“Chúng ta thường cho rằng những điều ta làm chỉ như giọt nước giữa đại dương, nhưng đại dương sẽ vơi đi khi thiếu những giọt nước như thế.”
- Mẹ Teresa
Một đám trẻ ăn mặc rách rưới đứng co ro giữa trời giá lạnh trong trại tập trung Bergen-Belsen. Đó là vào khoảng đầu tháng Mười Hai năm 1944. Đám trẻ ấy gồm mấy chục đứa trẻ gầy gò người Do Thái đến từ Hà Lan. Chúng may mắn sống sót suốt bốn năm rưỡi với nhiều tháng liền bị giam cầm từ khi chiến tranh nổ ra. Và lúc này chúng đang vô cùng lạc lõng.
Chúng đã phải câm lặng chứng kiến cảnh cha và anh trai bị ép buộc lên những đoàn xe của Đức Quốc xã chở đi. Không ai nói cho chúng biết người thân của mình bị đưa đi đâu, nhưng một số em loáng thoáng nghe thấy tên của các trại tập trung tử thần như Auschwitz, Treblinka và Chelmno.
Sau khi bắt hết đàn ông, đoàn xe lại đến để áp tải phụ nữ. Khi người lớn đã bị đưa đi hết, tất cả trẻ em cũng bị đưa lên xe. Người ta chở những đứa trẻ này đến các khu trại nữ rồi bỏ mặc chúng ở đó. Đoàn xe vừa rời đi, cậu bé Gerald Lakmaker mười một tuổi phát hiện những vật dụng cá nhân ít ỏi gói trong chiếc chăn màu vàng của mình đã mất.
Giờ đây, giữa màn đêm vô định, các em chỉ còn biết ôm ghì lấy nhau. Mấy đứa lớn cố gắng dỗ dành các em nhỏ đang quấy khóc.
Trong sự tĩnh mịch của khu lều trại gần đó, một phụ nữ tên Luba Gercak khẽ lay người đang nằm kế mình và hỏi, “Cô có nghe thấy gì không? Hình như có tiếng trẻ em khóc?”.
“Làm gì có. Cô lại gặp ác mộng rồi”, người kia đáp. Nghe thế, Luba nhắm nghiền mắt lại, cố xua đi những ký ức kinh hoàng.
Cô lớn lên tại một ngôi làng nhỏ thuộc cộng đồng người Do Thái ở Ba Lan. Khi còn là một thiếu nữ, Luba kết hôn với Hersch Gercak - một thợ đóng tủ - và họ đã có với nhau một cậu con trai tên Issac. Hai vợ chồng những tưởng có thể sinh thêm con và sống một cuộc đời bình dị. Nào ngờ, chiến tranh nổ ra và cuốn họ vào vòng xoáy tử thần. Quân Đức dồn gần như toàn bộ người Do Thái trong vùng lên những chiếc xe ngựa và bắt đầu hành trình chết chóc đến Auschwitz-Birkenau, Ba Lan - trại tập trung khủng khiếp nhất trong hệ thống Đức Quốc xã.
Luba ôm chặt Issac vào lòng lúc bước qua cánh cổng của doanh trại. Chỉ vài phút sau, quân lính đã giằng lấy đứa con trai ba tuổi từ tay cô. Tiếng con khóc thét gọi mẹ cứ vang vọng bên tai cô khi bọn chúng ném thằng bé lên chiếc xe tải chở những người già và trẻ em không đủ sức lao động. Chẳng mấy chốc, chiếc xe lăn bánh đưa tất cả những con người đó đến phòng hơi ngạt. Tiếp theo sau đó là chuỗi ngày tăm tối mờ mịt. Nỗi đau mất con còn chưa kịp nguôi ngoai thì Luba thêm một lần chết lặng khi tận mắt chứng kiến cảnh xe tải kéo lê thi thể của chồng. Lúc đó, cô không còn thiết sống nữa.
Thế nhưng trái tim ngoan cường bên trong không cho phép Luba bỏ cuộc. Có lẽ Chúa có sắp đặt riêng cho cô. Với mái đầu cạo trọc cùng con số 32967 xăm trên cánh tay, Luba tìm cách để được làm việc tại bệnh viện Auschwitz - nơi những người bệnh bị bỏ mặc cho đến chết.
