Tôi là người đồng sáng lập ra Paul Michell Systems, một công ty chuyên về chăm sóc tóc chuyên nghiệp, cùng với Paul Mitchell. Chúng tôi đã xây dựng công ty này với số vốn ban đầu chỉ có 700 đô-la, nhưng là một khoản tiền lớn đối với chúng tôi vào thời điểm đó. Tôi thường phải sống theo kiểu "tay làm hàm nhai", phải chờ đợi từng phiếu lương để chi trả vô số hóa đơn đến hạn thanh toán.
Cuối cùng, năm 1981, gần hai năm sau khi thành lập công ty (và cũng tiến đến gần bờ vực phá sản rất nhiều lần), chúng tôi đã chính thức có lãi. Cá nhân tôi thì lần đầu trong đời kể từ lúc trưởng thành, tôi có thể thanh toán tất cả các hóa đơn của mình kịp thời hạn; tiền trả góp mua nhà, thẻ tín dụng, và các tiện nghi khác đều được thanh toán hết đến thời điểm đó. Hơn nữa, tôi vẫn còn thừa hơn 2.000 đô-la vào cuối tháng. Đó là điều chưa bao giờ xảy ra đối với tôi, và lúc đó tôi sẵn sàng ăn mừng về điều này.
Tôi quyết định ăn trưa ở một nhà hàng Mexico ở khu Marina del Rey. Đó là lần đầu tiên tôi gọi món ăn từ phía bên trái của thực đơn; tôi quyết định gọi loại thức ăn mà mình thích, thay vì phải dò ở cột bên phải của thực đơn để xem trước mức giá các món ăn.
Trong lúc ăn trưa, tôi nhìn thấy một nhóm hơn chục đứa trẻ và hai bà mẹ cùng đi vào nhà hàng. Họ ngồi xuống một chiếc bàn đối diện với tôi. Tôi nhận thấy một bà mẹ nói điều gì đó với người phục vụ, nhìn vào thực đơn và dò ngón tay ở phần bên phải của thực đơn. Tôi dám chắc rằng bà ấy đang cố tìm hiểu sẽ được phục vụ món gì trong mục " đặc biệt" giá 3,95 đô-la. Những đứa trẻ thì chẳng tỏ ra quá lo lắng về những thứ chúng sắp được ăn trưa; chúng cũng chẳng có vẻ gì chán nản của những đứa trẻ đã từng được đưa đến đây ăn hàng trăm lần - mà thay vào đó là sự phấn khích trên gương mặt chúng. Tôi đoán việc được đi ăn ở nhà hàng không phải là điều chúng thường được hưởng. Một cậu bé mặc quần jeans, áo thun rách rưới nhắc tôi nhớ đến hình ảnh của mình thời tôi ở độ tuổi của cậu. Khi còn bé, tôi chẳng bao giờ được đi ăn nhà hàng. Chúng tôi làm gì có tiền. Cha mẹ tôi là những người di dân; chúng tôi sống cùng với mẹ ở công viên Echo, phía đông Los Angeles. Mẹ tôi phải làm việc vất vả để nuôi chúng tôi. Bà còn không thể kiếm đủ tiền để gởi tôi và em tôi đi nhà trẻ.
Với quá nhiều thời gian tự do và không bị giám sát, tôi tham gia vào một băng đảng đường phố.
Mọi việc chẳng hề thay đổi hoặc trở nên dễ dàng hơn cho đến khi tôi trưởng thành. Tôi đã làm khá nhiều công việc khác nhau nhưng tiền bạc dường như không bao giờ đủ. Kiếm được một khoản tiền lương đủ lớn để chi trả tiền thuê nhà và mua sắm thực phẩm là mục tiêu cao nhất của tôi - nguy cơ phải sống ngoài đường khi đó không phải là một nỗi sợ hãi quá xa xôi. "Vô gia cư" trở thành một từ có ý nghĩa thực sự trong vốn từ vựng của tôi - đó là một thế giới lạnh lẽo và cô đơn. Nó tấn công một cách không thương tiếc vào tâm trí tôi những khi tôi trở mình vào ban đêm, cố gắng tìm cho mình một tư thế ngủ thoải mái ở ghế sau chiếc xe hơi cũ kỹ của mình. Nhưng trong tôi luôn có những giấc mơ, tình trạng vô gia cư, đói khát không phải là kết quả mà tôi muốn. Tôi tiếp tục nỗ lực làm việc và không ngừng tìm kiếm.
Và giờ đây, tôi đang thưởng thức bữa trưa khi biết rằng mình có tiền dư dả để tiêu xài. Dư dả. Tôi đứng dậy và đi theo người phục vụ bàn của nhóm người kia ra sau nhà hàng, giải thích cho anh ta biết sự tình và nói rằng tôi muốn những đứa trẻ và những bà mẹ có thể gọi bất kỳ món ăn nào mà họ thích. Và, điều quan trọng nhất là tôi nói với anh ta: "Xin đừng nói cho họ biết ai làm điều này".
Sau một lát, người phục vụ quay trở lại bàn ăn và báo tin cho họ. Một người phụ nữ ngay lập tức đứng dậy và nhìn quanh nhà hàng. Bà nhìn sang bên trái, thẳng vào chỗ tôi ngồi. Hôm đó tôi ăn mặc bình thường nên chẳng thu hút được sự chú ý của bà dù chỉ một giây. Bà nhanh chóng nhìn sang người tiếp theo, và người tiếp theo. Khi không có ai nhận quen, bà nói lớn cho mọi người đều nghe: "Dù bạn là ai, xin cảm đơn và cầu Chúa phù hộ cho bạn. Bạn không thể tưởng tượng được bạn đã làm một điều kỳ diệu như thế nào cho tôi và lũ trẻ này đâu!".
Tôi được phù hộ; tôi cảm thấy mình lâng lâng bay bổng. Việc có thể trao tặng người khác theo cách như vậy quả là một điều mới lạ đối với tôi. Chính lúc đó tôi quyết định rằng đối với tôi không chia sẻ sự thành công chính là sự thất bại, và thất bại là điều không thể chấp nhận được. Ngày hôm đó, tôi quyết định rằng mình thành công đến mức nào cũng không quan trọng, dù tôi có dư 2 đô-la hoặc 2.000 đô-la, hoặc rảnh rỗi 2 giờ đi chăng nữa. Tôi bắt đầu tìm cách giúp đỡ những người khác. Tôi đã khám phá được niềm vui lớn lao mà thành công thực sự có thể mang lại. Đối với tôi, thành công không được chia sẻ chính là thất bại.
- John Paul DeJoria
Lời bình:
John Paul DeJoria đồng sáng lập ra John Paul Mitchell Systems với Paul Michell ( đã mất) năm 1980 để sản xuất những sản phẩm chăm sóc tóc chuyên nghiệp Paul Mitchell. Là giám đốc điều hành, DeJoria đã chứng kiến doanh số bán lẻ các sản phẩm của công ty tăng lên đến 700 triệu đô-la.
DeJoria đóng góp cho nhiều tổ chức bao gồm Sovereign Diné Nation Weaving Collective, the AIDS Relief Fund for Beauty Professionals, Rescue Missions and the Rainforest Foundation, Sea Shepherd Foundation và Waterkeepers. Ông nhận được giải thưởng Horatia Alger năm 2004, cũng như giải thưởng Spirit of Life (Tinh thần Cuộc sống) của Trung tâm Y khoa Quốc gia Thành phố Hy Vọng.
Nguyên tác Counting My Blessings