Đó là một đêm trước lễ đăng quang. Ông Hoàng trẻ ngồi một mình trong tẩm cung lộng lẫy của ngài. Các cận thần đã lui cả ra ngoài sau khi rập đầu sát đất, cúi chào ngài theo đúng nghi lễ của thời đó. Họ tới đại sảnh đường cung đình để nghe bài giảng cuối cùng cả vị Giáo sư Nghi lễ, một số người trong bọn họ, cung cách còn quá bình dân, mà với một triều thần, tôi cho rằng, điều này thật quá ư là đáng bực.
Cậu bé - bởi ngài quả thực là một cậu bé, mới mười sáu tuổi đầu - chẳng hề luyến tiếc phải chia tay với đám triều thần. Ngài thả mình trên tràng kỉ nệm gấm hoa thêu mềm mại và thở phào một hơi dài nhẹ nhõm, ngài nằm đó, miệng há, mắt giương to, như vị thần Faun1 rám nắng và hoang dã, hay như một con thú non tơ nơi rừng sâu, vừa sa vào tay đám thợ săn.
1 Faun – vị thần rừng và đồng áng trong thần thoại La Mã – thường bảo trợ cho gia súc và mục đồng.
Thì chính là đám thợ săn đã tìm ra ngài, khi tình cờ bắt gặp ngài, thân trần, với một ống sáo trong tay, đang đi theo sau đàn gia súc nhà lão chăn dê nghèo khổ. Ông lão này đã nhặt được ngài và nuôi nấng ngài, để ngài cứ tưởng mình là con trai đẻ của ông.
Thực ra, ngài là giọt máu của một Công chúa, con gái của một đức Vua, là kết quả của cuộc hôn phối bí mật giữa nàng với một người có địa vị thấp kém hơn nàng rất nhiều, một người nước ngoài, nghe nói bằng tài chơi đàn luyt có sức hấp dẫn ma lực, đã quyến rũ được nàng. Cũng lại có lời đồn rằng, đó là một nghệ nhân từ Rimini1 được công Chúa sủng ái một cách khác thường. Sau đó, người này đột ngột bỏ dở công việc ở nhà thờ lớn và biến mất khỏi kinh thành. Đứa trẻ sinh ra được một tuần thì bị đánh cắp khi nó nằm ngay bên người mẹ ngủ say, rồi được chao cho một cặp vợ chồng nông dân tầm thường hiếm con, sống ở nơi rừng hoang núi đỏ, cách kinh thành hơn một ngày đường đi ngựa. Theo giám định của quan ngự y hay theo phỏng đoán của một số người không hiểu nỗi sầu, bệnh dịch hay một thứ thuốc độc Ý cực mạnh pha trong cốc rượu vang thơm hương liệu, đã giết chết người mẹ của đứa trẻ đúng nửa giờ sau khi nàng tỉnh giấc. Khi kẻ thuộc hạ tin cẩn, với đứa trẻ nằm vắt trên yên ngựa, nhảy khỏi mình con ngựa mệt lử, đến gõ vào cánh cửa thô dày của túp lều người chăn dê. Thì cũng là lúc xác Công chúa được mang vùi xuống một lỗ huyệt lộ thiên nằm ở góc sân một nhà thờ. Còn ở bên ngoài cổng thành, trong một huyệt mộ khác, là xác một chàng trai trẻ tuấn tú, có vẻ đẹp ngoại quốc, bị chôn vùi, tay chàng bị dây thừng chói trặt, ngực chàng chi chít những vết thương đỏ ngòm.
1 Một thành phố ở bắc Italia
Ít ra thì đó là câu chuyện người ta thì thào truyền tai nhau. Hẳn trước lúc lâm chung Đức Vua vô cùng ân hận bởi tội lỗi tày đình, hoặc chỉ vì không muốn ngai vàng tuột khỏi dòng huyết thống nhà mình, nên đã phái người đi đón đứa trẻ về và trước văn võ bá quan đã tuyên chỉ nó là người kế vị của ngài.
Ngay từ những giây phút đầu được kế vị, ông Hoàng trẻ đã biểu lộ một niềm đam mê kì lạ với cái đẹp, điều đã có ảnh hưởng sâu sắc một cách định mệnh tới cuộc đời ngài. Đám tôi tớ hầu hạ trong cung của ngài tường thuật lại những lời trầm trồ ngài thốt ra khi nhìn thấy những y phục trang nhã, đồ châu báu lộng lẫy được dâng lên ngài. Reo lên cuồng nhiệt, ngài liệng bỏ tấm áo chẽn da thô kệch cùng chiếc áo khoác da cừu. Đôi khi ngài cũng nhớ cuộc sống phóng khoáng nơi rừng hoang và luôn tỏ vẻ bực bội trước những buổi thiết triều tẻ ngắt, thường chiếm quá nhiều thời gian trong một ngày, nhưng cung điện tráng lệ - Joyeuse1, như người ta thường gọi nó - nơi giờ đây ngài nhận thức được mình là chủ nhân, đối với ngài giường như là một thế giới mới lạ, hiện ra đột ngột khiến ngài thích mê đi. Mỗi khi thoát khỏi những buổi thiết triều, ngài thường băng qua dãy cầu thang đồ sộ có những con sư tử bằng đồng mạ vàng và những bậc thang đá pocphia lấp lánh, rồi lang thang trong các gian phòng cùng các dãy hành lang, như cố công tìm kiếm trong cái đẹp một thứ thuốc làm dịu cơn đau, đem lại bình phục sau cơn bạo bệnh.
