf. Nó sẽ là một chuyến đi khá vất vả, căn cứ vào địa chỉ hiện tại của cô.”

Dora uống trà và gật đầu.

“Tôi sẽ liên lạc nếu có công việc thích hợp.”

“Cảm ơn.”

“Cô không nghĩ đến chuyện làm một công việc tạm thời nào sao? Đó là một cách tuyệt vời để có thêm kinh nghiệm.”

“Tôi sẽ suy nghĩ về nó nếu không có công việc cố định nào xuất hiện, nhưng tôi thực sự không muốn dành những buổi sáng thứ Hai để đi vòng quanh London, tìm kiếm những địa chỉ ngẫu nhiên.”

“Cô nói cũng có lý. Tuy nhiên, đó là một cách tốt để nắm được đường sá quanh London.”

Dora thở dài và đặt cái tách xuống miếng lót cốc. “Tôi cũng sẽ ghi nhớ điều đó. Một ngày kia, khi tôi đã quen với chuyện không còn làm việc ở thị trấn quê nhà, tôi sẽ làm một nhân viên tạm thời, nhưng lúc này tôi vẫn chưa sẵn sàng cho điều đó.”

“Chà, cô đã làm một bài kiểm tra đánh máy gần như hoàn hảo vì vậy chúng tôi sẽ nghĩ đến cô khi có bất cứ công việc cố định nào xuất hiện.”

Dora đứng dậy và quyết định không đến quấy rầy trung tâm thứ ba. Cô cảm thấy mình đã làm đủ rồi và danh dự của cô đã được thỏa mãn. Cô chỉ phải hy vọng công việc ở xưởng tàu vẫn còn trống và thích hợp với cô.

Trong khi Dora đang phải chịu khổ sở vì không thay đổi công việc thường xuyên, hoặc không học đại học, hoặc không ăn mặc phù hợp, Jo đang vui vẻ tìm kiếm những cửa hàng bán vật liệu dành cho các nghệ sĩ. Miranda đã khá mơ hồ về vị trí của cái cửa hàng mà bà ấy nghĩ là có tồn tại trong khu vực thanh lịch này của London, nhưng cuối cùng, sau khi cưỡng lại ham muốn ghé vào viện bảo tàng Anh, hoặc bất cứ cửa hàng lớn nào bán báo in và những cuốn sách liên quan đến đồ cổ, bà tìm thấy một cửa hàng nhỏ có vẻ là thứ bà muốn. Ngay khi bước qua cửa, mắt bà liền bắt gặp những dãy sản phẩm vươn cao đến tận trần – tự thân chúng đã là những tác phẩm nghệ thuật. Nó thậm chí còn có mùi triển vọng.

Jo thích coi mình là một người theo thuyết nữ quyền, một phụ nữ độc lập có thể tự chăm sóc cho bản thân mình, nhưng thực sự thì, bà thừa nhận, bà có được những gì bà muốn (hầu hết mọi lần) nhờ sự duyên dáng của mình. Lúc này, bà bước tới quầy bán hàng và mỉm cười. Người đàn ông trung niên đứng sau quầy mỉm cười đáp lại, khiến bà vững dạ.

“Chào ông. Không biết ông có thể giúp tôi không? Tôi có một bức tượng tiểu thiên sứ nhỏ cần được sửa.”

“Tiểu thiên sứ loại gì?” Trước sự nhẹ nhõm của Jo, ông ta không lúng túng chút nào trước lời bà nói.

“Nó ở trên một cái khung gương, vì vậy nó rất nhỏ. Bàn chân của nó đã bị gãy.”

“Chiếc khung làm bằng gì?”

“Bằng gỗ, tôi nghĩ vậy. Nó được dát vàng.”

“À, một chiếc khung gương chạm khảm cũ. Và bà đang cố gắng sửa nó?”

“Ừm. Trước đây tôi chưa từng làm một việc như thế.”

“Tại sao bây giờ bà lại bắt đầu?”

Bà quan sát người đàn ông và thấy rằng ông ta đang nói chuyện rất nghiêm túc. “Tôi đang chơi một canh bạc – may mắn là không phải bằng tiền của tôi, hoặc ít nhất, không hẳn như thế. Tôi muốn thay đổi công việc, một công việc tôi có thể làm ở nhà, mang tính sáng tạo, và, ừm… đem lại sự thỏa mãn.”

“Và bà có chiếc gương cũ này?”

