• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Hành trình tình yêu
  3. Trang 6

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 31
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 31
  • Sau

Chương 3

“Cháu có muốn một tách trà và ít bánh mì nướng không?” Jo hỏi khẽ nhưng khẩn trương qua khe hở ở cửa buồng Dora. “Gần mười giờ rồi. Cuộc triển lãm tàu thuyền bắt đầu lúc mười một giờ.”

Dora miễn cưỡng mở một bên mắt, sau đó cô mở to mắt hốt hoảng. “Ôi trời ơi, cháu rất xin lỗi.”

“Cháu uống trà và ăn bánh mì nướng chứ?”

“Không, không ạ. Cháu phải dậy đã. Cháu sẽ tắm và quay lại với nhiệm vụ dọn dẹp.”

“Chúng ta đã khá gọn gàng sạch sẽ rồi. Chí ít cũng gọn gàng hết mức có thể. Trà sẽ sẵn sàng khi nào cháu tắm xong.” Jo khẽ khàng đóng lại cánh cửa sau lưng và tự hỏi liệu Dora có nằm xuống ngủ tiếp không. Bà thở phào nhẹ nhõm khi nghe tiếng Dora đi vào phòng tắm vài phút sau đó.

Tối qua Jo đã rất vui nhưng bà ngủ không được ngon lắm. Một phần là vì có Dora, bà biết. Mặc dù đã quả quyết rằng cô gái ở trọ trên con thuyền của bà là một người lớn, nhưng bà chưa thực sự yên tâm cho đến khi bà nghe tiếng Dora quay về. Và cả Miranda nữa, đó là người nói rằng muốn làm việc trong chuồng ngựa và đã khiến bà cười rất nhiều. Bà ấy đã tỏ bày tỏ sự ghen tỵ khi thấy Jo có cơ hội bắt đầu một sự nghiệp mới và khiến Jo phải suy nghĩ. Trước đó, Jo luôn coi mình là một người bị tổn thương, đang phải chiến đấu dũng cảm để tạo ra một cuộc sống mới cho riêng mình. Bây giờ bà nhận ra bà đã ít nhiều làm được điều đó, một sự nghiệp mới là điều bà cần và mong muốn.

Bà đã thức gần như cả đêm để nghĩ xem bà có thể làm gì. Chăm sóc ngựa cũng không phải là một lựa chọn dành cho bà. Nhưng bà có nhiều tài lẻ. Bà làm vườn khá cừ, mặc dù có lẽ bà không thích làm việc đó quanh năm. Bà có thể nấu được bất cứ món gì và thường làm ra những chiếc bánh sinh nhật đầy tính sáng tạo tuyệt vời nhất: những tác phẩm điêu khắc từ kem bơ, một thứ nghệ thuật rất đặc biệt. Bà mỉm cười khi nhớ đến sự khéo léo của mình, nhưng rồi lại ngậm ngùi nghĩ tới những bữa tối bà đã nấu cho những khách hàng nhạt nhẽo của chồng cũ. Rồi bà thắc mắc liệu bà có thể gọi ông ta là “chồng cũ” không nếu họ chưa ly dị hẳn. Có, hoàn toàn có thể, bà quyết định. Ông ta không còn là chồng của bà nữa, ông ta là chồng của ả Mèo Mả kia, cho dù họ chưa kết hôn.

Bà có thể nấu nướng trong một quán rượu hay nơi nào đó đại loại thế. Điều đó có vẻ thú vị. Bà có thể là một nhân viên phục vụ ở quán rượu và mặc chiếc áo đỏ lấp lánh đã thu hút những vị khách nam giới. Rồi bà nhớ ra các nữ nhân viên phục vụ ở quán rượu cần phải trẻ trung. Và có lẽ, nếu suốt ngày phải cặm cụi trong bếp, bà sẽ không thích làm việc trong một quán rượu. Hay một tiệm cà phê nhỉ? Một tiệm cà phê xinh đẹp, sang trọng nơi họ phục vụ bánh để uống trà và bánh nướng? Tâm trí bà vơ vẩn quay trở về thời thơ ấu. Tiệm trà Oải Hương. Họ phục vụ những món tuyệt vời: bánh quy nhân mứt, bánh phủ cơm dừa sấy khô, bánh hạnh nhân, bánh quy Đức, bánh bông lan phủ hạnh nhân, bánh Battenberg, đủ mọi loại bánh và tất cả đều được làm ngay trong tiệm. Chà, ý tưởng đó quả thực hấp dẫn. Bà không chắc những cơ sở như thế vẫn còn tồn tại, có lẽ ngoại trừ ở Richmond, nơi nổi tiếng với những loại bánh của tiệm Phù Dâu và nằm cách đây vài dặm, nhưng nó là một sự khởi đầu tốt đẹp.