1 Tiếng Pháp - có nghĩa là sung sướng hạnh phúc
Trong những cuộc hành trình khám phá, như ngài vẫn gọi chúng - với ngài, đó quả là những cuộc phiêu du qua một miền đấy kì diệu; đôi khi tháp tùng ngài còn có cả một đoàn tiểu đồng mảnh mai, tóc sáng, áo choàng rủ bồng bềnh với những dải băng phấp phới vui tươi. Nhưng phần nhiều ngài đi một mình, bởi bản năng nhạy bén, gần như một linh cảm mách bảo ngài rằng bí quyết của nghệ thuật tốt nhất chỉ nên học hỏi một cách thầm lặng, rằng cái đẹp, cũng giống như sự thông thái, thường sủng ái những kẻ tôn thờ cô đơn.
Rất nhiều những đồn đại hiếu kì về ngài, trong thời gian này. Chuyện rằng có một Thị Trưởng béo tốt xin bệ kiến ông Hoàng mục đích thay mặt các thần dân trong kinh thành đọc dâng ngài một bài chúc tụng bóng bảy, đã bắt gặp ngài đang sùng kính quỳ trước một bức tranh lớn vừa được mang từ Vơnizơ về, và như tiên báo về sự thờ phụng những vị thần mới. Một lần khác, ngài bỗng biến mất trong vài giờ đồng hồ. Người ta tìm mãi mới thấy ngài trong một phòng nhỏ của một trong những tháp nhỏ thuộc cung điện. Ngài đang mê mẩn ngắm một viên ngọc Hi Lạp chạm hình chàng Adonnis1 người ta kể đã nhìn thấy ngài gắn cặp môi nóng bỏng của mình lên vầng trán pho tượng cổ đá hoa cương được tìm thấy dưới lòng sông khi người ta xây cây cầu đá. Bức tượng này có điêu khắc tên Hadrian, một nô lệ người Bithynia2. Ngài còn ngồi cả đêm để xem tác động của ánh trăng lên hình khắc chàng Edymion3 bằng bạc.
1 Theo thần thoại Hi lạp là một chàng trai rất đẹp, say mê nữ thần tình yêu Aphloditơ
2 Tên một nước cổ đại vùng tiểu Á
3 Theo thần thoại Hi lạp là chàng trai được thần Zớt triệu lên thiên đàng nhờ vẻ đẹp của mình.
Tất cả những thứ quý hiếm, đắt tiền đều có một ma lực nào đó khiến ngài mê đắm. Khao khát có được chúng nên ngài phái vô số các khách buôn đi khắp các nẻo, người đi săn lùng hổ phách với hình các nhân ngư thô nhám ở vùng biển Bắc; kẻ đến Ai Cập tìm kiếm những viên ngọc lam lạ kì; chỉ thấy trong hầm mộ của các bậc vua Chúa, nghe nói có những đặc tính ma quái; người sang Ba Tư kiếm những tấm thảm tơ và đồ gốm có họa tiết; kẻ tới Ấn Độ mua sa lụa cùng với ngà voi, lam bảo ngọc với vòng ngọc bích, guốc gỗ, đồ men xanh và khăn choàng len thượng hạng.
Nhưng điều chiếm ngự đầu óc ngài nhất là tấm long bào ngài sẽ mặc vào một ngày lễ đăng quang, dệt từ chỉ vàng và mũ vương miện có gắn ngọc rubi cùng cây quyền trượng nạm ngọc trai. Hằng đêm, ngài trăn trở về điều này khi ngự trên long sàng lộng lẫy uy nghi, đăm đắm ngắm nhìn những thanh củi thông to tướng bốc cháy ngùn ngụt trong lò sưởi. Những phác thảo do các họa sĩ nổi tiếng đó nhất thời phác ra đã được đệ trình lên ngài từ nhiều tháng trước, và ngài truyền cho các nghệ nhân phải làm việc cật lực để hoàn thành chúng. Thế là cả thiên hạ đổ đi tìm kiếm châu ngọc cho xứng với tác phẩm của họ. Ngài mường tượng mình đứng trước ban thờ của nhà thờ lớn, khoác long bào rực rỡ của bậc quân vương và nụ cười thoáng đọng trên cặp môi non trẻ, làm rạng ngời đôi mắt sẫm hoang dại của ngài.
