Chương 7Trở lực khắp nơi
Người Hà Lan có câu ngạn ngữ: “Bông hoa tulip cao nhất là bông bị cắt đi”. Với sự tăng trưởng phi thường của Amway, chúng tôi giống như những bông hoa tulip vươn cao. Tất yếu, “bông hoa” này không thể nào tránh khỏi sự chú ý của những người có lẽ đang tự hỏi là cái doanh nghiệp thành công một cách đáng kinh ngạc thông qua cách thức lạ thường này rồi sẽ còn cao đến đâu, cũng có thể họ đang tự hỏi là làm thế nào để hạ bệ chúng tôi. Năm 1975, Amway báo cáo doanh thu thường niên là 250 triệu đô-la; đã mở rộng thị trường ra nước ngoài đến Úc, Vương quốc Anh, Hồng Kông và Đức; công ty có một du thuyền và một đội trực thăng; ngoài dòng sản phẩm Nutrilite và chăm sóc gia dụng, công ty đã có thêm mỹ phẩm
Artistry, dụng cụ nấu nướng Amway Queen và sản phẩm chăm sóc cá nhân Satinique. Ngay khi Jay và tôi còn quỳ gối trên tờ giấy gói hàng trải dài trong nhà bếp vào năm 1959 để viết ra kế hoạch bán hàng lạ thường cho doanh nghiệp non trẻ mang tên Amway, chúng tôi đã lường trước việc một ngày nào đó, kế hoạch của chúng tôi sẽ bị một số người nghi ngờ và xem xét kỹ lưỡng. Xét cho cùng thì chúng tôi cũng đã trải qua 10 năm phân phối theo cách mới lạ cho các sản phẩm của Nutrilite cũng như từng gặp thách thức của FDA.
Amway lớn mạnh rất nhanh và gây nên sự chú ý. Tuy nhiên, thời ấy mọi người còn chưa hiểu được thế nào là “bạn bảo trợ một người và người đó bảo trợ những người khác”. Điều này dẫn tới sự nghi ngờ về mặt hoạt động và tính hợp pháp của chúng tôi. Nhìn chung, bán hàng trực tiếp và tiếp thị đa cấp bị nghi ngờ. Trong mắt công chúng, Amway không phải là một công ty điển hình mà giống như một người hàng xóm đang bán các sản phẩm Amway với tư cách một nhà phân phối độc lập. Chính vì cách tiếp cận khách hàng của loại hình bán hàng đa cấp mà một số người lầm tưởng loại hình kinh doanh này có kết cấu như một kim tự tháp.
Năm 1975, thực tế đã chứng minh sự lường trước của chúng tôi là hợp lý khi Ủy ban Thương mại Liên bang (FTC) chính thức nộp đơn khiếu nại Amway. FTC cáo buộc rằng kế hoạch kinh doanh của Amway là một “đề án kim tự tháp mà các nhà phân phối này được đặt trên các nhà phân phối khác khiến số lượng các nhà phân phối không ngừng tăng lên”, rằng nó “chắc chắn sẽ thất bại bi đát” và hàm chứa “nguy cơ lừa đảo tiềm tàng mà chúng ta không thể chấp nhận được”. Họ cáo buộc chúng tôi đã cố tình ấn định giá khi báo cho các nhà phân phối mức giá họ có thể bán sản phẩm của mình, rằng chúng tôi hạn chế hoạt động của các nhà phân phối khi ngăn cản họ bán sản phẩm Amway qua các cửa hàng bán lẻ. Họ buộc chúng tôi tội bóp méo sự thật về các cơ hội tiềm năng để thành công.
Những lời buộc tội này đe dọa tương lai của Amway. Nhưng chúng tôi biết mình đúng. Vì vậy phản ứng đầu tiên của tôi là: “Chúng ta sẽ tham gia cuộc chiến”. Chúng tôi đã đấu tranh suốt hai năm rưỡi sau đó, bao gồm sáu tháng điều trần trước một thẩm phán chuyên về luật hành chính. Thật khó để giành chiến thắng một cuộc chiến với chính quyền vì họ có nguồn tiền và thời gian vô hạn, vậy nên các công tố viên của họ có thể chiến đấu liên tục. Khi họ gọi tôi lên chất vấn, họ hỏi tôi về lời khai mà họ có được từ các nhà phân phối cũ, những người khiếu nại rằng chúng tôi đã hứa là họ sẽ có thể kiếm được 1.000 đô-la mỗi tháng nhưng kết quả lại không được gì.