Cuối cùng bà đã ngủ thiếp đi khi đang nghĩ về mảnh vườn của bà, và tự hỏi cây hoa hồng nào đang trổ bông. Liệu ả Mèo Mả đó có học được cách yêu quý cây hồng leo Paul’s Himalayan Musk đang bám trên cây ngô đồng, với những bông hoa nhỏ xíu màu hồng nhạt, như bà đã từng?

“Cháu rất xin lỗi!” Dora xuất hiện, sực nức mùi dầu tắm, tóc cô ướt và loăn xoăn. Cô nhón một miếng bánh mì nướng và cho cả vào mồm. “Đáng lẽ cô phải đánh thức cháu sớm hơn,” cô lầm bầm.

Jo mỉm cười. “Cháu cần ngủ mà. Cô biết cháu về muộn.” Bà cảm thấy dâng trào một nỗi ghen tỵ với giới trẻ, chúng có thể ngủ bao lâu tùy thích.

“Ôi, cháu đã làm cô thức giấc ạ?”

Jo vội vàng trấn an Dora. “Ồ không, không hề. Cô chỉ tình cờ tỉnh giấc khi cháu về, thế thôi. Cháu muốn ăn thêm không? Ăn đi, cô đã làm sẵn rồi.”

Dora ngoan ngoãn đón lấy miếng bánh.

“Cháu thấy buổi tối hôm qua có vui không? Cô phải công nhận là nó hơn cả sự mong đợi của cô,” Jo nói.

“Có ạ. Cuộc thi đố vui quả là thú vị!”

“Các cuộc thi đố vui luôn thú vị hơn khi cháu thắng giải, mặc dù bọn cô cũng thích nó. Chiếc Chim mỏ cứng trông như thế nào?”

“Rất bóng bẩy. Đẹp, nhưng cháu thấy nó không giống với một con thuyền lắm.” Dora cau mày. “Thật lạ lùng, nhưng trước đây vài ngày cháu chẳng dính dáng gì đến những con thuyền, thế mà bây giờ cháu nghĩ cháu có thể thực sự thích chúng.”

“Chúng chiếm cảm tình của cháu từng chút một. Bây giờ chiếc Ba chị em cứ như là nhà của cô vậy.” Jo lau vài mảnh vụn rớt xuống từ chiếc bánh mì nướng của Dora. “Mà này, cô có thể hỏi một câu khiếm nhã không, cháu có thu xếp gọn gàng sạch sẽ trong phòng tắm không đấy?”

Dora gật đầu, nhai một miếng bánh mì nướng khác. “Sạch như lau như li. Cháu thậm chí còn dùng khăn tắm của cháu để lau chậu rửa mặt.” Cô nuốt miếng bánh. “Cháu vẫn còn một cái khăn nữa nếu chiếc máy giặt đó rất khó sử dụng.”

“Không hề, và cô cũng có rất nhiều khăn tắm. Cô vừa mới mua một lố khăn mới khi Philip… Philip làm cái việc ông ta đã làm, và cô không thể bỏ chúng lại. Cô yêu những cái khăn tắm.” Ý nghĩ có lẽ bà nên làm việc trong một cửa hàng bán khăn tắm hoặc một cửa hàng tạp hóa lớn nào đó vụt hiện lên trong óc bà rồi lại biến mất như một con bướm đang bay.

“Vâng, vậy thì cháu sẽ giặt nó. Sau đó cô có muốn cháu làm gì không?” Dora hỏi khi cô đứng dậy.

“Làm bánh sô-cô-la hạnh nhân nhé?”