“Thực sự thì tôi có vài món đồ. Bạn tôi định quẳng chúng tới một điểm bán đồ cũ nhưng tôi đã đề nghị thử sửa chúng. Tôi nghĩ tôi sẽ bắt đầu với chiếc gương.”

“Bà không mang nó theo sao?”

“Không, tôi e rằng không.” Bà nhìn quanh mình, bị thu hút bởi những cái giá đựng đầy những sản phẩm có vẻ lạ lẫm: thạch cao, keo da thỏ và một thứ gì đó hình như được gọi là đá chùi bóng. Mặc dù bà nghĩ có lẽ bà đã đọc nhầm.

“Đó là bàn chân duy nhất của nó à?”

Jo bối rối. “Ồ, không, ban đầu nó có hai bàn chân.”

“Tốt. Vậy thì bà chỉ cần đúc khuôn cái bàn chân còn lại, sắp xếp lại những ngón chân một chút, rồi gắn nó vào.”

“Tôi sẽ làm thế bằng cách nào?”

“Ồ, bà có thể dùng một ít thạch cao, nếu đó là thứ bà dùng để làm cái bàn chân. Hoặc, nếu bà dùng một vật liệu đúc đặc biệt, bà có thể dán nó bằng keo.”

“Nhưng làm thế nào để tôi đúc được nó đã chứ?” Jo cảm thấy mình đang ngày càng hứng thú.

“Chà, bà có hai lựa chọn. Bà có thể đúc khuôn cái bàn chân đang tồn tại, sử dụng chất dẻo Plasticine, hoặc bột đúc nhựa mủ.”

“Nghe phức tạp quá.”

“Thực sự thì không đâu, một khi bà bắt đầu,” người đàn ông trấn an bà. “Nó khá thú vị.” Ông ta nháy mắt với bà như thể đang thú nhận một bí mật. “Chính tôi cũng tự sửa các món đồ khi tôi bắt gặp thứ gì đó thực sự hay ho cần được quan tâm chăm chút.”

Jo cười đáp lại. “Thế lựa chọn còn lại là gì?”

“Bà tạc một cái bàn chân khác bằng gỗ.”

“Tôi đã tạc vài món đồ nho nhỏ khá xinh xẻo cho ngôi nhà búp bê của con gái tôi.”

Jo nhớ lại cái tủ nhỏ bà đã tạc. Nó không được như những món đồ gỗ của Grinling Gibbons[21], nhưng bà đã làm ra những món đồ nhỏ xíu rất dễ thương. “Được rồi, vậy sau khi tôi đã làm xong cái bàn chân, và tạc thêm vài vòng xoắn trang trí nhỏ khác, tôi sẽ làm gì tiếp theo? Chắc là tôi không chỉ sơn nó thành màu vàng kim chứ.”

[21] Nhà điêu khắc và chạm khắc gỗ người Anh.

Người đàn ông lắc đầu. “Ồ, Chúa ơi, không. Bà sẽ cần dùng vàng lá, hoặc ít nhất là vàng lá giả. Thứ bà cần đầu tiên có lẽ là một cuốn sách hay. Sau đó bà cần quyết định liệu bà muốn dùng những kỹ thuật truyền thống, đúng quy cách hay những kỹ thuật hiện đại hơn, ít chính thống hơn.”

“Tôi nghĩ tôi nên dùng những kỹ thuật chính thống, đáng tin cậy,” bà nói sau một thoáng suy nghĩ. “Tôi muốn học những kỹ năng mới chứ không phải cách làm hỏng mọi thứ.”

“Được lắm!” ông ta nói. “Bây giờ, bà có tin tôi không khi tôi nói cho bà biết bà sẽ cần gì? Nó sẽ khá đắt đỏ. Tôi sẽ khuyến mại thêm cho bà vài mẩu gỗ thừa.”

“Cảm ơn,” bà nhẹ nhàng nói và quyết định tin tưởng ông ta.

Nửa tiếng sau, khi rời đi, bà cảm thấy hơi sốc. Bà có một cái túi bóng với nhiều vật liệu lạ lùng mà bà đã thấy trên những cái giá, một quyển sách mỏng nhưng có hình minh họa rất đẹp về cách mạ vàng, và một phong bì, ở mặt sau của nó là những lời khuyên và mẹo vặt mà bà đã ghi lại được. Nó cũng có số điện thoại của Peter (lúc đó họ đã gọi nhau bằng tên thánh). “Bà sẽ yêu công việc dát vàng này,” ông đã trấn an bà khi ông mở cửa. “Nó giống như thuật giả kim vậy!”

