• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Homecoming - Hồi sinh đứa trẻ bên trong bạn
  3. Trang 11

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 22
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 22
  • Sau

Chương 3Phương pháp chữa lành nỗi đau nguyên thủy

Chứng rối loạn thần kinh luôn thay thế cho những nỗi đau chính đáng.

– C. G. JUNG

Vấn đề không thể được giải quyết bằng lời nói mà chỉ bằng trải nghiệm hàn gắn hay trải nghiệm hồi tưởng lại nỗi sợ hãi (buồn bã, tức giận) nguyên thủy.

– ALICE MILLER

Tôi tin rằng nếu lý thuyết phía sau phương pháp chữa lành nỗi đau nguyên thủy được thấu hiểu rõ ràng hơn, thì một cuộc cách mạng trong việc điều trị chứng rối loạn thần kinh nói chung và các hành vi gây rối loạn cưỡng chế hay nghiện ngập nói riêng sẽ được tạo ra. Vì vậy, những bệnh nhân mong mỏi được thực hiện phương pháp trị liệu cảm xúc thường bị buộc phải sử dụng thuốc an thần. Tại trung tâm điều trị Life Plus của mình ở LosAngeles, chúng tôi đã gặp phải những trở ngại từ một số chuyên gia sức khỏe tâm thần, những người không thể hiểu tại sao chúng tôi không muốn cấp thuốc cho bệnh nhân. Chúng tôi tin rằng cách duy nhất để chữa trị chứng rối loạn cưỡng chế hay nghiện ngập là phương pháp chữa lành cảm xúc.

Chúng tôi tập trung vào việc điều trị tình trạng lệ thuộc thái quá bắt nguồn từ sự hổ thẹn độc hại, cảm giác mình yếu kém và khiếm khuyết trong nội tâm của con người. Trong quá trình nội tâm hóa, cảm giác hổ thẹn, lẽ ra là một tín hiệu lành mạnh về những giới hạn, lại trở thành một trạng thái gây hoảng loạn và biến thành cá tính của bạn. Một khi mang cảm giác hổ thẹn độc hại, con người ta sẽ mất kết nối với con người thật của mình. Hệ quả của nó là sự đau khổ kéo dài do đánh mất bản thân. Mô tả lâm sàng của tình trạng này là rối loạn nhịp tim hoặc trầm cảm mãn tính mức độ thấp. Trong cuốn Bradshaw On: Healing the Shame That Binds You (tạm dịch: Cùng Bradshaw xóa bỏ cảm giác xấu hổ đang trói buộc bạn), tôi đã chỉ ra cách mà sự hổ thẹn độc hại làm chủ cảm xúc của chúng ta. Nó trói buộc mọi cảm giác trong nỗi hổ thẹn ấy để bất cứ khi nào tức giận, đau khổ, sợ hãi, hoặc thậm chí vui sướng, chúng ta cũng đều cảm thấy xấu hổ. Nó cũng tác động tương tự đến nhu cầu và động lực của chúng ta trong cuộc sống. Cha mẹ trong các gia đình rối loạn chức năng chính là những người lớn mang tính cách trẻ con; đứa trẻ đầy vết thương bên trong họ đang thiếu thốn. Bất cứ khi nào đứa trẻ đó cảm thấy thiếu thốn và có những hành động bộc phát tự nhiên thì bản thể cha mẹ người lớn sẽ tức giận và xấu hổ với chúng. Hậu quả là mỗi lúc cảm thấy thiếu thốn điều gì đó, “đứa trẻ bên trong” ấy đều cảm thấy xấu hổ. Phần lớn cuộc đời trưởng thành của mình, tôi luôn cảm thấy xấu hổ mỗi khi cần giúp đỡ. Và cuối cùng, bất kể trong hoàn cảnh thuận lợi như thế nào thì những người mang nỗi hổ thẹn thường trực sẽ cảm thấy xấu hổ khi quan hệ tình dục.

Một khi cảm xúc bị trói buộc trong sự xấu hổ, con người ta sẽ bị tê liệt. Sự tê liệt này là điều kiện tiên quyết dẫn đến tất cả các kiểu nghiện ngập, bởi cơn nghiện là điều duy nhất mà người đó có thể cảm nhận được. Ví dụ, một người đàn ông bị trầm cảm kinh niên trở thành một giám đốc điều hành xuất sắc nhờ chứng nghiện công việc của mình chỉ có thể có cảm giác khi đang làm việc. Một người nghiện rượu hoặc ma túy cảm thấy hưng phấn với các loại thuốc thay đổi tâm trạng. Một người nghiện đồ ăn sẽ có cảm giác đầy đủ và khỏe mạnh khi no bụng. Mỗi cơn nghiện cho phép người đó cảm thấy tốt đẹp hoặc né tránh được những nỗi đau. Trạng thái nghiện ngập làm thay đổi sự tổn thương và đau đớn của “đứa trẻ bên trong”. Vết thương tinh thần do sự xấu hổ độc hại gây ra sẽ làm mất kết nối với bản thể thật của mỗi người. Người ta sẽ trở nên mờ nhạt một cách thê thảm trong chính con mắt của mình, trở thành đối tượng đáng khinh của chính mình.