Dora rõ ràng đã quên bẵng chuyện làm bánh. “Ồ vâng. Cháu bật lò lên ngay đây. Sô-cô-la ở đâu ạ? Cả hạnh nhân nữa? Chúng sẽ chưa được làm xong nếu ai đó xuất hiện lúc mười một giờ. Mười một giờ là bắt đầu, đúng không ạ?”

Jo gật đầu. “Nhưng nếu cháu đóng cửa thuyền, không ai có thể lên được. Đó là cơ hội để cháu đi xem thuyền của những người khác.”

“Nhưng cô không muốn làm thế ngay bây giờ chứ?” Dora tỏ vẻ thất vọng.

“Ồ không,” Jo trấn an cô. “Chúng ta đã làm việc rất vất vả, chúng ta sẽ mở rộng cửa đón khách.” Mắt bà chợt mở to sợ hãi. “Ôi Chúa ơi! Nhìn đám mạng nhện kìa! Làm thế nào mà cô có thể bỏ sót chúng nhỉ?”

“Cháu nghĩ chúng xuất hiện vào buổi tối,” Dora nói, mở toang những hộp sô-cô-la và đổ chúng vào một cái bát chịu nhiệt.

“Cháu làm cứ thoăn thoắt ấy. Hẳn là trước đây cháu đã từng làm chúng.”

“Vâng ạ. Cháu vẫn thường làm cho John ăn mà. Khi anh ấy có bạn gái mới, cháu phải cho cô ta công thức mới được.”

“Nếu cậu ta có bạn gái mới thì cháu có biết không?”

“Dĩ nhiên ạ. Mọi người sẽ nói với cháu, cô đừng lo.” Dora nhận ra đây là lần đầu tiên trong vài tuần qua cô có thể nhắc đến tên John mà không muốn òa khóc. Có lẽ cuối cùng mình cũng đã vượt qua thời điểm khó khăn, cô nhẹ nhõm nghĩ. Một buổi tối đi chơi với những người không biết cô hoặc quá khứ của cô, và ở bên họ cô có thể là chính mình, đã khiến cô thực sự bình tâm.

Jo đã xử lý xong đám mạng nhện, tóm gọn chúng trong một miếng giẻ lau bếp, nhưng lại phát hiện một mảng nấm mốc mà bà đã không để ý trước đó, và đang dùng một cái bàn chải cũ kỳ cọ nó khi những người khách đầu tiên tới.

“Xin chào! Có ai ở trên thuyền không?”

Jo hấp tấp chạy lên buồng lái để dẫn cặp đôi đó vào. Bà nhận ra họ là những người tham dự buổi dạ tiệc đêm hôm trước nhưng không biết tên họ là gì. “Xin chào!” bà nồng nhiệt nói. “Rất vui khi gặp anh chị!”

Họ là một cặp trẻ hơn bà một chút và nom khá gầy hơn bà. Đáng buồn là, Jo không chỉ không nhớ tên họ, bà còn không thể nhớ là bà có thích họ không. Trẻ hơn và mảnh mai hơn chỉ có thể được tha thứ đối với những người dễ chịu.

Họ khá thân thiện. “Chào chị Jo. Chị vẫn ổn sau buổi tối hôm qua chứ?”

Tối qua đã xảy ra chuyện gì khiến họ nghĩ bà có thể không ổn? Có lẽ họ chỉ đang hỏi liệu bà có bị nếm trải dư vị khó chịu sau khi uống nhiều rượu không thôi. Bà cười vui vẻ, hy vọng mình đã không tỏ ra say xỉn. “Hoàn toàn ổn. Còn anh chị?”

Người phụ nữ nhăn mặt. “Không khỏe lắm. Nhưng chị đã không uống tiếp brandy sau khi uống cà phê đấy chứ?”

“Không. Xin lỗi, tôi không thể nhớ nổi, anh chị ở trên con thuyền nào nhỉ?”

“Chúng tôi không có thuyền. Nhưng chúng tôi đang tính mua một chiếc, vì vậy chúng tôi đang xem xét,” người đàn ông nói. “Tôi có thể xem qua động cơ được không?”