Sau đó điện thoại của bà reo lên. Dora đã hoàn tất các cuộc phỏng vấn. Họ thống nhất địa điểm gặp gỡ và, cảm thấy phung phí và nuông chiều bản thân quá mức, bà vẫy một chiếc taxi.

Khi Dora tìm thấy bà, Jo đang nhấp một tách cappuccino ở một tiệm cà phê gần đấy, vui mừng vì được nghỉ ngơi một chút. Bà đang lật giở một tờ tạp chí và tận hưởng chút ánh nắng đang lọt qua cửa sổ. Bà có vài cái túi bóng bên cạnh và mỉm cười phấn khởi khi thấy Dora.

“Cháu xoay xở thế nào rồi? Cháu muốn uống cà phê hay thứ gì đó không?”

Dora ngồi phịch xuống cái ghế đối diện với Jo, khoan khoái vì sự mát mẻ của tiệm cà phê, nóng lòng giải tỏa bức xúc từ cái thử thách kinh khủng vừa nãy bằng cách kể lại nó. “Cháu uống nước khoáng thôi. Thật là khủng khiếp!”

“Ồ? Sao thế?” Bà Jo nhổm dậy và đi đến quầy. “Nước trắng hay có ga?”

“Có ga.”

Jo mang nước về. Dora có thể nhận ra bà thực sự muốn mang đến cho Dora một món tráng miệng hoặc thứ gì đó đại loại thế, và đang tự kiềm chế. Jo quả thực là một người mẹ rất chu đáo.

“Có chuyện gì vậy?” Jo hỏi.

Dora cân nhắc. “Dạ, thực sự thì chẳng có gì xảy ra cả nhưng người phụ nữ đầu tiên quá thiếu thiện chí. Cô ta nói rằng cháu chỉ phù hợp làm việc trong một cửa hiệu bởi vì công việc trước đây của cháu là ở một thị trấn nhỏ. Cháu đã bỏ chạy khỏi văn phòng đó!”

“Thật tàn nhẫn!” Bà Jo nói, đưa cho Dora một chai nước khoáng có ga và một cái ly.

“Và cô ta gợi ý cháu thử làm các công việc tạm thời, để cho cháu có thêm kinh nghiệm.”

“Cháu không nghĩ rằng đó là một ý kiến hay à?” Jo ngập ngừng. Bà rõ ràng không muốn Dora nghĩ bà không đứng về phía cô.

Dora lắc đầu. “Chà… có lẽ, nhưng cháu vẫn chưa sẵn sàng cho một niềm hứng khởi kiểu như thế. Trước hết, cháu không biết đường đi lối lại ở London, và ý nghĩ có một công việc mới mỗi tuần hoặc đại loại thế là quá căng thẳng vào lúc này.” Cô hình dung ra một binh đoàn phụ nữ với những móng tay sơn trắng và làn da nhuộm nâu, và cảm thấy yếu đuối vì sự thiếu tương xứng của mình với họ.

“Đúng là nó nghe thật khủng khiếp. Mặc dầu cô từng làm một công việc tạm thời và rất thích nó. Mọi người quá ngạc nhiên và hài lòng nếu cháu thực sự làm gì đó, chẳng hạn như nghe điện thoại giúp họ và chuyển lại lời nhắn, đến mức họ hầu hết đều yêu quý cháu. Nhưng thời điểm đó cũng rất lâu rồi.” Jo nhìn người bạn trẻ của mình. “Cô bảo này, chúng ta hãy tìm một nơi nào đó thú vị để ăn trưa. Uống một ly vang. Cháu sẽ cảm thấy khá hơn nhiều. Người ta luôn cảm thấy suy sụp nếu lượng đường trong máu của họ bị hạ thấp.”

Dora cười. “Thuật ngữ chính xác của nó là đói.”

“Thế nào cũng được, cô vừa mới chi hơn một trăm bảng cho mấy món vật liệu – cô cần uống một thứ gì đó!”