Khi tin rằng không thể sống bằng con người thật của mình, một người không thể hòa làm một với chính mình nữa. Ảo giác do cơn nghiện làm thay đổi cảm giác, khiến anh ta hạnh phúc, hòa làm một với bản thân. Bất cứ khi nào nhận thức được cảm xúc thật của mình, anh ta lại cảm thấy hổ thẹn. Vì vậy, để tránh nỗi đau đó, anh ta phải sống trong tình trạng bị tê liệt cảm xúc.

Chúng ta sử dụng các biện pháp bảo vệ bản ngã khác nhau để làm tê liệt nỗi đau khi không thể chịu đựng nổi hiện thực cuộc sống. Một số cách bảo vệ phổ biến nhất là: phủ nhận (“nó không thực sự xảy ra”), cưỡng chế (“nó không bao giờ xảy ra đâu”), thoái lui (“tôi không nhớ chuyện gì đã xảy ra cả”), chuyển hướng (“nó xảy ra với bạn, không phải với tôi”), hoán đổi (“tôi ăn uống hoặc quan hệ tình dục khi tôi cảm thấy nó đang diễn ra”) và giảm thiểu (“nó đã xảy ra nhưng không phải vấn đề gì lớn cả”).

Về cơ bản, việc bảo vệ bản ngã của chúng ta là cách để đánh lạc hướng chúng ta khỏi nỗi đau mà chúng ta đang cảm thấy.

TẦM QUAN TRỌNG CỦA CẢM XÚC

Silvan Tomkins, một nhà tâm lý học nghiên cứu, đã có những đóng góp lớn lao vào sự hiểu biết của chúng ta về hành vi con người qua thảo luận tầm quan trọng của cảm xúc. Cảm xúc của chúng ta là dạng trải nghiệm tức thời và dạng năng lượng vật chất, thể hiện trong cơ thể trước khi chúng ta nhận thức được. Vì thế, khi trải nghiệm cảm xúc là chúng ta đang tiếp xúc trực tiếp với thực thể vật chất của mình.

Tomkins phân biệt chín loại cảm xúc thiên bẩm được thể hiện qua nhiều biểu hiện trên khuôn mặt. Mỗi đứa trẻ đều được sinh ra với những biểu hiện được “lập trình sẵn” này trên cơ mặt của mình, và các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng mọi người ở khắp mọi nơi trên thế giới, trong mọi lĩnh vực, đều nhận dạng những cảm xúc này theo cùng một cách. Chúng là thông tin liên lạc cơ bản mà chúng ta cần để tồn tại về mặt sinh học.

Khi chúng ta phát triển, các cảm xúc hình thành những lược đồ cơ bản để suy nghĩ, hành động và đưa ra quyết định. Tomkins coi cảm xúc là động lực sinh học bẩm sinh của chúng ta. Chúng là “năng lượng để chúng ta hoạt động”, giống như nhiên liệu sử dụng để lái xe vậy. Cảm xúc tăng cường và khuếch đại đời sống của chúng ta. Không có cảm xúc sẽ không có gì thực sự quan trọng cả; ngược lại thì bất cứ điều gì cũng đều trở nên quan trọng.

Theo lý thuyết của Tomkins, có sáu động lực chính là thích thú, vui vẻ, ngạc nhiên, lo lắng, sợ hãi và tức giận. Ông coi cảm giác xấu hổ như một cảm xúc phụ trợ mà con người trải nghiệm ở cấp độ sơ khai. Do được tạo ra bởi những tình thế đột ngột, bất ngờ nên nó ngăn chặn hoặc giới hạn những điều đang diễn ra.

Cảm giác ghê tởm là những phản ứng phòng thủ bẩm sinh. Khi chúng ta ngửi thấy mùi gì đó khó chịu, cảm giác ghê tởm sẽ khiến cho môi trên, mũi hếch lên và cổ thì rụt lại. Khi chúng ta nếm hoặc nuốt phải một chất gì đó ôi thiu, cảm giác ghê tởm sẽ khiến chúng ta phải nhổ hoặc nôn ra. Giống như các phản xạ khác, cảm giác ghê tởm phát triển để bảo vệ chúng ta khỏi các chất nguy hiểm nhưng chúng ta cũng sử dụng chúng để thể hiện sự ghét bỏ phi vật chất.