Một lát sau ngài đứng dậy, tựa người bên mái chạm trổ của ông khói lò sưởi, ngó quanh căn phòng được chiếu sáng lờ mờ. Trên tường treo các tấm thảm dệt cảnh bức tranh Cái Đẹp Chiến thắng. Một chiếc tủ lớn khảm mã não và ngọc lam đứng choán một góc phòng. Đối diện cửa sổ là một chiếc tủ nhiều ngăn, mặt khảm những họa tiết bằng vàng lấp lánh, trên đặt những chiếc ly có chân, hàng thủy tinh Vơnizơ và một chiếc tách ngọc có những đường viền mã não sẫm. Lụa phủ gương có thêu những đường viền mã não sẫm. Lụa phủ gương có thêu những cây thuốc phiện nhợt nhạt như đang gà gật trong vòng tay mệt mỏi của cơn mơ. Những cây sậy mảnh mai làm từ những cặp ngà voi cong vút đỡ lấy những tấm rèm nhung phất phơ nhô ra những chùm lông đà điểu dày, giống như những đám bọt biển trắng xóa vươn lên trần nhà uốn cong màu phớt bạc. Pho tượng chàng Narcissus1 bằng đồng thau xanh biếc đang cười và nâng một tấm gương sáng loáng lên quá đầu. Trên bàn đặt một chiếc khay tròn bằng thạch anh tím.
1 Theo thần thoại Hi lạp là một chàng trai đẹp, suốt ngày soi gương ngắm mình, phải lòng và rồi chết vì sắc đẹp của chính mình là tượng trưng cho sự ích kỷ.
Nhìn ra ngoài ngài có thể thấy đỉnh mái tháp tròn khổng lồ của Nhà thờ lớn, giống như một trái bong bóng phủ xuống những căn nhà tối mờ cùng những gã lính canh uể oải lên xuống những tháp canh chìm trong sương mù dọc theo triền sông. Hương hoa nhài thoang thoảng đưa qua những cánh cửa sổ mở toang. Ngài hất những búp tóc xoăn màu hạt dẻ khỏi vầng trán, rồi cầm lấy cây đàn, ngài lướt từng ngón tay theo dây đàn. Hàng lông mi dợp bóng của ngài chập xuống, và một bầu im lặng nặng nề đến kì lạ phủ trĩu xuống ngài. Chưa bao giờ ngài cảm thấy say mê mãnh liệt đến thế, hay với cả một niềm vui tinh tế, đầy ma lực và huyền bí đến thế đối với các mĩ vật.
Khi tháp đồng hồ điểm chuông nửa đêm, ông Hoàng trẻ chạm vào quả chuông gọi các thị đồng của ngài bước vào, thay đồ cho ngài với vô số những thủ tục rườm rà: Phun nước hoa hồng lên tay ngài. Ngài thiếp đi một lát sau khi họ bước ra khỏi phòng.
Trong giấc ngủ ngài mơ thấy một giấc mơ, và đây là những gì ngài thấy trong cơn mơ của mình.
Ngài thấy mình đang đứng trong một gian nhà mái dài và thấp, giữa những tiếng vù vù, lách cách của những cái bóng lờ mờ. Ánh ngày yếu ớt xuyên qua những khung cửa sổ ọp ẹp cho ngài nhìn thấy những thân hình gày guộc của những người thợ dệt đang lom khom cúi xuống các khung cửi. Những đứa trẻ trông xanh xao, ốm yếu nép mình trên những thanh xà ngang to sù. Khi các con thoi lao qua các sợi dọc, chúng nâng các tấm ván lót nặng trịch lên, còn khi các con thoi dừng lại chúng thả phịch các tấm lót ván xuống rồi ép các sợi chỉ dệt lại với nhau. Mặt chúng nhăn nhúm lại vì đói và những cánh tay gày ngẳng run rẩy. Vài chị phụ nữ mặt mũi bơ phờ đang ngồi trên bàn khâu. Một thứ mùi kinh tởm xộc lên từ khắp mọi nơi. Không khí hôi hám, nặng nề, tường nhà nhỏ giọt và chảy nước vì khí ẩm.
Ông Hoàng trẻ bước lại gần một trong những người thợ dệt, đứng bên cạnh và quan sát anh ta.
Anh này giận dữ nhìn ngài và nói: “Anh nhìn gì tôi? Ông chủ sai anh giám sát chúng tôi đấy hả?”
“Ông chủ của các anh là ai?” Ngài hỏi.
“Ông chủ của chúng tôi!” Anh thợ cay đắng kêu lên. “Ông ta cũng là người như tôi đây này. Chỉ có một điều khác nhau giữa chúng tôi, là ông ta thì mặc quần áo đẹp, còn tôi thì khoác giê rách, và trong khi tôi đang lả đi vì đói thì ông ta bị cơn bội thực thừa mứa hành hạ”.
“Đất này là đất tự do,” ông Hoàng trẻ nói: “Và anh chẳng phải là nô lệ của ai cả.”
“Trong chiến tranh”, người thợ trả lời: “Kẻ mạnh bắt kẻ yếu làm nô lệ, còn khi thời bình, thì kẻ giàu bắt kẻ nghèo làm tôi tớ. Chúng tôi làm lụng để kiếm miếng ăn, còn họ thì cho chúng tôi chút lương còm vừa đủ để chết đói. Chúng tôi suốt ngày quần quật làm cho họ, còn họ chất hàng đống vàng vào két nhà mình; con cái chúng tôi phải chết yểu, những khuôn mặt chúng tôi yêu ngày một trở nên nghiệt ác nặng nề. Chúng tôi trồng hái nho cho kẻ khác uống rượu. Chúng tôi gieo cấy lúa ngô mà bàn ăn ở nhà lại rỗng tuếch. Chúng tôi đeo xiềng dù chẳng ai nắm giữ nó; chúng tôi là nô lệ dù người ta bảo chúng tôi tự do.”