Họ tìm thấy một quán ăn Italia nhỏ xinh trên một con phố nhánh, nó có một cái sân nhỏ được che phủ bởi một giàn nho và những bồi bàn chu đáo, ân cần. Họ có vẻ quyết tâm đem lại cho thực khách một sự phục vụ tuyệt vời đến mức những người phụ nữ có lẽ sẽ không cần cắt thức ăn, mà chỉ việc há miệng thật to khi chiếc nĩa được đưa tới gần. Jo và Dora được dẫn tới một cái bàn trong mảnh sân nhỏ có nhiệt độ thích hợp, không quá nóng, cũng không quá lạnh.

“Cô thích đi ăn trưa ở ngoài với một phụ nữ trẻ hấp dẫn,” Jo nói khi khăn ăn của bà được bồi bàn đặt nhẹ nhàng lên đầu gối cho bà. “Các bồi bàn quá chu đáo!”

“Họ chu đáo với cả cô đấy chứ,” Dora nói, cô đã bắt đầu hồi phục sau những cuộc phỏng vấn.

“Chỉ vì cô đi với cháu. Cô không bao giờ được như thế này khi cô đi một mình.”

Dora cau mày. “Cháu chưa bao giờ đi ăn một mình ở một nhà hàng, hoặc thậm chí một tiệm cà phê. Cháu chỉ đến gặp mọi người ở quán rượu nếu cháu chắc chắn họ đã có mặt ở đó trước.” Dora nhớ đến những thách thức của Tom và tự hỏi anh định đề nghị cô làm điều gì tiếp theo.

Jo cắt ngang dòng suy nghĩ của cô. “Ồ, cháu còn trẻ mà.”

“Cháu thật thảm hại. Người phụ nữ quá quắt ở cuộc phỏng vấn đã khiến cháu nhận ra cháu thảm hại đến mức nào.” Cô nhìn vào thực đơn. “Nhưng kỳ lạ thay, cháu cũng đói khủng khiếp.”

“Cô đã bảo mà,” Jo cười nói. “Cô đảm bảo với cháu, cháu sẽ cảm thấy chẳng có gì tồi tệ nữa sau một bữa ăn ngon miệng. Bây giờ, chúng ta sẽ ăn gì đây? Nếu chúng ta ăn chung món khai vị, có lẽ chúng ta sẽ còn bụng để ăn món tráng miệng. Cô thấy họ có món zabaglione[22], có lẽ cháu chưa thấy món đó bao giờ nhưng nó rất tuyệt!”

[22] Món tráng miệng của Ý, gồm lòng đỏ trứng, đường và rượu Marsala đánh lên, ăn nóng với bánh quy - ND

“Thưa bà – đây là danh mục rượu vang.” Người trẻ hơn trong hai người bồi bàn đưa nó cho Jo, bà đón nó như thể nó có thể làm bà bị bỏng.

“Ôi Chúa ơi, cô không biết gì về rượu. Chúng ta gọi một chai vang trắng loại thường nhé?”

“Cả một chai ạ?” Dora sợ hãi.

“Nó tiết kiệm hơn nhiều so với việc gọi từng ly, và hôm nay cô đã bắt một chiếc taxi. Cô cần tiết kiệm mỗi khi có thể.”

Dora đặt một khuỷu tay lên bàn và chống cằm. “Cô quả là kỳ lạ. Không ngạc nhiên gì khi cô và mẹ cháu chưa bao giờ thực sự là bạn.”

“Ồ, nhưng cô rất thích mẹ cháu!”

“Vâng, nhưng mẹ cháu chưa bao giờ đề nghị chia sẻ một chai rượu vang chỉ vì nó sẽ rẻ hơn.”

“Đó là vì bà ấy là người hiểu lý lẽ còn cô thì không. Nào, chúng ta sẽ ăn gì đây? Cô nghĩ có lẽ hôm nay cô sẽ không ăn kiêng.”

“Cô có nghĩ cháu chỉ đang trốn tránh nếu cháu cân nhắc công việc ở xưỏng tàu không ạ?”

Dora và Jo đã gần đến nhà ga. Họ chưa hề bàn tới những triển vọng công việc của Dora từ khi cô kể về những cuộc phỏng vấn, nhưng rõ ràng nó đã lẩn khuất sâu thẳm trong tâm trí cô trong suốt phần còn lại của ngày, khi họ khá vui vẻ dạo quanh cửa hàng Selfridges và đi bách bộ cho tiêu bữa trưa.

“Ý cháu là, cháu sẽ không được trả nhiều tiền lắm, đúng không ạ? Ở London tiền lương sẽ khá hơn nhiều.”