Nói một cách rất đơn giản, cảm xúc là những năng lượng cơ bản nhất của chúng ta. Chúng ta sử dụng chúng để bảo vệ các nhu cầu cơ bản của mình. Khi một nhu cầu của chúng ta đang bị đe dọa, năng lượng cảm xúc sẽ báo hiệu cho chúng ta biết.

Hầu hết chúng ta đều được phép cảm nhận niềm vui, sự thích thú hoặc ngạc nhiên và theo Tomkins đó là những cảm xúc tích cực. Ít nhất thì chúng ta biết được đây là những cảm xúc “tốt”. Nhưng trên thực tế, khi nỗi sợ hãi, buồn chán và tức giận bị kìm nén thì khả năng cảm thấy hào hứng, thích thú và hiếu kỳ của chúng ta cũng ngừng lại. Và đó là những gì đã xảy ra với cha mẹ của chúng ta nên họ không thể cho phép chúng ta có những cảm xúc này. Trẻ em thấy hổ thẹn vì quá phấn khích, hiếu kỳ hay tò mò.

Mô hình trị liệu của Harvey Jackins, được gọi là “Hướng dẫn đánh giá lại”, cũng tương tự như phương pháp chữa lành nỗi đau nguyên thủy. Jackins cho rằng khi cảm xúc đi cùng với trải nghiệm đau thương bị kìm nén thì tâm trí không thể đánh giá hoặc tích hợp trải nghiệm đó. Khi năng lượng cảm xúc ngăn cản việc chữa lành tổn thương, bản thân tâm trí sẽ giảm khả năng hoạt động. Theo năm tháng, tâm trí sẽ ngày càng suy giảm vì sự kìm hãm của năng lượng cảm xúc ngày càng lớn mỗi khi một trải nghiệm tương tự xảy ra. Như lúc trước tôi đã gọi hiện tượng này là sự quay trở lại tuổi tự phát. Nó giống như câu chuyện chú chó nổi tiếng của Pavlov, mỗi khi nghe thấy tiếng chuông là biết mình được ăn. Sau một thời gian, mỗi khi nghe thấy tiếng chuông là nó lại chảy nước miếng ngay cả khi không có chút thức ăn nào cả. Tương tự như vậy, chúng ta có thể cảm thấy buồn bã vô cùng khi nghe một bài hát mừng lễ Giáng sinh, bởi nó gợi lại ký ức về hình ảnh người cha say xỉn đã phá hỏng Giáng sinh trước kia.

“Đứa trẻ bên trong” bị tổn thương chứa đầy năng lượng chưa được giải phóng do nỗi đau buồn từ tuổi thơ đầy đau đớn gây ra. Một trong những lý do khiến chúng ta buồn là để kết thúc những sự kiện bi thương trong quá khứ, để tạo ra năng lượng cho hiện tại. Khi chúng ta không được phép đau buồn, năng lượng sẽ bị đóng băng.

Một trong những quy tắc của các gia đình rối loạn chức năng là quy tắc không cảm xúc. Quy tắc này thậm chí ngăn cản “đứa trẻ bên trong” bạn không biết mình đang cảm thấy gì. Một quy tắc khác là quy tắc không nói chuyện, tức là cấm thể hiện cảm xúc. Trong một số trường hợp, điều đó đồng nghĩa với việc bạn chỉ có thể thể hiện một số cảm xúc nhất định. Các gia đình khác nhau sẽ có những khác biệt trong quy tắc không nói chuyện của mình.

Trong gia đình tôi, mọi cảm xúc đều bị cấm đoán ngoại trừ cảm giác tội lỗi. Thể hiện cảm xúc được cho là yếu đuối. Tôi thường xuyên bị nhắc nhở: “Đừng có xúc động như vậy”. Gia đình tôi không khác gì hàng triệu gia đình phương Tây khác, thừa hưởng sản phẩm của ba trăm năm “chủ nghĩa duy lý”. Chủ nghĩa duy lý nghĩa tin rằng lý trí là tối cao. Sống lý trí là yếu tố để làm người, còn sống tình cảm thì dưới mức con người. Kìm nén và che giấu cảm xúc đã là quy luật trong hầu hết các gia đình phương Tây.