“Với các anh tất cả đều như vậy sao?” Ông Hoàng hỏi.
“Đúng đấy, với tất cả chúng tôi,” người thợ trả lời:
“Nói với cả người trẻ cũng như người già; với đàn bà cũng như đàn ông; với những đứa hài nhi cũng như các bậc già lão. Lũ khách buôn chèn ép chúng tôi, buộc chúng tôi phải tuân theo điều kiện của họ. Các cha cố đi qua, tay lần tràng hạt mà có ai nhòm ngó đến chúng tôi đâu. Sự cùng khổ với con mắt đói khát tràn qua các con hẻm tối tăm nhà chúng tôi. Tội lỗi với bộ mặt u tối bám sát ngay sau nó. Nỗi khốn khổ đánh thức chúng tôi mỗi sáng mai, và sự Hổ nhục ngồi cùng chúng tôi đêm đêm. Nhưng những cái đó là gì đối với anh? Anh không cùng cảnh ngộ với chúng tôi. Trông mặt anh hạnh phúc mãn nguyện lắm.” Rồi anh ta cau có quay đi, lia con suốt qua hàng sợi dọc, và ông Hoàng nhìn thấy nó len lỏi qua những sợi chỉ bằng vàng.
Một nỗi kinh hoàng khủng khiếp chụp lên ngài, và ngài bảo với người thợ dệt: “Chiếc áo anh đang dệt này là của ai vậy?”
“Đây là tấm long bào dành cho lễ đăng quang của vị Hoàng đế trẻ”, anh ta trả lời: “Nó liên quan gì đến anh?”
Ông Hoàng trẻ thét to lên một tiếng và choàng tỉnh giấc, và kìa! Ngài đang ở trong tẩm cung của mình, qua khung cửa sổ ngài nhìn thấy mặt trăng lừng lựng màu mật ong ngự trên bầu trời mờ tối.
Ngài lại ngủ thiếp đi và lại mơ một giấc mơ như sau:
Ngài thấy mình nằm ở trên sàn một chiếc thuyền Gali1 khổng lồ lái bởi hàng trăm tay chèo nô lệ. Chủ thuyền ngồi trên tấm thảm đặt cạnh ngài. Ông ta đen bóng tựa gỗ mun, đầu quấn khăn lụa điều. Đôi vòng tai bạc to tướng kéo trĩu hai dái tai dày, trên tay ông ta là một chiếc cân bằng ngà voi.
1 Thuyền cổ của Hi lạp và La Mã
Đám nô lệ cởi trần trùng trục, chỉ đóng khố da sử tử rách tả tơi, người nọ bị xích vào người kia. Mặt trời nóng bỏng dội nắng xuống họ, những tên da đen chạy lên chạy xuống cầu tàu và quất roi da sống về họ. Họ vươn những cánh tay gầy guộc rạch những mái chèo nặng trĩu vào làn nước làm bắn tung những tia nước mặn chát.
Cuối cùng họ cập thuyền trong một con vịnh nhỏ và bắt đầu dò độ sâu. Gió thổi nhẹ từ đất liền, phủ lên bong thuyền và cánh buồm tam giác lớn một lớp bụi đỏ. Ba tên Ả Rập cưỡi lừa núi hiện ra và phóng lao về phía họ. Ông chủ thuyền Gali với lấy một cây cung và bắn trúng họng một tên. Hắn ngã nhào xuống biển, đồng bọn của hắn chuồn thẳng. Một thiếu phụ che mạng màu vàng cưỡi lạc đà chầm chậm đi qua, thi thoảng lại ngoái nhìn cái xác.
Khi họ thả neo và hạ buồm xong, đám da đen chui xuống hầm thuyền và khuân lên một cái thang dây có gắn chì nặng trịch. Chủ thuyền thả nó xuống dọc theo mạn thuyền, buộc hai đầu thang vào những cái trụ cột thép. Rồi đám da đen tóm lấy một tên nô lệ ít tuổi nhất, tháo xiềng ra cho nó, nút sáp vào lỗ mũi và lỗ tai nó và buộc một hòn đá to quanh thắt lưng nó. Nó uể oải leo xuống thang và rồi mất hút trong làn nước biển. Từ mũi thuyền, mấy tên nô lệ tò mò ngó xuống xem, một gã dụ cá mập bập bung gõ đều lên mặt trống.
Ít phút sau, tên thợ lặn ngoi lên mặt nước và hổn hển bám lấy chiếc thang dây, một viên ngọc trai cầm ở tay phải. Bọn da đen dật lấy viên ngọc rồi lại đẩy nó xuống. Đám nô lệ thiêm thiếp bên tay chèo. Tên nô lệ ngoi lên, rồi lại ngoi lên, lần nào cũng đem theo một viên ngọc trai đẹp tuyệt. Chủ thuyền cân chúng rồi bỏ vào một chiếc túi nhỏ bằng da màu lục.
Ông Hoàng trẻ có cất tiếng nhưng lưỡi ngài giường như dính chặt vào vòm họng và cặp môi ngài không chịu động đậy. Đám da đen trò chuyện huyên thuyên rồi chuyển sang cãi cọ, tranh giành nhau một chuỗi hạt lấp lánh, khiến hai thủ cấp bay vèo xuống sàn thuyền và lăn lông lốc xuống khoang thuyền.