Jo chỉ vào miếng kim loại hình vuông đậy trên nóc buồng máy. Bà chưa vào buồng máy bao giờ, và quyết định không bén mảng tới đó sau khi bà phát hiện ra mình phải bước nghiêng nghiêng trên một cái thang dựng đứng để xuống được đến nơi. Bà không biết buồng máy trông giống như một phòng mổ hay một bãi rác và bà không quan tâm lắm. Và bà đã rũ bỏ tất cả trách nhiệm với khu vực đó. “Cứ tự nhiên.”

Người đàn ông mở cái nắp kim loại nặng nề và nhìn xuống dưới. “Hừm. Chị có bộ đồ bảo hộ nào không?”

Jo lục tìm trong những cái hộc tủ gắn liền quanh bàn bên dưới chân ghế và lấy ra một bộ. Đó là bộ đồ của Michael. Bà đã nhét tất cả những gì liên quan đến ông vào trong hộc tủ khi bà mới đến đây và đang cảm thấy cực kỳ căm ghét đàn ông.

Jo quay sang vợ ông ta. “Chị không muốn xem buồng máy, đúng không?” Người phụ nữ đang mặc quần trắng và một cái áo Breton sọc trắng xanh. Bà ta lắc đầu. “Tôi muốn xem căn buồng kia, có lẽ hồi trước nó là nơi sinh hoạt chủ yếu.”

“Đó là căn buồng tôi đang ở,” Jo nói, cố gắng không bực tức với người phụ nữ này vì trông bà ta quá xinh đẹp trong chiếc áo mà sẽ khiến Jo có vẻ béo lên nếu bà mặc nó.

Nhưng căn buồng nhỏ của bà đẹp như một bức tranh, bà quyết định thế. Khi bà mới chuyển lên con thuyền này, trông nó luộm thuộm và có vẻ bị ghẻ lạnh bởi vì Michael luôn ngủ trong căn buồng của Dora bây giờ. Nhưng Jo đã phải lòng khoảng không gian nhỏ bé này và bà đã biến nó thành công trình của bà. Quá trình trang hoàng đã giúp bà gạt bỏ cảm giác vô dụng mà sự ruồng rẫy của Philip đã gây ra cho bà.

Bà nhấc tấm ván gỗ ngụy trang cánh cửa đôi như một miếng ván lót và dẫn khách xuống ba bậc thang dốc để vào căn buồng. Bà cảm thấy tự hào và quyết tâm bảo vệ những nỗ lực của mình. Một tấm thảm dày màu đỏ đậm tạo cho căn buồng cảm giác ấm cúng ngay khi đặt chân vào, nhưng nhờ các bức tường và trần được ốp ván ghép mộng màu trắng, cùng bốn ô kính tròn lớn bên mạn thuyền làm cửa sổ, ánh nắng rọi vào nhảy múa lung linh trên khắp các bề mặt, biến nó thành một chốn nương náu ngập tràn ánh sáng.

Có một chiếc giường tầng đôi có thể được tách ra để tạo thành một cái bàn, nhưng Jo đã chán ngấy với việc ngủ trên đỉnh của nó đến nỗi bà đã mua một cái đệm mét hai cho tầng một. Bà sẽ không cần biến giường ngủ thành một cái bàn ăn khi bà có thể ăn ở bất cứ chỗ nào trong toàn bộ phần còn lại của con thuyền. Chiếc giường được phủ một tấm khăn trải chắp vá mà bà mang từ nhà đi, bởi vì nó là món đồ do chính tay mẹ bà làm ra và, do đó, nó là của bà.

Đằng sau những tấm ván lót là vô số tủ chìm nhỏ và hốc chứa đồ thích hợp với quần áo lẻ không cần là ủi mà dạo này Jo thường mặc. Thậm chí còn có một buồng tắm nhỏ xíu ngay trong phòng, đằng sau một cánh cửa. Nó không có bồn tắm riêng, và vì thiếu khoảng trống bên trên, bạn phải ngồi lên bồn cầu khi bạn tắm. Bà chỉ sử dụng chậu rửa mặt với bồn cầu và đặt một bình hoa nhỏ lên kệ. Ở chỗ ngủ của bà có một bình hoa khác và tất cả quần áo của bà đều được nhét trong những cái tủ chìm.

