Thành công chỉ dành cho người kiên nhẫn.
- Johann Gottfried von Herder
Căn nhà lúc này đã hoàn toàn im ắng, chỉ còn nghe tiếng lách cách của bàn phím máy tính. Trong khi chồng và con gái đã chìm vào giấc ngủ thì tôi lại đang ngồi trước màn hình. Lẽ ra tôi không cần phải ngồi đây vào giờ này, khi mà toàn thân rã rời mệt mỏi dù đầu óc vẫn tỉnh táo một cách bất thường. Suốt nhiều đêm nay, tôi thao thức với hàng tá những suy nghĩ ngổn ngang trong đầu để rồi cuối cùng lại bật dậy và lặng lẽ mở máy vi tính.
Tôi tự hỏi động cơ nào đã thôi thúc mình gõ dòng chữ: “Xin con nuôi ở nước ngoài” vào thanh công cụ tìm kiếm trên mạng Internet. Bạn bè và người thân của tôi chẳng có ai từng nhận con nuôi. Thế nhưng, ý định ấy đến với tôi tình cờ, tựa như một luồng sáng bất chợt chiếu qua.
- Anh nghĩ sao nếu vợ chồng mình xin một đứa con nuôi ở nước ngoài?
Tôi hỏi chồng khi cả hai cùng dùng điểm tâm vào một buổi sáng thứ bảy đẹp trời. Anh ngừng một lát và mỉm cười gật đầu. Nụ cười của anh dường như tiếp thêm cho tôi sức mạnh và giúp tôi hiểu rằng mình sẽ không đơn độc trong hành trình tìm kiếm con nuôi.
Sau nhiều lần lang thang trên mạng, tôi nhận ra rằng có vô số trẻ con đang cần một gia đình. Thế rồi vào một đêm nọ, khi vừa tựa lưng vào ghế chợp mắt thì trong đầu tôi hiện ra hình ảnh hai đứa trẻ - một bé trai chập chững biết đi và một bé gái ở độ tuổi mẫu giáo – đang ngồi cùng con gái tôi tại bàn ăn trong bếp. Cả hai đứa đều có nước da nâu sậm, mái tóc xoăn và đôi mắt tròn to. Mặc dù tôi chỉ thoáng thấy hình ảnh chúng nhưng chẳng hiểu sao tôi lại có cảm giác mình đã biết chúng từ rất lâu. Cả hai đứa đều rất kháu khỉnh, dễ thương. Và chúng nhanh chóng biến mất, cũng đột ngột như khi xuất hiện.
Suốt nhiều đêm sau đó, tôi lên mạng để tìm những đứa trẻ có đặc điểm như trong giấc mơ của mình. Một lần, tôi vào trang web giới thiệu về đất nước Campuchia và lần tìm những trang nói về việc xin và nhận con nuôi ở đất nước này. Tôi lập tức điền vào mẫu đơn xin con nuôi từ Campuchia. Thế nhưng hai tuần sau, mọi việc bỗng trở nên khó khăn khi chính quyền Mỹ tuyên bố ngưng việc cho và nhận con nuôi ở Campuchia để tiến hành các cuộc điều tra xã hội. Tôi viết thư khắp nơi để xin giúp đỡ nhưng không có kết quả. Thông thường, những cuộc điều tra như thế này sẽ kéo dài hàng năm trời. Mọi người đều cho rằng tôi đang lãng phí công sức của mình vào một việc vô nghĩa và khuyên tôi nên tìm con nuôi ở một nước khác.
Thế nhưng, bất chấp mọi trở ngại, tôi quyết định tự đến Campuchia để tìm những đứa con của mình. Với lòng tin của tôi cùng sự giúp đỡ của một tài xế taxi tốt bụng, tôi bắt đầu hành trình xin con nuôi. Dù đã đến thăm mười ba trại trẻ mồ côi nhưng tôi vẫn chưa tìm ra hai đứa bé mà mình đã nhìn thấy trong mơ.
Một hôm, có một cha xứ mời tôi đến thăm trại trẻ mồ côi nơi ông đang bảo trợ. Khác với những trại trẻ mồ côi khác, nơi này chỉ toàn những trẻ dưới một tuổi.