Rồi tên thợ lặn cũng ngoi lên lần cuối, và viên ngọc lần này nó kiếm được còn đẹp hơn tất cả các viên ngọc trai của Ormuz1 bởi nó có hình dạng một mặt trăng rằm tròn đầy và sáng lấp lánh hơn cả sao mai. Nhưng mặt tên nô lệ lại tái xanh đến kì lạ và khi nó ngã lăn ra sàn thuyền, máu ộc ra từ các lỗ tai, lỗ mũi nó. Nó run rẩy một thoáng rồi bất động. Đám da đen nhún vai rồi quăng xác nó xuống biển.
1 Tên một thành phố ở Iran, được xây dựng từ thế kỷ 13, là biểu tượng của phương Đông.
Lão chủ thuyền tươi cười bước lại cầm lấy viên ngọc. Khi nhìn thấy viên ngọc lão áp nó lên trán và cúi đầu. Lão nói: “Nó sẽ được dâng lên tô điểm cho quyền trượng của vị Hoàng đế trẻ,” và lão ra hiệu cho đám da đen nhổ neo.
Khi nghe thấy điều đó ông Hoàng trẻ tuổi hét lên và choàng tỉnh giấc, ngài nhìn thấy bên ngoài cửa sổ những ngón tay dài nhợt nhạt của ban mai đang níu lấy những vì sao đang mờ dần.
Ngài lại ngủ thiếp đi và mơ thấy những điều sau đây:
Ngài thấy mình đang thơ thẩn trong một cánh rừng nhập nhoạng, lủng lỉu thứ trái cây lạ với những bông hoa độc tuyệt sắc. Lũ rắn bay Vipe rít lên khi ngài bước qua, từng đàn vẹt trắng bay chuyền trên các cành cây. Những con rùa khổng lồ nằm ngủ trên mặt bùn nóng bỏng. Trong các lùm cây lố nhố từng đàn khỉ người cộc đuôi và công.
Ngài cứ đi mãi đi mãi cho đến khi ra tới bìa rừng, ở đó ngài nhìn thấy một đám đông người đang làm việc cật lực dưới lòng một con sông cạn. Họ bám đầy các vách núi cheo leo như lũ kiến. Họ đào những cái hố sâu thăm thẳm vào lòng đất rồi leo xuống đó. Một số dùng rìu to xẻ đá; những người khác thì mò mẫm vào sâu trong lòng cát. Họ xé rễ cây xương rồng, đạp lên những bông hoa đỏ thắm của nó. Họ hối hả gọi nhau, chẳng ai là không làm việc.
Trong hang động tối tăm Thần Chết và Thần Tham Lam đứng quan sát họ. Thần Chết bảo: “Tôi rã rời cả người, hãy cho tôi một phần ba bọn họ và để tôi đi thôi.”
Nhưng Thần Tham Lam lắc đầu. “Chúng là đày tớ của tôi,” mụ trả lời.
Thần Chết lại bảo mụ: “Trong tay bà có cái gì vậy?”
“Tôi có ba hạt ngô”, mụ đáp: “Việc gì đến ông nào?”
“Cho tôi một hạt đi”, Thần Chết kêu: “Để tôi trồng trong vườn nhà tôi; chỉ một hạt thôi mà, rồi tôi sẽ đi ngay”.
“Ông đừng hòng xin được tôi cái gì,” Thần Tham Lam nói và giấu tay vào sau vạt áo.
Thần Chết cười, lấy ra một chiếc cốc, vục nó xuống đầm nước, từ trong cốc bệnh sốt rét ngóc đầu lên. Nó bay qua đám người, một phần ba số họ chết gục. Sương mù lạnh lẽo bám theo sau nó, lũ rắn nước bò bên cạnh nó.
Khi Thần Tham Lam thấy một phần ba đám người chết gục chết, mụ đấm ngực than khóc. Mụ đấm vào bộ ngực cằn cỗi rồi thét lên: “Ngươi đã giết chết một phần ba đám tôi tớ của ta. Cút ngay đi! Ở vùng núi Tatary đang có chiến tranh đấy, Vua nghe các phe đều đang gọi người. Người Afgan đang giết tế những con bò mộng đen và chuẩn bị xuất chinh. Họ đã đội mũ giáp sắt lên và gõ giáo vào các tấm khiên chắn. Thung lũng của ta có gì với người mà ngươi cứ nấn ná ở mãi đây thế? Cút ngay đi và đừng bao giờ quay trở lại nữa.”
“Không”, Thần Chết trả lời: “Ta sẽ chưa đi nếu ngươi chưa đưa ta một hạt ngô.”
Nhưng Thần Tham Lam nghiến răng nắm chặt tay lại.
“Ta sẽ không đưa cho ngươi cái gì hết”, mụ lẩm bẩm.
Thần Chết bèn cười, cầm lên một viên đá đen và quẳng nó vào khu rừng. Từ bụi cây cần độc rậm rì bệnh Sốt bước ra trong tấm áo choàng lửa. Nó lướt qua đám người, chạm vào họ, chạm vào ai người đó lăn ra chết. Có cây lụi tàn dưới bước chân của nọ.