FTC bắt đầu việc tố tụng bằng cách yêu cầu chúng tôi cung cấp danh tính của tất cả các nhà phân phối Amway, sau đó gửi thư đến cho những người này để thu thập bằng chứng từ bất cứ ai không đạt được giấc mơ của mình. Một số người sẵn lòng làm việc đó. Vậy là FTC có một đội ngũ các nhà phân phối cũ vốn có một số bất mãn với Amway. Từ đó, FTC sàng lọc để lên danh sách những người mà họ nghĩ rằng có thể làm nhân chứng tốt nhất và trình chứng cứ xác đáng nhất nhằm chống lại chúng tôi.
Khi một nhà phân phối cũ đứng trên bục nhân chứng, tôi nói với luật sư của mình: “Hãy hỏi xem trước đây anh ta làm gì và bây giờ anh ta đang làm gì.” Trong hầu hết các trường hợp, cuộc sống của họ đã được cải thiện. Có thể họ không ở lại với Amway, nhưng cuối cùng họ hưởng lợi từ việc nỗ lực để có một hoạt động kinh doanh của chính mình và có thể làm tốt hơn rất nhiều so với trước đây. Khi luật sư của chúng tôi hỏi họ nguyên do cho sự tiến bộ vượt bậc đó, họ thừa nhận rằng đó là nhờ những gì Amway đã dạy cho họ, chẳng hạn cách điều hành một hoạt động kinh doanh, bán sản phẩm, đặt ra mục tiêu, khích lệ bản thân và làm việc với người khác. Với những câu trả lời như vậy, luật sư của chúng tôi chỉ có thể nói: “Xin cám ơn. Tôi không còn câu hỏi nào nữa”. Như vậy, chúng tôi đã chứng minh được rằng ở Amway, mọi người được thúc đẩy để đạt đến thành công bằng sự nỗ lực, có thể một số người không thành công khi còn ở Amway nhưng họ vẫn học được nhiều điều để ít nhất là cũng có thể tự cải thiện cuộc sống của mình.
Cuối cùng, FTC quyết định kế hoạch của chúng tôi không phải là một mô hình kim tự tháp bởi vì thu nhập hoàn toàn dựa vào việc bán sản phẩm cho người tiêu dùng cuối cùng chứ không dựa vào việc tuyển dụng thành viên mới. Kết quả là với quyết định của FTC, kế hoạch bán hàng của Amway đã trở thành mô hình kiểu mẫu cho một doanh nghiệp hợp pháp sử dụng phương cách bán hàng trực tiếp. Từ đó các công ty bán hàng trực tiếp đã và đang sao chép mô hình của chúng tôi. Về sau, FTC đã chỉ ra rằng các sản phẩm của chúng tôi đạt được tỷ lệ chấp nhận của người tiêu dùng rất cao và là thương hiệu có lượng khách hàng trung thành xếp thứ ba cả nước mặc dù chúng tôi chỉ chiếm thị phần nhỏ và quy mô quảng cáo thì chưa phủ khắp toàn quốc. FTC công nhận rằng những gì chúng tôi triển khai được là mới mẻ và lý thú. Đối mặt với những gã khổng lồ cùng ngành như Procter & Gamble (mà chi tiêu cho quảng cáo của họ có thể gấp đôi tổng doanh thu bán hàng của Amway), các nhà phân phối của chúng tôi đã giới thiệu “sự hiện diện của một cuộc cạnh tranh mới và sôi nổi” và chiếm được thị phần trước sự thống trị của những công ty khổng lồ. Ủy ban Thương mại Liên bang nhận thấy kế hoạch bán hàng của Amway đã làm rõ ý tưởng mỗi người cần phải để tâm trí vào làm việc, cũng như mức độ các phần thưởng vật chất tùy thuộc vào khối lượng và chất lượng công việc.