Cảm xúc bị kìm nén

Vì cảm xúc là năng lượng nên chúng tha thiết được thể hiện. Trẻ em trong các gia đình bất hạnh thường không có đồng minh, không có ai để có thể bày tỏ cảm xúc của mình. Vì vậy, trẻ buộc phải thể hiện chúng theo cách duy nhất mà mình biết, “tái diễn lên người khác” hoặc “tái diễn lên chính mình”. Sự kìm nén diễn ra càng sớm thì những cảm xúc bị kìm nén càng “dễ phá hoại”. Tôi gọi những cảm xúc chưa được giải quyết và không được bộc lộ này “nỗi đau nguyên thuỷ”. Phương pháp chữa lành nỗi đau nguyên thủy bao gồm việc trải nghiệm lại những tổn thương đầu đời này và thể hiện ra những cảm xúc bị kìm nén. Kết quả là chúng ta sẽ không còn phải tái diễn những cảm xúc đó lên người khác hoặc lên chính mình nữa.

Cho đến gần đây, có rất ít bằng chứng khoa học hỗ trợ cho phương pháp chữa lành nỗi đau nguyên thủy. Freud đã viết rất nhiều về sự cưỡng chế, thoái lui và phủ nhận như những biện pháp chính để bảo vệ bản ngã. Ông đã dạy rằng, một khi được hình thành, những hệ thống phòng thủ này hoạt động một cách tự động và vô thức. Tuy nhiên, ông không thể giải thích chính xác cách thức hoạt động của các cơ chế ấy. Ví dụ, điều gì xảy ra trong não của chúng ta khi cảm xúc đau đớn bị ngăn chặn?

Các nhà trị liệu thể chất đã mô tả cơ chế phòng thủ này hoạt động theo một số cách. Ví dụ, cảm xúc có thể bị tê liệt bằng cách căng cơ, mọi người thường nghiến răng và căng hàm khi họ tức giận. Cảm xúc cũng có thể được kìm nén bằng cách nín thở, còn thở nông là một cách phổ biến để tránh cảm xúc đau đớn.

Người ta cũng kìm nén cảm xúc của mình bằng ảo ảnh. Ví dụ, tôi đã trải qua giai đoạn đầu của cuộc đời mình với nỗi sợ hãi gần như ám ảnh về sự tức giận. Tôi luôn tưởng tượng rằng việc bày tỏ sự tức giận là một trong những cách từ chối hoặc trừng phạt thảm khốc. Ảo ảnh này kích hoạt sự căng cơ và thở nông của cơ thể.

MỐI LIÊN HỆ GIỮA NỖI ĐAU KHỔ VÀ NÃO BỘ

Ngày nay, chúng ta bắt đầu nhận thức được khả năng bảo vệ bản ngã trên cơ sở nghiên cứu về chức năng hóa học và sinh lý của não bộ. Việc buông bỏ sự bảo vệ bản ngã sẽ kết nối một người với những cảm xúc ban sơ của anh ta. Hàn gắn những nỗi đau nguyên thủy có tác dụng chữa bệnh tuyệt vời vì nó cho phép người ta cảm nhận những cảm xúc chưa được giải quyết trong quá khứ. Tại sao lại có tác dụng như vậy?

Nhà nghiên cứu não bộ Paul D. MacLean đã trình bày một mô hình não bộ giúp hiểu chấn thương có ảnh hưởng như thế nào tới chúng ta. MacLean mô tả não bộ bằng thuyết “ba não bộ”. Chúng nằm bên trong não bộ của chúng ta và là sự kế thừa của quá trình tiến hóa. Não bò sát hay não phản xạ là lâu đời nhất, nguyên thủy nhất trong não bộ của chúng ta. Nó giúp chúng ta duy trì sự an toàn và sinh tồn: có tính lặp đi lặp lại. Ví dụ, thằn lằn có một cuộc sống khá đơn giản. Công việc hằng ngày của nó bao gồm đi kiếm ăn mỗi sáng, hy vọng có thể đớp được một vài con ruồi, con muỗi mà không bị ăn thịt. Nếu nó tìm thấy một con đường an toàn qua bãi cỏ và đất đá, nó sẽ lặp lại hành trình này cho đến khi chết. Sự lặp lại này là để sinh tồn. Não phản xạ cũng duy trì các chức năng vật lý tự động của cơ thể chúng ta, chẳng hạn như hít thở. Tôi muốn nói với mọi người rằng bản năng của thằn lằn trong chúng ta sẽ thực sự xuất hiện, khi chúng ta bắt đầu kết hôn và xung đột với thói quen cả đời của người khác.

Tiếp theo là não của loài động vật có vú hay còn gọi là não cảm xúc. Về mặt phương pháp thì đây được gọi là hệ limbic (hệ viền). Khi động vật có vú máu nóng xuất hiện trong quá trình tiến hóa, năng lượng cảm xúc được sinh ra. Hệ limbic chứa đựng những cảm xúc như phấn khích, sung sướng, tức giận, sợ hãi, buồn bã, vui thích, xấu hổ, ghê tởm và chán ghét.