Chuỗi ngày dài vô tận cùng những đêm đen mộng mị cứ thế trôi qua. Luba tự học tiếng Đức và luôn để ý nghe ngóng tình hình. Một ngày nọ, cô nghe tin chúng chuẩn bị chuyển các y tá đến một doanh trại tại Đức. Luba tình nguyện xin đi. Tháng Mười Hai năm 1944, cô được chuyển đến trại tập trung Bergen-Belsen, Đức. Ở đó không có phòng hơi ngạt, nhưng suy dinh dưỡng, bệnh tật và những vụ hành hình tập thể khiến nó trở thành một trung tâm giết chóc ghê rợn.
Khi quân Đồng minh ngày càng siết chặt vòng vây và trật tự dần bị phá vỡ, tình cảnh vốn đã ngặt nghèo nơi đây càng trở nên khốn khó gấp muôn phần. Từng chuyến xe nối đuôi nhau mang đến ngày càng nhiều những con người đói khát, để mặc họ bị nhồi nhét vào các khu lều trại ọp ẹp và bẩn thỉu.
Ngay lúc này đây, Luba liên tục trở mình trên giường và lại nghe thấy tiếng trẻ em khóc. Lần này, cô bật dậy mở cửa rồi bỗng khựng lại và sửng người trước đám trẻ đang sợ hãi và run rẩy. Luba vẫy tay ra hiệu cho bọn trẻ tiến về phía cô. Một số em rụt rè bước lại gần.
“Chuyện gì xảy ra vậy? Ai bỏ các cháu ở đây?”, cô khẽ hỏi.
Với vốn tiếng Đức bập bẹ, một cậu bé lớn tuổi trong nhóm, tên Jack Rodri, giải thích rằng quân Đức Quốc xã đã đưa các em đến đây mà không hề giải thích gì. Trong năm mươi bốn đứa trẻ đó, đứa lớn nhất là Hetty Werkendam, mười bốn tuổi. Lúc này, con bé đang ẵm bé Stella Degen mới hai tuổi rưỡi trên tay. Có những em thậm chí còn nhỏ tuổi hơn nữa. Luba nắm lấy tay Jack và ra hiệu cho những em còn lại đi theo mình.
Khi nhìn thấy bọn trẻ, một số phụ nữ ra sức can ngăn Luba để cô không đưa chúng vào trại. Họ biết chọc tức bọn lính Đức thì hậu quả sẽ là một viên đạn vào đầu.
Thế nhưng Luba vẫn không hề lung lay vì cô tin đó là việc mình phải làm. Cô khiến những phụ nữ kia phải xấu hổ khi hỏi, “Nếu đây là con các chị thì liệu các chị có khuyên tôi bỏ mặc chúng không? Hãy nghe tôi, những đứa trẻ này đều là con của một ai đó”. Nói xong, Luba đưa đám trẻ rách rưới vào trong.
Sáng hôm sau, Jack Rodri kể cho Luba nghe những việc đã xảy ra với cả nhóm. Ban đầu, bọn Đức Quốc xã tạm tha cho những đứa trẻ này vì cha của chúng là lực lượng nòng cốt của ngành công nghiệp kim cương tại Amsterdam, Hà Lan mà quân Đức thì cần đến kỹ năng cắt kim cương của họ. Những thợ cắt này cùng gia đình được đưa đến trại Bergen-Belsen. Tại đây, bọn lính tách đám trẻ khỏi cha mẹ chúng và bỏ rơi các em giữa đường.
Luba hết lòng cảm tạ Thượng Đế vì đã mang đám trẻ đến với cô. Vậy là Ngài đã ban cho cô một mục đích sống mới. Con trai cô đã bị sát hại, nhưng cô sẽ không để những đứa trẻ này phải chịu chung số phận đó.
Vì biết mình không thể giấu hàng chục đứa trẻ như thế trong trại, cô trình bày với một sĩ quan Đức Quốc xã về chuyện đã xảy ra. “Hãy để tôi chăm sóc bọn trẻ”, cô nói trong khi đặt bàn tay của mình lên cánh tay tên sĩ quan. “Tụi nhỏ sẽ không gây rắc rối gì đâu. Tôi hứa đấy.”
“Cô là y tá ở đây. Cô muốn gì ở lũ trẻ Do Thái rác rưởi này?”, hắn cộc cằn đáp.
“Tôi muốn chăm sóc cho chúng bởi tôi cũng là một người mẹ, và bởi tôi đã mất đứa con trai của mình tại Auschwitz”, cô nói.