Không những thế, nhờ vụ kiện của FTC mà chuẩn mực hợp pháp cho hình thức kinh doanh tiếp thị đa cấp được thiết lập. Sự việc này tựa như một cuộc sát hạch để định ra các tiêu chuẩn và nguyên tắc hoạt động cho tất cả các công ty tiếp thị đa cấp ngày nay.
FTC đã yêu cầu chúng tôi có một vài thay đổi trong chính sách giá cả của mình, bên cạnh đó là cấp cho mỗi nhà phân phối mới tham gia một bản thuyết trình dài tám trang có giải thích kế hoạch bán hàng. Họ cũng xem xét tạp chí phát hành cho các nhà phân phối hàng tháng và bản tin bán hàng của chúng tôi để đảm bảo là trong đó không có những tuyên bố hay hình ảnh có tính “thổi phồng” thực tế về những gì mà hầu hết các nhà phân phối có thể đạt được. Amway vẫn luôn công khai rằng hệ thống phân phối của công ty vận hành dựa trên sự lao động chăm chỉ chứ không phải một mô hình “làm giàu nhanh chóng”.
Tuy vậy, bất chấp việc những phán quyết sau cùng là có lợi cho Amway, những lời buộc tội ban đầu của FTC được nhiều người sử dụng để chỉ trích chúng tôi. Đó có thể là những người đã hiểu nhầm hoạt động kinh doanh của Amway, cũng có thể là những nhà phân phối cũ, cho rằng họ hoặc là đã bị lừa hoặc là kế hoạch kinh doanh của chúng tôi không hiệu quả. Tất cả những cuốn sách có nội dung đả kích chúng tôi, dẫu là của các nhà phân phối cũ hay của các nhà phê bình đều cùng sử dụng một luận điệu: Họ không thành công như lời hứa hẹn, điều mà họ cho là do chúng tôi bơm vào đầu họ.
Giống như FTC, dường như những người này đã không nghe thấy phần chúng tôi nói rằng cơ hội chỉ đến với những nhà phân phối nào chịu làm việc, chịu nỗ lực. Đối với những người chỉ trích, chúng tôi đã chỉ ra rằng không có ai chịu rủi ro về tài chính từ việc tham gia Amway. Chi phí duy nhất các nhà phân phối phải trả để bắt đầu hoạt động kinh doanh với Amway là phí đăng ký để nhận tài liệu bán hàng, sản phẩm để bán và các trợ giúp khác. Ngay cả khi họ quyết định không làm gì cả, họ vẫn có thể sử dụng bất cứ sản phẩm nào mà họ mua, những sản phẩm mà chúng tôi đảm bảo sẽ làm người tiêu dùng hài lòng. Thậm chí, chúng tôi còn trả lại phí đăng ký cho các nhà phân phối mới nếu họ quyết định rằng việc kinh doanh này không phù hợp với họ. Nếu họ thử và thất bại vì một nguyên nhân nào đó, như các nhà phân phối trước đây làm chứng trong vụ án FTC đã thừa nhận, chắc chắn họ sẽ vẫn tốt hơn vì đã được tham gia với những người tích cực trong việc thiết lập mục tiêu và nỗ lực để xây dựng một cái gì đó cho bản thân.
Mỗi khi ngẫm lại về sự kiện này, tôi phải thừa nhận rằng thật sự tôi không hiểu những con người luôn tìm cách kéo người khác xuống hay cố gắng đổ lỗi cho những tác động bên ngoài đã khiến họ thất bại. Tại sao họ không dám nhận trách nhiệm đối với cuộc sống của chính mình? Đúng là không phải ai cố gầy dựng hoạt động kinh doanh với Amway cũng đều thành công, song không phải ai cũng đi đổ lỗi như vậy. Vẫn có những người trung thực với bản thân, họ thừa nhận rằng họ đã không có những nỗ lực cần thiết để bán sản phẩm và bảo trợ người khác.
Muốn xây dựng hoạt động kinh doanh của riêng mình, mỗi người cần phải làm việc chăm chỉ, cần mẫn trong nhiều giờ, không thoái chí trước thất bại và luôn giữ thái độ lạc quan. Những ai không có hay không muốn chấp nhận các đặc tính này nên tìm cách kiếm sống khác. Tôi không phản đối những ai thử kinh doanh với Amway và rồi kết luận rằng việc đó không phù hợp với họ. Nhưng tôi mong họ sẽ nhận trách nhiệm về những hành động của mình thay vì cố thoái thác. Nếu việc kinh doanh của Amway không lành mạnh, nó sẽ không bao giờ có thể tăng trưởng và phát đạt trong suốt hơn nửa thế kỷ.