Hệ thống tinh vi nhất trong não bộ của chúng ta là tân vỏ não hay còn gọi là não tư duy. Nó tiến hóa cuối cùng, trong khoảng hơn hai triệu năm qua. Nó giúp con người chúng ta có khả năng suy luận, sử dụng ngôn ngữ, lập kế hoạch trước, giải quyết các vấn đề phức tạp, v.v...

Theo MacLean, ba não bộ này độc lập nhưng cũng hoạt động cùng nhau để duy trì trạng thái cân bằng của toàn não bộ, vốn được quyết định bởi nhu cầu phải giữ sự đau khổ ở mức tối thiểu.

Não bộ không gặp khó khăn gì trong việc giải quyết những nỗi buồn phiền của cuộc sống. Nó dùng việc thể hiện cảm xúc để duy trì sự cân bằng. Khi nỗi đau đạt đến một đỉnh điểm nhất định, chúng ta nổi cơn thịnh nộ vì giận dữ, khóc lóc vì đau khổ hoặc đổ mồ hôi và run rẩy vì sợ hãi. Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng nước mắt thực sự làm tan biến chất gây căng thẳng tích tụ trong trạng thái buồn bã. Não bộ sẽ tự động được chuyển đến trạng thái cân bằng bằng cách bộc lộ cảm xúc, trừ khi chúng ta được dạy rằng phải ngăn chặn nó.

Trẻ em lớn lên trong các gia đình bất hòa được dạy để cưỡng chế việc biểu lộ cảm xúc theo ba cách: cách thứ nhất là không được người lớn tương tác hoặc làm gương, tức là trẻ bị bỏ mặc theo đúng nghĩa đen; cách thứ hai là không có bất cứ hình thức lành mạnh nào để gọi tên và thể hiện cảm xúc; và cách thứ ba là bị sỉ nhục hoặc bị trừng phạt nếu bộc lộ cảm xúc. Những đứa trẻ từ các gia đình kiểu này thường nghe thấy những câu như: “Tao sẽ cho mày biết thế nào là khóc lóc” hay “Đừng bao giờ cãi lại tao nếu không muốn nát đòn”. Trẻ thường thực sự bị đánh đòn chỉ vì cảm thấy sợ hãi, tức giận hoặc buồn bã.

Nhưng khi cảm xúc bị cưỡng chế hoặc khi sự căng thẳng trở nên quá mức và trở thành chứng mãn tính, não bộ sẽ gặp khó khăn. Nó sẽ phải thực hiện các biện pháp đặc biệt bất thường để duy trì sự cân bằng, đó là bảo vệ bản ngã.

Vết hằn của những tổn thương đầu đời

Cảm xúc bị cưỡng chế càng sớm thì tổn thương sẽ càng nghiêm trọng. Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy về cơ bản, quá trình trưởng thành của não bộ tuân theo trình tự tiến hóa của não bộ. Các nhà khoa học thần kinh đã chỉ ra rằng, não bộ phản xạ chiếm ưu thế trong các giai đoạn sau của thai kỳ và trong giai đoạn đầu sau khi sinh.

Hệ limbic bắt đầu hoạt động trong sáu tháng đầu đời. Nó cho phép sự kết nối quan trọng ban đầu diễn ra.

Tân vỏ não vẫn đang phát triển trong những năm đầu đời của chúng ta, và nó cần một môi trường thích hợp cũng như sự kích thích đúng đắn để có thể phát triển lành mạnh. Trong nghiên cứu của mình về sự phát triển nhận thức ở trẻ em, Piaget đã không tìm thấy tư duy logic thực sự cho đến khi trẻ được khoảng 6 hoặc 7 tuổi. (Mặc dù một số phát hiện của Piaget bị nghi ngờ nhưng độ tuổi lên 7 dường như đánh dấu một bước ngoặt đáng kể).

Khi chúng ta suy ngẫm về thực tế rằng não phản xạ là có liên quan đến các vấn đề sinh tồn và bị chi phối bởi tính lặp lại thì quan điểm về dấu ấn vĩnh viễn thực sự thuyết phục. Nhà khoa học thần kinh Robert Isaacson đã khẳng định rằng những ký ức đau thương khó có thể bị xóa bỏ tận gốc rễ, bởi chúng là những ký ức về các phản xạ sinh tồn. Vì não bộ phản xạ và ghi nhớ nhưng lại không dễ quên nên nó in hằn vĩnh viễn những dấu vết tổn thương, ảnh hưởng đến tương lai của mỗi người. Bất cứ điều gì trẻ đã trải qua trong những năm đầu đời sẽ được ghi nhớ cùng với các giá trị sinh tồn trong tâm trí.