Thần Tham Lam rùng mình, rắc cho tàn lên đầu mình.
“Người tàn ác quá” mụ hét lên: “Ngươi tàn nhẫn lắm. Nạn đói đang hoành hành trong các thành bang Ấn Độ, các giếng nước ở Samarcand đang cạn khô. Nạn đói cũng đã chiếm ngự các thành bang Ai Cập và nạn châu chấu đã tràn tới từ các hoang mạc. Dòng sông Nin cạn nước, các linh mục thì đọc kinh cầu nguyện Isis và Osiris. Hãy cút đến những nơi đang cần ngươi và để yên đám tôi tớ của ta cho ta.”
“Không”, Thần Chết khăng khăng: “Nếu ngươi chưa đưa cho ta một hạt ngô, ta sẽ chưa đi”.
“Ta sẽ không đưa cho ngươi một cái gì hết,” Thần Tham Lam một mực.
Và Thần Chết lại cười. Lão huýt sáo qua kẽ ngón tay và một mụ đàn bà xé không khí bay tới. Trên trán mụ ghi hai chữ bệnh Dịch. Một ngày kền kền vêu vao vây quanh mụ. Mụ phủ cánh lên thung lũng và chẳng còn một ai sống sót nữa.
Thần Tham Lam gào thét bỏ chạy qua cánh rừng. Còn Thần Chết nhảy lên con ngựa đỏ của lão phi đi mất hút, nhanh hơn gió thổi.
Từ đám bùn loảng ở đáy thung lũng, lũ rồng cùng những con vật kinh dị có vẩy bò lên, lũ chó đừng chạy lồng theo bờ cát, hếch mũi lên trời đánh hơi.
Ông Hoàng trẻ than khóc và hỏi: “Những con người đó là ai? Họ tìm gì vậy?”
“Họ đào ngọc rubi cho vương miện của ông Hoàng đó,” một người đứng sau ngài đáp lời.
Ông Hoàng trẻ kinh ngạc. Quay người lại ngài nhìn thấy một người, giống như một kẻ hành hương, tay cầm một tấm gương bạc.
Ngài tái nhợt đi và hỏi: “Cho ông Hoàng nào vậy?”
Kẻ hành hương trả lời: “Soi vào tấm gương này, và ngài sẽ nhìn thấy ông ta”.
Ngài soi vào tấm gương, và nhìn thấy bộ mặt của chính mình. Ngài thét to lên và choàng tỉnh giấc, ánh mặt trời rực rỡ đang tràn khắp gian phòng, lũ chim chóc đậu trong vòm cây của khu vườn cất tiếng hót ca đầy mãn nguyện.
Bá quan văn võ trong triều cùng bước vào, cung kính vái chào ông Hoàng. Bọn thị đồng mang dâng ngài tấm long bào dệt sợi vàng, vương miện cùng cây quyền trượng.
Ông Hoàng ngắm chúng. Chúng thật là tuyệt mĩ. Tuyệt mĩ hơn tất cả những gì ngài đã từng nhìn thấy. Ngài chợt nhớ đến những giấc mơ của mình, ngài truyền bảo các cận thần: “Mang những thứ này đi, vì ta sẽ không dùng tới chúng.”
Các cận thần sững sờ, một số người cười, vì họ nghĩ ông Hoàng nói giỡn.
Nhưng ngài nghiêm giọng nhắc lại ý mình, ngài nói: “Hãy mang tất cả những thứ này đi cho khuất mắt ta. Dù là ngày lễ đăng quang của ta, ta cũng không dùng chúng. Bởi tấm long bào này được dệt từ bàn tay tái ngắt và thương đau, trên khung dệt của sầu khổ. Trong lòng mỗi viên rubi là Máu và Thần Chết nằm dưới đáy viên ngọc trai kia”. Và ngài kể cho họ nghe ba giấc mơ của mình.
Khi nghe xong, các triều thần nhìn nhau, thì thào với nhau rằng: “Ngài mất trí rồi, bởi giấc mơ là gì nếu không chỉ là giấc mơ, ảo mộng là gì nếu không chỉ là ảo mộng? Chúng không là thứ có thực để người ta phải để tâm đến chúng. Mà chúng ta thì có liên quan gì tới đời sống của những kẻ ăn người làm cho chúng ta? Dễ thường người ta không ăn cơm nếu chưa tìm thấy kẻ gieo hạt, không uống rượu một khi chưa chuyện trò được với người trồng nho?”
Viên Tổng quản thưa với ông Hoàng trẻ rằng: “Muốn tâu Chúa thượng, thần cầu xin Người hãy dẹp những suy nghĩ u ám đó sang một bên và mặc tấm long bào đẹp đẽ này vào, đội vương miện lên đi ạ. Làm sao các thần dân nhận biết Người là ông Hoàng nếu như người không khoác long bào của bậc quân vương chứ ạ?”
Ông Hoàng nhìn lão. “Thật vậy sao?” Ngài hỏi. Họ không thừa nhận ta một khi ta không khoác long bào thật ư?”
“Họ không thừa nhận đâu, tâu Chúa thượng” viên Tổng quản kêu lên:
“Ta cứ nghĩ có những người vốn đã mang dung mạo của bậc quân vương,” ngài bảo. “Nhưng cũng có thể như khanh nói. Dù sao ta cũng không khoác tấm long bào này, không đội mũ vương miện kia, và dù đã bước chân vào cung đình rồi ta cũng sẽ rời bỏ nó”.