Sâu xa hơn, chúng tôi xem vụ án như một sự hiểu lầm của chính quyền về các nguyên tắc kinh doanh và là một đòn tấn công vào doanh nghiệp tự do. Cũng may mà vụ điều tra kéo dài và dư luận xung quanh nó đã không ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của Amway. Chỉ bốn năm sau khi FTC đưa ra vụ kiện, doanh số bán lẻ của chúng tôi đã tăng lên gấp ba – đạt 800 triệu đô-la. Không dừng lại ở đó, vụ án FTC còn tỏ ra có ích trong việc chứng minh tính hợp pháp của chúng tôi, đặc biệt khi công ty mở rộng ra nước ngoài.
Thật không may, thử thách nghiêm trọng kế tiếp mà chúng tôi phải vượt qua lại không được như vậy. Năm 1982, Cảnh sát Hoàng gia Canada đột kích trụ sở của chúng tôi ở Canada và khẳng định với báo chí rằng Amway đã lừa đảo Cơ quan Thuế Canada một số tiền thuế hải quan ít nhất là 28 triệu đô-la Canada. Nếu tính cả tiền phạt thì tổng số tiền lên đến 118 triệu đô-la Mỹ. Cơ quan Thuế Canada tuyên bố sẽ dẫn độ Jay và tôi về nước họ để xét xử.
Về sau này, tôi được biết nguyên nhân sâu xa của vụ việc này là do chính phủ Canada không thích việc chúng tôi quảng bá doanh nghiệp tự do. Nhưng trở về thời điểm thập niên 80 ấy, vụ kiện ấy đã khiến chúng tôi mất ăn mất ngủ. Vụ FTC tuy cũng quan trọng nhưng nó lại thuần túy liên quan đến mâu thuẫn trong cách hiểu về hoạt động kinh doanh, vả lại khi đó chúng tôi chỉ phải tranh luận với chính quyền nước mình. Còn chính quyền Canada lại buộc tội chúng tôi gian lận, thậm chí chúng tôi phải đối mặt với một án tù nghiêm trọng. Chúng tôi lâm vào tình cảnh những ai đã biết đã hiểu thì không nghĩ chúng tôi có tội, nhưng ở đây lại là rất nhiều người không hề biết chúng tôi, vậy nên nhiều khả năng họ sẽ không hiểu là chúng tôi không có tội.
Sự thật là chúng tôi đã và đang hoạt động ở Canada theo các điều khoản của Hiệp định Thuế năm 1965 và trước năm 1982 thì chưa từng có vấn đề gì với các nhân viên hải quan hay Cơ quan Thuế Canada về việc chuyển hàng và tiền thuế. Nhưng vào năm 1980, cơ quan này đơn phương thay đổi luật định. Chúng tôi là một công ty Mỹ vận chuyển hàng hóa qua biên giới đến một công ty do chúng tôi sở hữu ở Canada. Chúng tôi bán sản phẩm cho các nhà phân phối ở đấy và họ bán chúng cho khách hàng tại những địa điểm bán lẻ được đề nghị.
Cơ quan Thuế Canada đột ngột nghi ngờ phần giá trị chịu thuế của các sản phẩm này cũng như các mức thuế khác mà lẽ ra chúng tôi phải dựa trên đó để kết toán giá trị hoạt động của mình ở Canada. Kết cuộc là nó đã trở thành một cuộc chiến phức tạp. Thú thật, tôi cảm thấy nó mang nhiều màu sắc chính trị. Về sau, Amway đã trả khoản tiền phạt 21 triệu đô-la để chấm dứt một cuộc tranh chấp hình sự. Cuộc chiến dân sự kéo dài trong sáu năm cho đến khi cuối cùng chúng tôi quyết định kết thúc các chi phí pháp lý liên quan đến việc tranh đấu và trả một khoản tiền là 38 triệu đô-la. Con số này chỉ bằng 40% số tiền mà chính quyền Canada cho rằng Amway nợ họ và không phải là một con số quá lớn nếu so với doanh thu bán hàng 1,9 tỷ đô-la trong năm 1989.