Chứng ám ảnh cưỡng chế

Việc nghiên cứu về thần kinh này chủ yếu củng cố cho điều mà mọi nhà tâm lý học từ thời Freud cho đến nay đã ngay lập tức nhận ra: Những người bị rối loạn thần kinh đều mắc chứng ám ảnh cưỡng chế.

Ngoài ra còn có giải thích về khía cạnh thần kinh cho những phản ứng nghiêm trọng thái quá mà tôi đã đề cập lúc trước. Các nhà nghiên cứu về não bộ cho rằng, những dấu vết in hằn trên hệ thần kinh bị khuếch đại là do trải nghiệm căng thẳng đã bóp méo cách cơ thể phản ứng với các kích thích khi trưởng thành. Những trải nghiệm đau thương đang diễn ra thực sự khắc sâu những đường rãnh mới giúp não bộ ngày càng sẵn sàng để nhận ra những kích thích đau đớn mà người khác có thể không nhận thấy.

Điều này củng cố ý kiến cho rằng một khi nguyên liệu cốt lõi được thiết lập trong thời thơ ấu, nó sẽ hoạt động như một bộ lọc nhạy cảm quá mức trong việc định hình các sự kiện tiếp theo. Những ảnh hưởng độc hại của “đứa trẻ bên trong” bị tổn thương thuộc mục này. Khi một người lớn có “đứa trẻ bên trong” bị tổn thương trải qua một tình huống hiện tại tương tự như quá khứ, thì phản ứng như quá khứ cũng sẽ được kích hoạt. Harvey Jackins mô tả hiện tượng này giống như chiếc máy ghi âm có nút bật bị kẹt vậy. Những cảm xúc mãnh liệt sẽ xuất hiện để phản ứng lại ngay cả với điều gì đó thực sự tầm thường hoặc vô thưởng vô phạt. Đây là sự phản ứng với những điều không tồn tại ở bên ngoài, mà ẩn sâu trong nội tâm.

Khi tôi viết điều này, tôi đang ở trên một con tàu du lịch tham quan các thủ đô của châu Âu. Hai ngày trước, khi chúng tôi cập bến Le Havre, Pháp, con gái tôi đã đề nghị cả gia đình đi tàu hỏa đến Paris thay vì ngồi mất hai giờ đồng hồ trên xe buýt du lịch. Con bé gần như chưa hề trải qua tổn thương nào lúc đầu đời. Con bé là người phóng khoáng, hiếu kỳ và thích phiêu lưu. Với suy nghĩ ám ảnh trong đầu, tôi lưỡng lự trước đề nghị của con bé. Tôi thức dậy nhiều lần trong đêm mà đầu toàn những tưởng tượng đầy bi kịch: “Nếu tàu hỏa bị trật bánh thì sao?” “Điều gì sẽ xảy ra nếu tàu hỏa trễ giờ và chúng ta nhỡ mất chuyến tàu thủy?” Lời đề nghị đơn giản của con bé đã gây ra phản ứng thái quá trong tôi. Tôi bị cha bỏ rơi từ khi còn nhỏ nên bây giờ suy nghĩ ám ảnh của tôi chỉ tập trung vào việc không thể quay trở lại con tàu: Bị bỏ lại phía sau.

BẢO VỆ BẢN NGÃ VÀ “NÃO BỘ BỊ GIAM GIỮ”

Phương pháp chữa lành nỗi đau nguyên thủy dựa trên giả thiết rằng cảm xúc đau thương lúc trước bị kìm hãm và làm cho tê liệt. Chúng ta tái hiện nó đối với người khác bởi nó chưa bao giờ được giải quyết cả. Sở dĩ nó không thể được giải quyết vì cơ chế kìm hãm (tức cơ chế bảo vệ bản ngã) khiến chúng ta không biết rằng nó đang tồn tại.

“Bạn không thể hiểu những gì mà bạn không biết” là một khẩu hiệu chúng tôi sử dụng trong trị liệu. Chúng ta tái hiện cảm xúc lên người khác hoặc lên chính bản thân mình; hoặc chúng ta chuyển hướng cảm xúc đó sang cho người khác. Vì chúng ta không thể cảm nhận được chúng, và vì chúng là những điều còn dang dở nên cần được thể hiện. Hướng nội, hướng ngoại và chuyển hướng những cảm xúc này là cách thể hiện duy nhất mà “đứa trẻ bên trong” chúng ta biết nhưng đó không phải là giải pháp lâu dài. Chứng ám ảnh cưỡng chế của tôi (một chứng bệnh phổ biến ở trẻ bị tổn thương) đã không chấm dứt khi tôi bỏ rượu, mà biến thành chứng ám ảnh cưỡng chế trong công việc.