Jo hít một hơi, để tạo ấn tượng rằng bà đang suy nghĩ về câu trả lời và không chỉ đáp lại một cách hấp tấp – mặc dù câu trả lời vẫn vậy. “Người ta thường quên rằng đi làm ở ngoài cũng khá tốn kém. Tiền đi đường, ăn trưa, mua sắm quần áo lịch sự, tất cả những thứ như thế. Cô không có ý nói mọi người – chẳng hạn như những bà mẹ - không nên ra ngoài làm việc, nhưng họ nên đảm bảo rằng họ đã tính toán trước chi phí nếu họ chỉ đi làm vì tiền.”

“Vậy ý cô là gì?”

“Ý cô là một công việc ở địa phương, dù ít tiền hơn, nhưng không đòi hỏi cháu phải mặc những bộ đồ chải chuốt và để móng tay kiểu Pháp, tính ra cũng hậu hĩnh gần bằng những công việc tạm thời ở London. Và ít căng thẳng hơn nhiều!”

Dora thở dài. “Cháu có nên quan tâm đến vấn đề “ít căng thẳng hơn” ở độ tuổi của cháu không? Cháu còn trẻ mà!”

“Phải, nhưng cháu mới có một vết thương tinh thần, và làm việc ở một xưởng tàu không phải là đi vào một nữ tu viện để cả đời thiền định. Cháu sẽ có đủ loại áp lực. Có lẽ thế. Có điều ở một mức độ khác.”

Dora cảm thấy hào hứng hơn trước ý kiến này. “Và có lẽ cháu nên bắt đầu một cuộc đời mới. Ý cháu là, cháu đã làm mãi một công việc từ khi cháu rời trường cao đẳng. Bây giờ cháu sẽ có một công việc mới. Có lẽ cháu sẽ chỉ làm ở đó trong – vài năm. Mà thực ra có khi cháu cũng chẳng làm ở đó.”

Jo cười. “Cháu có số điện thoại của họ chưa?”

“Chưa ạ, nhưng cháu có số của Tom. Anh ấy sẽ có số của họ,” Dora nói khi họ đi về phía bến thuyền.

“Vậy cháu hãy gọi luôn cho cậu ta đi. Không lúc nào bằng lúc này cả.”

Dora chưa hề gọi điện cho bất cứ anh chàng nào ngoài John có lẽ đã cả trăm năm nay; hoặc ít nhất, cô có cảm giác như thế. Nhưng cô đang xin việc, không phải hẹn hò, và với bà Jo đang quan sát, cô cảm thấy buộc phải nói chuyện thật nhanh gọn.

“Chào Tom, tôi Dora đây.”

“Tôi biết rồi.” Giọng anh tỏ vẻ thích thú. “Tên cô hiển thị trên điện thoại của tôi mà.”

“Dĩ nhiên. Nghe này, anh còn nhớ công việc mà anh đã kể với tôi chứ? Anh có nghĩ nó còn trống không?”

“Còn. Chắc chắn rồi.” Giọng anh đầy nhiệt tình.

“Ừm, anh có thể cho tôi số của xưởng tàu không? Tôi muốn gọi điện cho họ vào sáng sớm mai và sắp xếp một cuộc phỏng vấn.”

Một sự im lặng ngắn ngủi, đáng sợ phủ xuống. “Tôi bảo này, lát nữa hãy đến quán rượu với tôi và tôi sẽ đưa nó cho cô.”

“Anh thiếu người bầu bạn đến thế cơ à?”

Anh cười. “Phải, đúng là như thế đấy.”

Cô không thể nén cười. “Được rồi. Để tôi hỏi cô Jo đã. Tôi không thể tới nếu cô ấy có kế hoạch gì đó.”

“Bà ấy có thể tới cùng cô, nếu bà ấy muốn,” anh nói.

“Cô Jo? Tom mời chúng ta tới quán rượu với anh ấy tối nay?”

Jo lắc đầu. “Xin lỗi nhé, cưng. Sau một ngày mua sắm ở London, cô thực sự không muốn ra ngoài lần nữa. Cháu có thể đi một mình không?”

“Dĩ nhiên rồi ạ! Nếu cô không phiền lòng. Nếu cô muốn cháu ở nhà và nấu món trứng bác cho cô để ăn với bánh mì nướng, cháu sẽ làm thế.”

Jo xúc động và vỗ lên vai Dora. “Đến gặp Tom đi. Cô có thể tự làm trứng bác cho cô và để phần một ít cho cháu, nếu cần.”