Ngài truyền cho các triều thần lui ra, chỉ giữ lại một thị đồng, kém ngài một tuổi, ở lại bên ngài, để giúp đỡ ngài. Tắm nước sạch xong, ngài mở chiếc hòm sơn to sù, lấy ra chiếc áo chẽn da, tấm áo khoác lông cừu thỏ ngài thường mặc thủa đi chăn dê bên sườn đồi. Ngài mặc những thứ đó vào, rồi cầm lấy cây gậy chăn dê sù sì.
Gã thị đồng ngạc nhiên mở tròn cặp mắt to xanh biếc và mỉm cười thưa với ngài: “Muôn tâu Chúa thượng, thần đã trông thấy long bào cùng quyền trượng của Người, thế còn vương miệng thì đâu ạ?”
Ông Hoàng bẻ một cành thạch nam vươn vào ban công, uốn thành vòng tròn và đội lên đầu.
“Đây là vương miện của ta”, ngài đáp.
Và cứ ăn vận như thế ngài rời tẩm cung tiến vào đại sảnh đường, nơi hoàng tộc cùng bá quan đang chờ nghênh đón ngài.
Giới quý tộc nhốn nháo. Có ai đó quát to: “Tâu Chúa thượng, thần dân đang chờ đón đức vương quân của họ, Người lại cho họ thấy một kẻ hành khất”, những kẻ khác lại tức giận bảo rằng: “Y làm ô nhục vương quốc của chúng ta, y không xứng đáng là đức quân vương của chúng ta”. Nhưng ông Hoàng không đáp lại một lời, cứ tiếp tục bước đi. Ngài xuống cầu thang pocphia lấp lánh, đi qua cổng thành bằng đồng và nhảy lên con ngựa của ngài, phi thẳng về phía nhà thờ lớn, gã thị đồng chạy theo sau ngài.
Các thần dân cười đùa bảo nhau: “Tên hề của đức Chúa thượng vừa chạy qua thì phải”, và họ thi nhau giễu cợt ngài.
Ngài chậm bước vào bảo: “Không phải, ta là đức Chúa thượng đây”. Và ngài kể cho họ nghe ba giấc mơ của ngài.
Một người đàn ông bước ra khỏi đám đông và cay đắng tâu rằng: “Tâu Chúa thượng, người có biết chăng, bên ngoài cánh cổng xa hoa của người giàu có là cuộc sống cơ cực của đám dân nghèo? Nguồn sống của chúng thần là sự phù hoa của các ngài, bánh mì của chúng thần là thói trụy lạc xấu xa của các ngài. Làm việc quần quật hầu các ông chủ đã cay đắng, nhưng không có các ông chủ để mà quần quật làm lụng còn khốn khổ hơn nữa. Người nghĩ lũ quạ sẽ cho chúng thần miếng ăn ư? Người làm cách gì để thay đổi những cái đó? Chẳng lẽ Người bảo được người đi mua: “Các người hãy mua ngần này”, và với người đi bán: “Các người hãy bán giá như thế này?” Thần tin rằng không đâu. Vậy nên hãy quay trở lại cung đình của Người mà sống trong nhung lụa đi. Người có can hệ gì với chúng thần cùng những nỗi cơ cực của chúng thần đâu.”
“Chẳng lẽ người giàu, kẻ nghèo không phải là anh em sao?” Ông Hoàng trẻ hỏi.
“Phải đấy,” người kia đáp: “Tên người anh giàu có ấy là Cain1 mà.”
1 Theo thần thoại Hi lạp, Cain đã giết em mình là Avel. Ý muốn nói giữa người giàu và người nghèo không thể có tinh thần.
Mắt ông Hoàng đẫm lệ, ngài phi ngựa qua đám đông đang rì rầm bàn tán, gã thị đồng đâm sợ nên rời xa ngài. Khi ông Hoàng đến trước cổng thành chính lớn của nhà thờ lớn, đám lính chĩa kích ra và bảo: “Ngươi tìm gì ở chốn này? Không ai ngoài Chúa Thượng được qua cửa này”.
Mắt ông Hoàng đỏ rực bởi cơn thịnh nộ, ngài bảo chúng: “Ta là đức Chúa thượng đây” và gạt những mũi kích ra, phi vào.
Khi Đức giám mục trông thấy ông Hoàng trong y phục của kẻ chăn dê, ông ta sững sờ nhổm khỏi ghế ngồi, tiến lại nghênh đón ngài và nói: “Con trai của ta, đây là y phục của bậc quân vương ư? Vương miện nào để ta đội lên cho con, quyền trượng nào để ta đặt vào tay con đây? Với con hẳn đây phải là một ngày tràn đầy niềm vui chứ đâu phải là một ngày ô nhục”.