Ở đây, tôi muốn giải thích lý do vì sao chúng tôi quyết định trả tiền để hòa giải với Cơ quan Thuế Canada. Đó không phải là do chúng tôi không có đủ cơ sở pháp lý để đeo đuổi vụ kiện, mà chủ yếu là do dư luận tiêu cực. Kể từ khi thông tin về vụ việc được công bố, những “lời xì xầm” không ngừng rỉ rả và đã gây tổn hại cho Amway. Chúng tôi không thể sống khi những tờ báo liên tục dẫn ra các số liệu rằng hình phạt cho tội gian dối của chúng tôi lên đến 20 năm ngồi tù. Đây không chỉ là một vụ án về thuế. Đây là vấn đề uy tín. Chúng tôi đã bị chính quyền Canada buộc tội gian lận mà trong kinh doanh, không ai muốn danh tiếng của mình gắn với từ này.
Ấy vậy mà bất kể sự thật có thế nào, dư luận vẫn không ngừng bàn về chúng tôi. Tòa báo Grand Rapids đăng tin về chúng tôi trên trang đầu mỗi ngày. Tôi nổi giận với tay tổng biên tập và nhận được lời đáp: “Anh cần phải quen với việc tin tức của anh sẽ xuất hiện ở trang đầu”. Rồi tôi phàn nàn là tôi không nghĩ câu chuyện của chúng tôi quan trọng đến mức họ phải thường xuyên đưa lên trang nhất thì ông ta trả lời: “Nếu tên anh dính vào, đó sẽ là tin trên trang nhất. Bởi vì tất cả những gì anh làm đều phải xuất hiện ở đó. Chỉ có cách chấp nhận sự thật thôi. Anh là một công dân hàng đầu của thành phố này, vì thế bất cứ điều gì anh làm, dù tốt hay xấu, đều sẽ nằm ở trang nhất”. Vậy đấy, điều ông ta nói vẫn còn ứng nghiệm cho đến ngày nay.
Chưa hết, đến lượt các hãng truyền thông lớn muốn nhắm vào chúng tôi. Năm 1982, có tin chương trình tin tức chiều Chủ nhật của hãng CBS sẽ sản xuất một đoạn phim về Amway và đã quay xong phim các hội nghị lớn được các nhà phân phối độc lập tài trợ. Đó là Mike Wallace và đoàn phim 60 phút vốn nổi tiếng về những cuộc phỏng vấn “phục kích” và câu đùa phổ biến “Nếu bạn đến văn phòng của mình và thấy Mike Wallace cùng với đoàn làm phim 60 phút đang đợi bạn ở đấy thì bạn biết rằng đó sẽ là một ngày tồi tệ”.
Vậy là chúng tôi phải tự chuẩn bị sẵn sàng cho mình. Thay vì đợi Wallace xuất hiện và bất thình lình chộp lấy mình, chúng tôi mời ông đến Amway và chào đón ông cùng cả ê-kíp làm phim. Tôi nghĩ văn phòng và các tiện nghi của chúng tôi đã khiến ông cực kỳ hào hứng. Chúng tôi lịch sự và luôn nhã nhặn với họ như với bất kỳ một vị khách nào khác đến tham quan. Tôi nghĩ điều đó đã thật sự tạo ra một tín hiệu tích cực, tất cả chúng tôi đều nghĩ rằng cuộc phỏng vấn với Jay và tôi diễn ra khá tốt. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng tôi đã không trải qua một số lo lắng và căng thẳng khi họ hoàn thành tác phẩm của mình về câu chuyện của chúng tôi.
60 phút đã mất một năm để làm đoạn phim điều tra có tên “Xà phòng và hy vọng”, được phát sóng vào ngày 9/1/1983. Đoạn phim này bao gồm ý kiến từ các nhà phân phối bất mãn trước đây, cảnh các nhà phân phối tại các hội nghị của Amway được tách ra khỏi ngữ cảnh và có thể không bao quát được cho tất cả các nhà phân phối, kèm theo đó là các câu hỏi gay go về vụ thuế hải quan ở Canada. Nhưng nhìn chung, mọi người đều đồng ý rằng đó là một đoạn phim đã được biên tập ổn thỏa. Nếu không có gì khác, người xem đều có một ý niệm thoáng qua về một công ty lớn và tinh tế hơn nhiều so với những gì họ mong đợi, họ cũng nhìn thấy Jay và tôi trong tư thế thoải mái, sẵn sàng giải thích với Mike Wallace về công ty mà chúng tôi luôn lấy làm tự hào.