Vì bọn trẻ có thể khóc khi gặp người lạ nên tôi tránh nhìn thẳng vào mắt chúng. Thế nhưng, chỉ một lát sau khi đặt chân vào phòng, tôi nhận ra có một cậu bé đang chăm chú quan sát mình. Tôi đưa mắt nhìn nhanh về phía cậu bé, lòng lo sợ cậu bé sẽ òa lên khóc. Nhưng không, cậu bé vẫn nhìn tôi với đôi mắt đen láy, tròn xoe. Và khi ánh mắt của chúng tôi chạm nhau, tôi nghe thấy một giọng nói từ sâu thẳm lòng mình cất lên: “Mình biết cậu bé này...”. Và tôi nhận ra trên gương mặt cậu bé cũng biểu lộ điều tương tự.
Thật ra, mong muốn của tôi khi đến Campuchia là tìm một cậu bé đang bi bô tập nói. Vậy nên sau đó, tôi đã ghé thăm thêm nhiều trại trẻ mồ côi khác. Thế nhưng, điều đáng nói là dù đến đâu, tôi vẫn không quên được hình ảnh cậu bé đặc biệt nọ. Và ý nghĩ nhận nuôi cậu bé hình thành trong đầu tôi.
Trở về sau chuyến đi Campuchia, mong muốn nhận con nuôi của tôi trở nên mãnh liệt hơn bao giờ hết. Ba tháng sau, tôi quyết định trở lại Campuchia một lần nữa. Tôi sẽ đi thăm thêm hai mươi ba trại trẻ mồ côi khác mặc dù việc xin con nuôi vẫn chưa được chính phủ Mỹ cho phép trở lại. Nhất định tôi phải tìm ra các con nuôi của mình. Đó không còn là mong ước nhất thời nữa mà đã trở thành một quyết tâm thật sự.
Ngay khi đến Campuchia, tôi trở lại thăm cậu bé nọ. Thật ngạc nhiên khi cậu bé nhanh chóng nhận ra tôi và với tay đòi tôi bế. Và ngay trong khoảnh khắc được ôm cậu bé vào lòng, tôi nhận thấy có một sợi dây thiêng liêng đã buộc chặt chúng tôi vào nhau. Tôi hiểu rằng nhất định cậu bé này phải trở thành con của vợ chồng tôi. Thế nhưng, dù đã đến thăm rất nhiều trại trẻ mồ côi khác, tôi vẫn chưa tìm ra được cô con gái nuôi như mong đợi.
Vài ngày trước khi rời khỏi đất nước Campuchia, tôi đến thăm cậu bé mình đã quyết định nhận làm con nuôi. Trên đường về, tôi ghé thăm một trại trẻ mồ côi nhỏ gần đó. Tôi đề nghị người phụ trách cho tôi xem những bức ảnh về các bé gái ở trung tâm. Tập ảnh trong tay tôi vơi dần mà bóng dáng đứa con gái nuôi trong tâm tưởng tôi vẫn hoàn toàn bặt tăm. Tôi thất vọng đặt tập ảnh xuống và giật mình khi nhìn vào bức ảnh cuối cùng. Trong hình, một bé gái khoảng mười tám tháng tuổi như đang nhìn sâu vào tôi. Khi người ta mang cô bé đến, tôi ôm cô bé vào lòng. Một cảm giác khác lạ trào dâng trong lòng tôi. Và ngay trong khoảnh khắc ấy, tôi hiểu rằng mình đã tìm được vật báu của đời mình.
Tôi vội vàng gọi cho chồng: - Anh ơi, em đã tìm thấy các con của chúng mình rồi. Nhưng em chẳng biết là mình nên vui hay buồn nữa. Đến khi nào chúng mình mới có thể mang các con về nhà được hả anh?
Hai ngày sau, tôi quay về Mỹ với tâm trạng nặng trĩu.
Thế nhưng vài ngày sau, tôi nhận được một lá thư thông báo rằng vấn đề xin con nuôi của vợ chồng tôi đã được xem xét giải quyết và điều tuyệt vời nhất là chúng tôi có thể sớm đón hai đứa trẻ về nhà.
Mười ba tháng sau đó, con trai và con gái nuôi của chúng tôi – giờ đây đã trở thành một cậu bé chập chững biết đi và một cô bé ở độ tuổi mẫu giáo – cuối cùng đã thật sự có chỗ ngồi của chúng tại chiếc bàn nơi gian bếp như tôi từng thấy trong giấc mơ của mình.
- Elizabeth Mallory