“Niềm vui sẽ khoác những gì nỗi đau khổ dệt nên ư?” Ông Hoàng nói. Và ngài kể cho Đức giám mục nghe ba giấc mơ của mình. Nghe xong Đức giám mục cau mày bảo: “Con trai của ta, ta đã già rồi, ngày của ta đã tàn. Ta biết có biết bao tội ác diễn ra trên thế gian bao la này. Nào là lũ lục lâm hung tợn tràn từ rừng núi xuống bắt lũ trẻ nhỏ đem bán cho bọn rợ Marôc. Nào là những bày sư tử ngồi rình các đoàn khách buôn hàng vồ bắt lũ lạc đà. Nào là những đàn lợn rừng đào phá hoa màu. Lũ cáo chồn gặm nát các đồi nho. Rồi thì bọn cướp biển nấp trên các bờ bãi hoang vu hòng đốt phá thuyền bè của ngư dân, cướp bóc chài lưới của họ. Ở các đầm lầy chen chúc từng bầy người hủi, trú ngụ trong các túp lều sậy, chẳng ai giám đến gần. Còn đám hành khất thì lang thang khắp các phố phường, kiếm miếng ăn cùng lũ chó. Con có ngăn nổi những điều đó không? Con có cho một con hủi nằm cùng giường với con không, và ngồi cùng kẻ ăn mày bên bàn ăn của con không? Lũ sư tử có tuân lệnh con không, bầy lợn rừng có nghe lời con không? Đấng Tối cao tạo ra những thống khổ lại không thấu suốt hơn con sao? Vậy nên ta không tán dương con bởi những gì con làm mà ta xin con hãy quay về cung đình với bộ mặt vui tươi và khoác lên long bào quân vương, ta sẽ đặt đầu con vương miện vàng và đặt vào tay con quyền trượng ngọc trai. Còn về các giấc mơ của con, hãy quên chúng đi. Gánh nặng thế gian này quá lớn cho một con người gánh vác, nỗi thống khổ thế gian này quá nặng cho sức chịu đựng của trái tim một người.
“Đức cha nói những điều như thế trong ngôi nhà này ư?” Ông Hoàng hỏi ngài, ngài đi qua Đức giám mục, leo lên trước ban thờ và đứng trước hình Chúa Jesus.
Ngài đứng trước hình Chúa Jesus, bên phải ngài, bên trái ngài là những chiếc bình vàng lộng lẫy, một li rượu vang vàng óng và một lọ dầu thánh. Ngài quỳ xuống trước hình chúa Jesus, những cây nến lớn cháy sáng bên hòm đựng thánh cốt nạm ngọc, khói nhang nghi ngút thả những cuộn tròn mảng xanh biếc qua mái vòm nhà thờ. Ngài cúi đầu cầu nguyện. Các giáo sĩ mặc áo lễ cứng đơ rón rén rời khỏi điện thờ.
Bỗng nhiên một đám đông ồn ào từ ngoài đường phố xông vào. Đó là một đám quý tộc gươm kiếm tuốt trần, mũ cài lông vũ nhún nhảy, tay cầm kiên thép sáng loáng. Tên mộng mị vẩn vơ ấy đâu?” Chúng hét lên. “Gã hôn quân ăn mặc như tên ăn mày - thằng nhóc làm ô danh vương quốc của chúng ta ấy đâu? Chúng ta nhất định sẽ giết chết hắn, bởi hắn không xứng đáng được trị vì chúng ta.”
Ông Hoàng trẻ lại cúi đầu cầu nguyện, cầu nguyện xong ngài quay lại và buồn rầu nhìn đám người.
Và kìa! Qua khung cửa sổ quét sơn những dòng ánh sáng mặt trời chảy tràn, phủ lên ngài tấm long bào đã được dệt theo cảm hứng của ngài. Cây gậy khô đâm chồi, nảy ra những bông huệ nõn nà hơn cả ngọc trai. Cành gai khô cứng nảy lộc, nở xòe ra những bông hồng còn thắm hơn sắc thắm của đá rubi. Trắng muốt hơn cả đá những viên ngọc trai tuyệt hảo, là những đóa huệ, cuống hoa lấp lánh ánh bạc. Thắm hơn cả đá rubi đỏ thắm là những đóa hoa hồng, chúng là những lá vàng giát.
Ngài đứng kia trong trang phục quân vương, nắp hòm thánh cốt nạm ngọc bỗng mở toang ra, từ chiếc bình pha lê có nhiều tia phát lóe lên một tia sáng kì diệu và huyền bí. Ngài đứng kia trong trang phục quân vương, và vầng hào quang của Chúa tỏa sáng nơi nơi, các thánh ngự trong các hốc tường thờ chạm khắc dường như đang cử động. Trong trang phục uy nghi của bậc quân vương ngài đứng trước họ, đại phong cầm cất tiếng ngân nga, đội kèn Trompet cùng hòa tấu, các hài đồng hòa giọng hát Thánh ca.
Dân tình quỳ sụp xuống trong nỗi kinh hoàng, các nhà quý tộc tra gươm kiếm vào vỏ và tự tuyên thệ lời trung thành, Đức giám mục tái nhợt đi, tay ông ta run run, “tấn phong cho ngài phải là Đấng bề trên của tôi”, ông kêu lên và quỳ sụp xuống trước ông Hoàng.
Ông Hoàng bước xuống khỏi điện thờ, đi qua gian phòng, rẽ qua đám thần dân. Không một ai giám ngẩng nhìn lên gương mặt ngài vì đó là gương mặt của một thiên thần.