Một năm sau đó, chúng tôi mời ông đến dự lễ khai trương tòa tháp mới được thêm vào một khách sạn mà Jay và tôi đã mua và cải tạo lại – khách sạn Amway Grand Plaza. Ở sảnh tòa nhà, Chương trình Larry King đang tiến hành một chương trình phát thanh trực tiếp với đoạn King phỏng vấn Wallace. Ông kể lại việc làm đoạn phim tài liệu về Amway: “Chúng tôi nghĩ mình sẽ phải làm đoạn phim mà không được họ hợp tác, nhưng đây là những con người ưu tú. Họ thành thật với chúng tôi ở một mức độ nhất định và chấp nhận hoàn cảnh khó khăn của mình. Chúng tôi nhận thấy sản phẩm của họ tốt và họ không hoạt động theo mô hình kim tự tháp”. Thậm chí trong một cuộc phỏng vấn với tòa soạn báo địa phương của chúng tôi, ông nói rằng: “Người dân Ada là số một”. Tôi bảo các nhà phân phối sau khi chương trình được phát sóng: “Chúng tôi được tiếp cận trước đó rất lâu và cố trì hoãn, nhưng họ nói rằng họ sẽ làm chương trình dù có hay không có chúng ta. Cuối cùng chúng tôi nhận chương trình về phía mình để nói rằng nếu họ sẽ làm nó bằng mọi cách, chúng ta sẽ không lẩn tránh. Cho dù đó có thể là một thảm họa, ít nhất chúng tôi sẽ bảo vệ điều tất cả chúng ta tin tưởng. Chúng ta sẽ không chạy trốn khỏi nó”.
Sau khi đoạn phim 60 phút được phát sóng, Jay và tôi được mời tham gia tiếp chương trình Phil Donahue được phát sóng trên toàn quốc. Phil Donahue nổi tiếng làm chương trình về những đề tài gây tranh cãi và cho khán giả cơ hội đặt câu hỏi với khách mời tham gia chương trình của ông. Chúng tôi biết trước rằng trong số khán giả sẽ có các nhà phân phối bất mãn.
– Tớ sẽ không đi. Tớ không công nhận họ. Cứ để cho họ làm chương trình của mình, nhưng tớ sẽ không có mặt ở đó. – Jay nói.
– Tớ sẽ đi. Tớ sẽ không để cho họ thông báo rằng chúng ta được mời đến dự nhưng không ai trong số bọn mình sẵn sàng có mặt. Chẳng thà tớ làm hỏng còn hơn là vắng mặt và không thể lên tiếng bảo vệ vị thế của bọn mình. Tớ sẽ đi. – Tôi trả lời.
Tôi nói chuyện trước với Donahue. Ông giải thích rằng ông sẽ mời tôi ngồi trên sân khấu với ông và chúng tôi sẽ nhận câu hỏi từ khán giả. “Tại sao ông làm chương trình này khi mà mọi người thậm chí còn không biết chúng ta sẽ nói về cái gì? Sao ông có thể sắp xếp để cho những người này phàn nàn về Amway mà không cho khán giả xem đài biết trước bối cảnh?”, tôi đặt vấn đề. Ông nói ông sẽ giới thiệu chương trình, giải thích các vấn đề và rồi chúng tôi sẽ nghe nhận xét và câu hỏi của khán giả. Một số người thậm chí sẽ than phiền. Sau đó, ông sẽ giới thiệu tôi dựa trên nhận xét của khán giả.