Khi nghe những điều này, tên sĩ quan bỗng nhận ra bàn tay cô vẫn đang đặt trên cánh tay hắn. Tù nhân không được phép chạm vào người Đức. Hắn nện thẳng vào mặt cô một cú đấm trời giáng khiến cô ngã lăn ra đất.
Luba lồm cồm bò dậy, môi cô rỉ máu. Thế nhưng cô quyết không lùi bước. “Ở tuổi này chắc ông cũng đã có con có cháu. Tại sao ông lại muốn làm hại những đứa trẻ ngây thơ này? Bọn chúng sẽ chết nếu không có ai chăm sóc.”
Có lẽ tên sĩ quan cũng hơi động lòng hoặc có lẽ hắn không biết phải làm gì với lũ trẻ này. Hắn ta lầm bầm, “Cứ giữ chúng đi. Rồi cả bọn chúng mày cùng kéo nhau xuống địa ngục luôn”.
Nhưng Luba vẫn chưa dừng lại ở đó. “Bọn trẻ cần thứ gì đó để ăn. Hãy cho tôi một ít bánh mì”, cô đề nghị. Cuối cùng, tên sĩ quan cho cô tờ phiếu lãnh hai ổ bánh mì.
Từ khi nhận nuôi đám trẻ, thức ăn trở thành mối quan tâm chính trong ngày - một nỗi lo không hồi kết. Khẩu phần gồm một lát bánh mì đen và nửa chén súp loãng khó mà giúp người ta đẩy lùi cái đói. Vì vậy, mỗi buổi sáng Luba lại đi loanh quanh doanh trại - từ kho dự trữ, nhà bếp đến lò bánh mì - và xin xỏ, trao đổi hay thậm chí là lấy trộm thức ăn. Mỗi khi vừa thấy bóng cô từ đằng xa, lũ trẻ đã đứng túm tụm trước cửa và reo vang, “Cô ấy về rồi! Và cô ấy còn mang thức ăn cho chúng ta nữa”.
Bọn trẻ yêu thương Luba như mẹ ruột của mình. Chính cô đã cứu các em thoát khỏi đói khát, tận tình chăm sóc khi chúng đau ốm cũng như cất tiếng hát ru trong những đêm dài tăm tối. Những đứa trẻ nói tiếng Hà Lan này tuy không hiểu lời cô nói nhưng hoàn toàn cảm nhận được tình yêu thương của cô dành cho chúng.
Nhiều tuần, rồi nhiều tháng cứ nối tiếp trôi qua. Những tù nhân tại Bergen-Belsen hay tin quân Đồng minh đang giành thế áp đảo. Mùa xuân năm 1945, quân Đức ra sức xử lý các xác chết nằm ngổn ngang khắp khu trại. Nhưng đó là điều không thể. Lúc này, dịch kiết lỵ lây lan làm bọn trẻ bị mất nước và lịm đi vì kiệt sức, trong khi chứng sốt phát ban khiến chúng thoi thóp trong những cơn sốt và đau đầu dữ dội.
Tại một khu lều trại gần đó, một đứa trẻ đến từ Amsterdam tên Anne Frank đã đầu hàng trước lưỡi hái tử thần. Còn tại khu trại của Luba, một số em trong đám trẻ cô nhận nuôi cũng bị nhiễm bệnh. Cô đến bên từng đứa trẻ, đút thức ăn cho những em còn đủ sức ăn, kề môi lên trán từng đứa để kiểm tra nhiệt độ và phân phát những viên thuốc quý giá cho những em bệnh nặng nhất. Cô cầu xin một phép màu nào đó sẽ xảy ra và cứu vớt những đứa trẻ này.
Và phép màu đó đã xuất hiện vào Chủ nhật, ngày 15 tháng Tư năm 1945, khi đoàn xe tăng của người Anh đâm thẳng vào trại Bergen-Belsen. Loa phóng thanh vang lên câu thông báo bằng sáu thứ tiếng, “Các bạn đã được tự do! Các bạn đã được tự do!”.
Quân Đồng minh có mang theo thuốc men và bác sĩ, nhưng lúc đó vẫn quá trễ đối với tình trạng của nhiều người. Trong trại có hàng ngàn thi thể chưa được chôn cất và sáu mươi ngàn tù nhân - gần một phần tư trong số đó cũng qua đời sau khi được giải phóng.