“Chỉ cần một cái lò sưởi nhỏ nữa thôi,” bà nói với người phụ nữ mặc áo kẻ sọc, “là nó sẽ hoàn hảo.”

“Chị sẽ đặt lò sưởi ở đâu?” người phụ nữ hỏi, kinh ngạc hơn là tò mò.

“Tôi nghĩ nó đã từng được lắp chỗ tấm trần này.” Jo cau mày. “Tôi không chắc nó được gọi là một cái trần. Các con thuyền là những chốn kỳ lạ.”

Người phụ nữ mặc áo sọc bật cười, và Jo quyết định tha thứ cho cái tội trẻ hơn và mảnh mai hơn của bà ta. Xét cho cùng, bà ta có những nếp nhăn nhỏ quanh miệng – bà ta không hoàn hảo.

“Chị đang mong có một chiếc thuyền à?” Jo hỏi.

“Tôi nghĩ vậy. Tôi rất thích những cái rèm cửa sổ xinh xinh này của chị. Có tận hai lớp rèm lận! Đáng yêu quá!”

“Tôi biết. Tôi không mê rèm vải tuyn, nhưng khi tôi thấy chúng, tôi phải có chúng bằng được.” Michael chẳng thèm bận tâm đến những cái rèm vì ông ấy sử dụng một căn buồng khác. “Ở đầu đằng kia có một phòng tắm vòi sen mà chị có thể đứng thẳng trong đó.”

“Tôi rất muốn xem.”

Jo quyết định thú nhận. “Thành thật xin lỗi, tôi đã quên mất tên chị.”

“Terri – còn chồng tôi là Donald.”

Bà ta có phật ý vì Jo không nhớ tên bà ta không nhỉ? Jo không nghĩ vậy. “Terri, cái tên đẹp quá, làm sao tôi có thể quên nó được nhỉ. Mời chị lại đây và tham quan phần còn lại của con thuyền. Dora, khách trọ của tôi, bạn cùng thuyền, hay bất cứ cách gọi nào khác chị có thể nghĩ đến, đang làm bánh sô-cô-la hạnh nhân. Không biết chúng đã xong chưa?” Nếu bà kiếm được việc ở một tiệm trà, bà sẽ phải hỏi Dora công thức.

Mùi sô-cô-la thơm nức phảng phất bay ra từ phòng khách, và căn phòng trông thật hoàn hảo, ít nhất là trong mắt Jo.

“Đây là phòng khách, nơi sinh hoạt chủ yếu của chúng tôi,” bà giới thiệu.

“Nó rất… ấm cúng,” Terri nói, rõ ràng không thể nghĩ ra điều gì khác để nói.

Jo cũng không thể nghĩ được điều gì. “Dora,” bà nói, sôi nổi hơn dự định. “Mấy cái bánh sô-cô-la hạnh nhân đó thơm quá. Chúng đã xong chưa?”

“Cháu e rằng chưa ạ.” Dora tỏ vẻ hối lỗi. “Cháu nghĩ là khoảng mười lăm phút nữa.”

Cảm thấy sự thất vọng đang lan tỏa khắp người, Jo nói, “Cô sẽ dẫn Terri đi xem phòng tắm. Không biết Donald trong buồng máy có ổn không nhỉ?” Nếu ông ấy không ổn, làm thế nào họ đưa được ông ấy lên qua cái thang dựng đứng cơ chứ?

Phòng tắm đạt đủ tiêu chuẩn sạch sẽ. Dora đã giấu chiếc khăn tắm ướt của cô và những cái khăn tắm còn lại được vắt ngay ngắn trên thanh ngang. Nắp bồn cầu đã được hạ xuống và trên vòi nước không hề có dấu vết của kem đánh răng. Cuộc sống vắng bóng đàn ông cũng có nhiều cái lợi, Jo nghĩ khi Terri thốt lên trước căn buồng tắm rộng rãi chứa được cả một cái máy giặt trong đó. Philip không thể không nhổ lên vòi nước mỗi lần đánh răng.

“Còn trong này có gì vậy?” Terri hỏi, mở cánh cửa của một căn buồng trước khi tiếng hét kinh hãi của Jo vọng tới tai bà ta.