Cho đến khi tôi giải quyết được nỗi đau nguyên thủy của “đứa trẻ bên trong” bị tổn thương, tôi vẫn tiếp tục tái hiện cảm xúc hướng ngoại vì nhu cầu vô độ đối với cảm xúc phấn khích và sự thay đổi tâm trạng. Việc bảo vệ bản ngã đã khiến cảm xúc của tôi bị kìm hãm. Tôi mới chỉ phát hiện ra những hình thức chính của chứng lệ thuộc, loạn luân về thể xác và phi thể xác, chứng nghiện rượu, vốn đã thống trị lịch sử gia đình nhiều thế hệ của tôi cách đây mười năm. Tôi đã không thể thực hiện được phương pháp chữa lành nỗi đau nguyên thủy cho đến khi tôi từ bỏ được những suy nghĩ sai lầm và thôi không chối bỏ về gia đình lẫn tuổi thơ của mình.

Công trình nghiên cứu về não bộ của Ronald Melzack có thể giúp giải thích các biện pháp bảo vệ bản ngã. Melzack đã khám phá ra một phản ứng sinh học thích ứng để cưỡng chế những nỗi đau đớn mà ông gọi là “giam giữ thần kinh”. Melzack nói rằng ba hệ thống não bộ riêng biệt có các sợi liên kết với nhau, có chức năng tạo điều kiện thuận lợi và ngăn chặn. Giam giữ thần kinh là cách mà các thông tin giữa ba hệ thống não bộ được kiểm soát. Có thể sự kìm nén diễn ra chủ yếu ở cánh cổng ngăn cách giữa não tư duy và não cảm xúc. Nói một cách đơn giản thì khi tổn thương về cảm xúc trong hệ limbic vượt quá mức, một cơ chế tự động sẽ đóng cánh cổng vào tân vỏ não. Việc đó giống như thể có những tiếng ồn rất lớn phát ra từ một phòng khác khiến bạn phải bước đến và đóng cửa lại vậy.

Freud tin rằng bảo vệ bản ngã được tích hợp vào các biện pháp phòng thủ thứ cấp phức tạp hơn khi con người trưởng thành. Những biện pháp phòng thủ thứ cấp này đảm bảo tính chất của tư duy như sự hợp lý hóa, phân tích, viện cớ và tối thiểu hóa.

a4

Công trình nghiên cứu gần đây về hệ limbic của R. L. Isaacson đã củng cố cho lý thuyết này. Isaacson cho rằng hệ thống cổng giam giữ của tân vỏ não (não tư duy) có chức năng “đánh bại những thói quen và ký ức của quá khứ… tân vỏ não đặc biệt tập trung đến việc kìm hãm quá khứ”. Những thói quen và ký ức này bao gồm các dấu ấn hằn sâu (những đường dẫn thần kinh) được tạo ra bởi sự căng thẳng và tổn thương. Do đó, não tư duy có thể hoạt động mà không bị cản trở bởi tiếng ồn và các tín hiệu được tạo ra trong thế giới nội tâm của chúng ta.

Nhưng những tín hiệu này không biến mất. Thay vào đó, các nhà nghiên cứu đưa ra giả định rằng chúng tiếp tục di chuyển xung quanh mạch kín của các sợi thần kinh trong hệ limbic.

Vì vậy, mặc dù nhờ bảo vệ bản ngã căng thẳng và đau đớn sẽ qua đi, nhưng thực tế chúng vẫn còn tồn tại. Chúng ẩn mình dưới vỏ bọc mất cân bằng. Một chuỗi hành động dang dở đang tích tụ và chờ được giải phóng. Những tổn thương nguyên thủy tồn tại giống như một cơn bão điện khuếch tán sự căng thẳng trong toàn bộ hệ thống sinh học. Kết quả là những người có cuộc sống trưởng thành dùng lý trí để có thể tiếp tục một cuộc sống tình cảm đầy giông bão.