Khi tôi đến trường quay của ông ở Chicago, ông nói: “Tôi đổi ý rồi. Tôi sẽ không giới thiệu nữa; chúng ta cứ bắt đầu thôi”. Vì thế, cuối cùng tôi phải ngồi ngay mép sân khấu chứ không phải trên sân khấu, trước mặt là khán giả cũng là các nhà phân phối và Donahue bất ngờ để cho họ tấn công tôi. Vài người thông cảm và tôn trọng, nhưng số đông thì hiếu chiến. Đó là thời kỳ mà hoạt động kinh doanh của chúng tôi đang đi xuống, vì vậy một số nhà phân phối không kiếm được nhiều tiền lắm. Những người khác thì đòi hỏi cơ hội một cách quá đáng.
Tôi cố giữ thái độ thân thiện, vì tôi không muốn gây thêm bất kỳ sự định kiến nào cho những người thuộc Amway nữa. Bất chấp tình trạng hỗn loạn tại trường quay, tôi nghĩ mình đã đứng vững. Cuối tuần đó, tôi nhận được một tấm bưu thiếp từ Đệ nhất phu nhân Barbara Bush với lời nhắn: “DeVos 10, Donahue 0”. Qua những năm ủng hộ Đảng Cộng hòa và các ứng cử viên, tôi đã trở thành bạn của Tổng thống Bush và phu nhân. Lời nhắn ấy là minh chứng cho sự tử tế của bà.
Dẫu đã có sự xác chứng của nhiều nhân vật có uy tín trong xã hội, suốt năm năm sau khi vụ án kết thúc, các bài báo vẫn viết về chúng tôi, đôi khi họ vẫn cố gán chúng tôi với từ gian lận ấy. Nó đã kéo chúng tôi lùi lại rất xa. Chúng tôi phải tái xây dựng uy tín và chứng minh sự trung thực của mình. Kết quả kinh doanh ở cả Mỹ và Canada rớt xuống thê thảm. Doanh thu bán hàng của chúng tôi giảm sút vài năm trước khi có thể tăng trưởng trở lại. Chúng tôi mất một số nhà phân phối Canada nhưng vẫn có nhiều người ở lại, tiếp tục xây dựng hoạt động kinh doanh của họ và giúp Amway vững bước phát triển (tôi thực sự rất biết ơn những người này).
Không chỉ gây ảnh hưởng đến hoạt động và uy tín của Amway, dư luận còn tác động đến cá nhân mỗi con người đang làm việc cho Amway. Lúc đó, chính tôi cũng rất ngại đến thăm khách sạn Amway Grand Plaza ở khu trung tâm Grand Rapids vì có cảm giác sẽ bị mọi người nói xấu. Dù có sẵn bản tính bặt thiệp, tôi cũng phải trải qua giai đoạn không muốn xuất hiện trước công chúng.
Tất cả những gì liên quan đến vụ án này đã vắt kiệt sức của Jay và tôi trong suốt khoảng thời gian tranh tụng. Hầu hết sự chú ý của chúng tôi tập trung vào việc làm thế nào để xử lý chúng, làm thế nào các luật sư có thể giải quyết nhanh gọn, cần phải có những biện pháp phòng thủ nào và các cuộc phỏng vấn với luật sư để thu thập chứng cứ cần thiết cho vụ án. Chúng tôi giữ các máy bay của mình ngoài phạm vi Canada để đề phòng việc chúng bị tịch thu. Chúng tôi đóng cửa nhà máy ở Canada. Chúng tôi cũng nghĩ đến việc đóng cửa Amway ở đấy nhưng vẫn còn có quá nhiều các nhà phân phối và nhân viên phụ thuộc vào chúng tôi. Quyết định sau cùng này xuất phát từ sự cam kết mà chúng tôi dành cho các nhà phân phối ở Canada. Chúng tôi đã không bỏ họ mà đi.
Nhưng dẫu thế, chúng tôi vẫn không thể kham nổi việc tên của mình bị bêu riếu thường xuyên trên trang nhất của các tờ báo. Thật khó cho các nhà phân phối bán hàng và tiếp thị trong điều kiện như vậy, nhưng họ có những hoạt động kinh doanh và chúng tôi cần phải bảo vệ, và cuối cùng chúng tôi cảm thấy mình nên hòa giải. Chúng tôi cũng phải nghĩ đến gia đình của mình. Trong tình huống như thế, bọn trẻ cũng thường phải liên đới chịu đựng các mũi dùi hướng về phía bố mẹ chúng. Tôi nhớ rằng quanh bàn ăn, các con tôi đã tỏ ra lo ngại về vụ án và đó là đề tài chính trong lời cầu nguyện của gia đình tôi (có lúc có cả những câu sũng nước mắt).