“Đừng vào đó…”

Vào đó là một điều cấm kỵ. Căn buồng đơn nhỏ xíu này là phòng chứa đồ, nơi họ cất tất cả những thứ mà họ không biết để vào đâu, hay những thứ họ đã chán ngấy, nơi túi rác của Jo đã biến mất một cách bí ẩn nay lại hiện ra.

“Tôi chỉ thuê con thuyền này thôi,” Jo nói, sau khi kéo sầm cánh cửa lại, khiến một chồng quần áo cũ đổ nhào xuống. “Michael, chủ sở hữu của nó, đã dặn tôi không được vào đây.”

“Ồ,” Terri nói. “Giống như căn phòng trong truyện Con yêu râu xanh. Ông ấy không kết hôn nhiều lần đấy chứ?”

Jo cười và cảm thấy thoải mái hơn một chút. “Mới chỉ một lần rưỡi thôi, vì vậy không sao đâu.” Bà định nói thêm, “Còn chị?” theo thói quen, nhưng đã cố gắng kìm lại đúng lúc. “Xem những cái bánh sô-cô-la hạnh nhân đã xong chưa nào. Tôi đang thèm sô-cô-la quá.”

Những cái bánh đã được đưa ra khỏi lò, nhưng chưa có thời gian để se lại. Jo không bận tâm, và một mực đòi ăn chúng trong khi chúng vẫn còn mềm. Donald đã chui từ buồng máy lên và đến nói chuyện với Jo một cách dài dòng và khó hiểu về nó. Với ánh mắt đờ đẫn, bà mỉm cười và gật đầu và nhấm nháp những mẩu bánh. Cuối cùng, bà được giải thoát nhờ những giọng nói vọng xuống từ trên buồng lái. “Tôi phải lên đón họ,” bà nói, và phóng vèo lên những bậc thang.

“Chồng tôi đã tự chui xuống buồng máy,” một cô gái còn rất trẻ nói, cô ta mặc một chiếc váy ngắn bó sát và đi đôi giày cao gót. “Còn tôi chẳng thích chút nào.” Cô ta có vẻ rụt rè và không được thoải mái, như thể cô ta thà ở bất cứ đâu còn hơn lên một con thuyền.

“Mời cô xuống đây ăn bánh sô-cô-la hạnh nhân,” Jo nói, cảm nhận được sự miễn cưỡng của cô ta khi phải lên đây theo ông chồng mê tàu thuyền. “Chúng vẫn còn hơi mềm, nhưng rất ngon.”

“Hãy nói với cô là họ đã về hết rồi,” một lúc lâu sau Jo nói, với đôi mắt khép chặt. “Hãy nói với cô là cô không phải trả lời bất cứ câu hỏi nào nữa, hoặc phải xin lỗi thêm nữa về tình trạng của căn buồng nhỏ.”

“Họ về hết rồi cô ạ,” Dora nói, “và bây giờ đến lượt chúng ta đi dòm ngó thuyền của những người khác. Nhưng cô không cần phải đi,” cô nói thêm, nhìn dáng vẻ uể oải của Jo, như thể bà đang ngủ. “Chúng ta có thể ở nhà.”

“Cháu không muốn đi một mình à?”

“Không ạ.” Mặc dù Dora sẽ thất vọng nếu bỏ lỡ cơ hội tham quan tất cả những con thuyền khác, cô không thích tự tiện trèo lên chúng, cho dù đó là điều ai ai cũng đang làm.

Jo mở một bên mắt. “Không, cô muốn trả đũa,” bà nói. “Cô cần trang điểm lại một chút.”

“Cháu nên duỗi thẳng tóc.” Dora vuốt những lọn tóc xoăn mà bình thường vẫn được duỗi thẳng của cô.

“Cô thích cháu để xoăn hơn,” Jo nói. “Nó khiến cháu có vẻ tự nhiên một cách hấp dẫn. Mái tóc khi vừa ngủ dậy,” bà nói thêm. “Nó có tên gọi như thế đúng không nhỉ?”

“Cháu không biết, nhưng nghe hay đấy ạ.”