May mắn thay, trong số năm mươi bốn đứa trẻ mà Luba tìm thấy mười tám tuần trước đó, năm mươi hai em đã sống sót. Khi sức khỏe đã hồi phục và ổn định, các em được đưa về nhà bằng máy bay quân sự của Anh. Luba cũng đi cùng trong chuyến bay ấy để trông nom bọn trẻ. Về sau, một sĩ quan người Hà Lan đã viết, “Nhờ có cô mà những đứa trẻ này giữ được mạng sống. Người Hà Lan chúng ta nợ cô rất nhiều vì những gì cô đã làm”.
Những đứa trẻ được sắp xếp ở tại một mái ấm tạm thời trong lúc chờ ngày đoàn tụ với mẹ của chúng - phần lớn những người mẹ đều còn sống sót. Sau này, theo đề nghị của Hội Chữ Thập Đỏ Quốc tế, Luba đã hộ tống bốn mươi đứa trẻ mồ côi do chiến tranh từ các trại tập trung khác nhau đến Thụy Điển - nơi các em bắt đầu cuộc sống mới.
Sau đó, một cuộc sống mới cũng mở ra với Luba. Tại Thụy Điển, cô gặp Sol Frederick - cũng là một trong những người sống sót sau nạn thảm sát của Đức Quốc xã. Họ kết hôn rồi chuyển đến sống tại Mỹ và có với nhau hai người con. Song, Luba chưa bao giờ quên “những đứa con” trước đó của mình.
Dù sống ở đâu, hầu như “đứa con” nào của Luba cũng thành công. Jack Rodri sau này đã chuyển đến Los Angeles và trở thành doanh nhân thành đạt. Hetty Werkendam theo đuổi ngành bất động sản tại Úc và được bầu là người nhập cư thành công nhất đất nước. Gerard Lakmaker là một nhà sản xuất làm ăn phát đạt. Stella Degen-Fertig không còn chút ký ức nào về những ngày ở Bergen-Belsen. Nhưng khi cô lớn lên, mẹ cô đã kể cho cô nghe về vị ân nhân tên Luba và Stella tự hỏi vị ân nhân ấy hiện ở đâu.
Những đứa trẻ khác trong sự kiện năm xưa cũng quyết tâm đi tìm Luba. Jack Rodri tìm được cơ hội để kể câu chuyện về Luba trên truyền hình. “Nếu ai biết bà ấy hiện ở đâu, xin hãy gọi đến đài truyền hình”, Jack khẩn cầu.
“Tôi biết người phụ nữ này. Bà ấy hiện đang sống ở đây”, một người gọi từ Washington - thủ đô nước Mỹ - cho hay.
Jack lập tức gọi điện cho Luba. Ngay trong tuần đó, anh đã có mặt tại nhà của Luba và ôm bà vào lòng. Cả hai đều nghẹn ngào trong những giọt nước mắt hạnh phúc.
Một thời gian sau, Gerard Lakmaker sống tại Luân Đôn quyết định tổ chức một buổi tri ân dành cho Luba. Những người đã nối lại liên lạc với nhau bắt đầu miệt mài tìm kiếm những người còn lại.
Trong một buổi chiều tháng Tư đầy nắng năm 1995, đúng dịp kỷ niệm năm mươi năm ngày tự do, ba mươi người đàn ông và phụ nữ - hầu hết đều chỉ từng biết về nhau khi còn là một đứa trẻ - tập trung tại hội trường Thành phố Amsterdam để vinh danh Luba.
Với giọng đầy cảm xúc, phó thị trưởng thành phố thay mặt Nữ hoàng Beatrix trao tặng Luba Huân chương Danh dự Bạc của Hà Lan vì Hoạt động Nhân đạo. Luba run lên vì xúc động.
Sau buổi lễ, Stella Degen-Fertig bước đến bên Luba. “Con đã nghĩ về người suốt cả cuộc đời mình”, Stella nói, cố gắng để giọng của mình không bị lạc đi. “Mẹ con luôn nói mẹ là người sinh ra con, nhưng người cho con cuộc sống này là người phụ nữ mang tên Luba. Mẹ dặn con không bao giờ được quên điều đó.” Nói xong, cô bật khóc và ôm lấy Luba rồi thì thầm, “Con sẽ không bao giờ quên”.
Luba ôm chặt Stella và nhìn sang những người còn lại bằng đôi mắt ướt đẫm. Đây chính là phần thưởng quý giá nhất dành cho Luba: được ở cạnh “những đứa con” của mình cũng như được cảm nhận lần nữa tình yêu thương đã cứu rỗi họ - và cả chính bà - khỏi bóng tối của trại tập trung tử thần năm nào.