May thay, sự chú ý ngày càng tăng của giới truyền thông cũng tỏ ra có ích. Nó giúp chúng tôi đặt mình vào tâm thế của những người chống đối để từ đó hiểu rõ cách mà họ nhìn nhận chúng tôi. Đó là lúc chúng tôi bắt đầu tập trung vào thực hiện một số thay đổi bằng cách chú tâm vào giải quyết những sự việc đơn lẻ đã góp phần tạo nên các nhận thức sai lầm. Chúng tôi hợp thức hóa các nguyên tắc và tiêu chuẩn cho các bài phát biểu cũng như các tài liệu được các nhà phân phối sử dụng cho hoạt động kinh doanh của Amway, chúng tôi thường có một đại diện công ty tại các hội nghị của các nhà phân phối. Các nhà phân phối chỉ được ủy quyền sử dụng sản phẩm và quyền kinh doanh nếu họ đáp ứng được các tiêu chuẩn của chúng tôi. Chúng tôi luôn theo sát những gì mà các nhà phân phối lan truyền hay tuyên bố với người tiêu dùng, với các nhà phân phối tiềm năng,… để đảm bảo hình ảnh một Amway tiêu biểu trong mắt công chúng.
Tất cả những trải nghiệm với chính quyền và giới truyền thông này, tuy phần lớn là tiêu cực song đó lại là những sự kiện cần thiết, đòi hỏi chúng tôi phải vượt qua để Amway có thể tiếp tục tồn tại. So với những thử thách trong quá khứ, chúng lớn hơn nhiều và nghiêm trọng hơn nhiều nhưng bài học thì vẫn không thay đổi: tiếp tục cố gắng thay vì than khóc, kiên trì và giữ hy vọng. Những thử thách thời mới tập tễnh vào kinh doanh (như một sân bay chưa hoàn tất khi chúng tôi cố khởi nghiệp hoạt động dịch vụ bay, chiếc thuyền buồm của chúng tôi bị chìm xuống đại dương, chỉ có hai người đến dự một cuộc họp của Nutrilite,…), chúng tôi đã ngỡ chúng rất nghiêm trọng rồi, nhưng hóa ra chúng chưa là gì so với vụ cháy rụi nhà máy sản xuất bình phun của chúng tôi. Cho đến các vụ việc với FTC và Cơ quan Thuế Canada thì mới hay những gian nan đầu đời hãy còn là nhẹ nhàng lắm.
Lúc Mike Wallace đến cửa văn phòng chúng tôi, chúng tôi đã không cam lòng chấp nhận đó là một ngày tồi tệ. Chúng tôi biết rằng sẽ luôn có những người chỉ trích, lên tiếng chống lại những ai có ước mơ, dám làm khác đi, hay thử nghiệm một điều mới mẻ. Những ngày đầu chúng tôi muốn Amway trở thành một cái tên quen thuộc. Đến khi tên Amway đã nổi tiếng thì không tránh được chuyện nó bị dùng như một điểm nhấn để tạo nên những trò cười rẻ tiền trong các đoạn hài kịch trên ti-vi – chúng tôi chỉ đơn giản là phải chấp nhận điều đó như một phần trong việc phát triển danh tiếng của mình để đạt đến thành công lớn hơn. Những ai có sức vươn cao để vượt qua đám đông, không sớm thì muộn sẽ thu hút sự chú ý của các nhà phê bình. Đó là điều đương nhiên mà chúng tôi không tránh được. Việc duy nhất Jay và tôi cùng các nhà phân phối và các nhân viên khác của Amway có thể làm là vượt qua cơn bão và tiến lên.
Những thử thách này đã giúp chúng tôi có được sự chuẩn bị tốt hơn cho chương quan trọng kế tiếp trong hoạt động kinh doanh của mình. Chúng tôi đang hướng đến nhiều nơi trên thế giới. Lúc đầu, chúng tôi nghĩ việc đó là một thử thách quá lớn nhưng rồi hóa ra, phong cách Mỹ, chất Mỹ lại được ủng hộ, xem trọng ở những nơi mà chúng tôi không hề ngờ đến.