Dora hy vọng Jo sẽ không trang điểm quá lâu, và quả đúng thế thật. Bà bước ra từ phòng tắm sau một vài phút và nói, “Những đối thủ khác hãy coi chừng. Bây giờ cô sẽ mở những cánh cửa xa lạ và quệt ngón tay lên những bề mặt để tìm kiếm bụi bẩn! Kim và Aggie[4] cũng chẳng hơn được cô!”

[4] Hai nhân vật trong chương trình truyền hình How clean is your house? (Nhà bạn sạch đến mức nào?) của Anh. Họ đến thăm những ngôi nhà bẩn thỉu và lau dọn chúng - ND

“Không ai làm thế, đúng không ạ?” Dora sợ hãi.

“Đúng vậy,” Jo thừa nhận, “đó chỉ là một cách nói ẩn dụ.”

“Đi thôi cô,” Dora nói, không muốn ẩn dụ, ví von gì vào lúc đó. “Chúng ta sẽ bắt đầu từ đâu?”

“Hãy tìm Bill và Miranda,” Jo nói. “Chúng ta biết họ, đôi bên sẽ không cảm thấy quá ngại ngùng.”

Chiếc Hepplewhite là một bản sao y như thật của một con thuyền Hà Lan mà Bill và Miranda đóng vài năm trước. Jo nhớ đã được nghe kể toàn bộ chuyện này, và chia sẻ thông tin với Dora khi họ tìm kiếm nó giữa cả một hạm đội tàu thuyền từ nơi khác đến đang neo trên một khúc sông.

“A, nó kia rồi,” Dora nói. “Tên thuyền được viết bằng những chữ to tướng trên cái chỗ ở phía cuối của nó.”

“Đó là đuôi thuyền, Dora ạ,” Jo nói. “Cô chẳng biết gì nhiều về tàu thuyền và tên gọi của các đồ vật, dụng cụ trên chúng, nhưng cô cũng biết được điều đó.”

“Cháu sẽ cố nhớ,” Dora nói, vẻ biết lỗi.

“Tôi rất mừng vì người đến là bà,” Miranda nói khi bà thấy họ. “Tôi chưa sẵn sàng lắm. Hôm qua tôi vừa đi săn lùng được ít đồ cổ và tôi chưa biết cất chúng vào đâu.”

“Chào Jo,” Bill nói. “Và đây hẳn là Dora. Hoan nghênh hai người lên thăm con thuyền của chúng tôi .”

Giữa phòng khách là một cái bàn lớn hình chữ nhật đang chất đầy những cái hộp và túi giấy.

“Thấy không?” Miranda nói, sau khi dẫn họ xuống. “Chỉ cần tháo rời cái bàn này ra và cất đi là phòng khách trông khá hơn nhiều, chỉ có điều tôi vẫn còn cả đống đồ này chưa biết để đâu.”

“Ai bảo em mua chúng,” Bill hài hước nói.

“Tôi đã mặc cả được một cái giá hời, tôi phải có được chúng. Nhưng đó là vấn đề, tôi phải mua tất cả chỗ đó và một vài món trong số chúng thực sự chỉ là đồ bỏ đi. Nhìn cái gương này xem.” Bà nhấc lên một chiếc gương nhỏ với cái khung bằng vàng rất cầu kỳ.

“Trông nó đáng yêu mà!” Jo nói.

“Nó đã bị hỏng rất nặng,” Bill nói. “Có sửa cũng vô ích. Em nên ném nó đi.”

“Ôi, đừng làm thế!” Jo nói, giành lấy nó từ tay Miranda. “Nó rất dễ thương!”

“Nhưng nó quá cũ nát rồi. Nhìn xem, tiểu thiên sứ này đã bị mất một bàn chân, bà không thể thấy những bông hoa kia là hoa gì, và khoảng tám mươi phần trăm vòng xoắn trang trí đã bị rụng mất.” Miranda, dù hoàn toàn đồng ý với Jo rằng chiếc gương rất đáng yêu, nhưng vẫn buộc phải chỉ ra những khiếm khuyết của nó.

“Tôi chắc chắn chúng ta có thể làm được điều gì đó,” Jo nói, vẫn nắm chặt nó. “Chiếc khung này được làm bằng gì?”

“Gỗ chạm, dát lá vàng,” Miranda nói. “Rất khó sửa.”

“Và bà không biết người nào có thể sửa nó sao?”

“Nó không đáng để chúng tôi cố gắng tìm kiếm một người như thế, với lại đó là một nghề thủ công rất hiếm,” Bill nói.

“Vậy tôi có thể thử không?” Jo hỏi, miễn cưỡng đặt chiếc gương xuống. “Việc đó sẽ rất thú vị và tôi rất buồn khi nghĩ đến cảnh nó bị ném đi, hoặc bị bán đồng nát hay đại loại thế.”

“Bà đã bao giờ làm một việc gì như thế chưa?” Bill hỏi. “Không dễ đâu.”

“Tôi chưa từng làm một việc y hệt như thế này, nhưng tôi thích sửa đồ đạc. Tôi có một quyển sách dạy các kỹ thuật như đánh bóng kiểu Pháp, sơn mài, vân vân. Tôi là một kẻ cứng đầu. Tôi không thích bị thất bại.”

“Nhưng bà có thực sự muốn dành thời gian cho nó không? Sẽ khá lâu đấy.” Bill nhấc một cái hộp lên, rõ ràng định đặt nó ra chỗ khác, nhưng đành bó tay và đặt nó trở lại vị trí cũ.

“Cô thường làm những bông hoa bằng đường rất tuyệt vời và những thứ tương tự như thế,” Dora nói. “Cô có nhớ cái bánh mà cô đã làm nhân dịp sinh nhật lần thứ bốn mươi của mẹ cháu không? Nó được bao phủ bởi những bông hoa và những con bướm.”

“Cô đã học một khóa làm bánh mà,” Jo nói. “Cô từng học rất nhiều thứ.” Bà thở dài, cho phép nỗi luyến tiếc đem đến nỗi buồn cho bà trong một thoáng chốc.

“Bà thực sự thích cái gương cũ đó à?” Miranda có vẻ cảm nhận được sự chùng xuống trong tâm trạng của Jo.

“Phải.” Jo tươi tỉnh hẳn lên. “Tôi yêu chiếc gương cũ đó – nó thực sự dễ thương.”

“Vậy tại sao bà không thử xem bà có thể làm gì với nó? Nếu kết quả tốt đẹp, tôi có thể mang nó đến cửa hàng và bà có thể kiếm được tiền. Nếu bà không muốn giữ nó,” Miranda nói.

“Tôi thực sự không thể giữ quá nhiều đồ đạc khi ở trên chiếc Ba chị em,” Jo nói. “Và tôi thậm chí không biết liệu tôi có sửa được nó không.” Bà không thể quyết định liệu bà muốn thử thách này hay chùn bước trước nó.

“Bà cứ thử đi,” Miranda khuyến khích. “Và tôi còn nhiều món đồ khác cần sửa nếu bà có khả năng.”

“Chao ôi!” Dora nói, tìm thấy một cái đĩa nhỏ với một nữ thần không đầu nằm duyên dáng trên mép của nó. “Cô sẽ sửa cô ấy bằng cách nào?”

“Ừm. Không chắc lắm,” Jo ngẫm nghĩ. “Có lẽ trước hết cô sẽ cố gắng tìm một cái đầu khác có cùng kích cỡ, sau đó mài giũa, sửa sang lại cho đến khi nó có vẻ ổn ổn.”

“Thế này nhé,” Miranda hồ hởi nói. “Tôi sẽ gom lại tất cả những thứ cần sửa nhất để bà xem bà có thể làm gì với chúng. Thú thực,” bà tiếp tục, “tôi sẽ rất vui sướng nếu bà nhận thấy bà có thể sửa chúng. Những món đồ nhỏ bé này rất đáng giá.”

“Tôi sẽ thử, và nếu tôi không thể, chà, bà cũng chẳng mất mát gì.”

“Còn bây giờ, hai người có muốn tham quan con thuyền của tôi hay không?” Bill hỏi, nghe hơi thảm não.

“Có chứ,” Dora nói. “Tôi đang rất nóng lòng.”

“Miễn là tôi không phải nhìn ngó động cơ,” Jo nói. “Tôi chẳng thích thú gì chúng cả.”