CHỮA LÀNH NỖI ĐAU NGUYÊN THỦY

Phương pháp chữa lành nỗi đau nguyên thủy liên quan đến việc thực sự trải nghiệm những cảm giác bị kìm nén ban đầu. Tôi gọi đó là quá trình tháo gỡ, quá trình mang lại “sự thay đổi bậc hai”, giúp giải quyết những vấn đề về cảm xúc. Trong sự thay đổi bậc nhất, bạn chuyển từ sự cưỡng chế này sang sự cưỡng chế khác. Trong sự thay đổi bậc hai, bạn không còn bị cưỡng chế nữa. Đây chính là những gì tôi cần để chữa lành chứng ám ảnh cưỡng chế của mình. Tôi tái hiện những hành vi ám ảnh cưỡng chế một cách hướng ngoại vì “đứa trẻ bên trong” cô đơn, đầy tổn thương của tôi chưa bao giờ trút bỏ được nỗi buồn đau ban đầu cả. Dù đã tham gia chương trình 12-bước và kiểm soát được chứng nghiện rượu hay là trở thành một giáo sư, một nhà thần học và bác sĩ trị liệu, thì tôi vẫn không ngừng tái hiện hướng ngoại. Tôi đọc mọi cuốn sách mới mà tôi thấy và tôi thảo luận về các vấn đề của mình trong liệu pháp nhưng hành vi hướng ngoại vẫn không chấm dứt. Tôi hướng tới những kiến thức cao siêu hơn; học cách của các pháp sư cổ đại; học các phương pháp chữa trị bằng năng lượng; nghiên cứu A Course in Miracles (tạm dịch: Khoá học về phép lạ), thiền định và cầu nguyện (đôi khi hàng giờ liền) nhưng tôi vẫn tiếp tục hành vi đó. Chứng ám ảnh cưỡng chế của tôi thậm chí còn nghiêm trọng hơn nữa. Điều tôi đã không hiểu được là mình cần phải vỗ về đứa con trai bé bỏng có trái tim tan vỡ trong nội tâm đang cô đơn và đau đớn khôn nguôi khi mất cha, mất gia đình và tuổi thơ của tôi. Lẽ ra tôi đã phải xoa dịu nỗi đau nguyên thủy của mình. Đây là nỗi khổ chính đáng mà Carl Jung đã nhắc đến.

Chữa lành nỗi đau nguyên thuỷ là một công việc đau đớn

Điều tốt lành đó là phương pháp chữa lành nỗi đau nguyên thủy liên quan đến quá trình tự chữa trị theo bản năng. Đau buồn là một cảm giác có khả năng chữa lành. Chúng ta sẽ chữa lành một cách tự nhiên nếu chúng ta thực sự được phép đau buồn.

Sự đau buồn có liên quan đến đủ loại cảm xúc của con người. Nỗi đau nguyên thủy là sự tích tụ những xung đột chưa được giải quyết mà năng lượng của chúng lớn nhanh theo thời gian. “Đứa trẻ bên trong” bị tổn thương đang bị tê liệt vì không thể nào giải quyết được sự đau buồn của mình. Mọi cảm xúc của đứa trẻ ấy đều bị kìm hãm bởi sự xấu hổ độc hại. Sự xấu hổ này là do “cầu nối giữa các cá nhân” đầu tiên của chúng ta bị đứt gãy. Chúng ta trở nên tin rằng mình không thể phụ thuộc vào người chăm sóc đầu tiên nữa, nhưng trên thực tế là mình không có quyền phụ thuộc vào bất kỳ ai. Cô lập và sợ phụ thuộc vào người khác là hai trong số những hậu quả chính của sự xấu hổ độc hại.

Khôi phục cầu nối giữa các cá nhân

Để xóa bỏ những cảm xúc xấu hổ độc hại, chúng ta phải rời khỏi nơi ẩn náu và tin tưởng vào ai đó. Trong cuốn sách này, tôi đề nghị bạn hãy tin tôi và tin tưởng vào chính bản thân mình. Để “đứa trẻ bên trong” đầy tổn thương của bạn bước ra khỏi nơi ẩn náu, nó cần phải tin tưởng rằng bạn sẽ ở đó vì nó. Đứa trẻ này cũng cần một đồng minh hỗ trợ, không chê bai, dè bỉu để thừa nhận mình đã bị ruồng bỏ, thờ ơ, ngược đãi và thù địch. Đó là những yếu tố cần thiết đầu tiên trong phương pháp chữa lành nỗi đau nguyên thủy.

Tôi hy vọng bạn sẽ tin tưởng rằng bản thân chính là đồng minh của “đứa trẻ bên trong” để chữa lành nỗi đau, bởi thực tế là bạn không thể hoàn toàn tin tưởng vào tôi hay bất kỳ ai khác. Khi khốn cùng thì có lẽ tôi sẽ phải tự cứu mình trước. Nhưng bạn hoàn toàn có thể tin tưởng vào chính mình. Jo Courdet đã nói rất hay trong Advice from a Failure (tạm dịch: Lời khuyên từ một kẻ thất bại): “Trong tất cả những người bạn biết, bạn chính là người duy nhất mà bản thân sẽ không bao giờ rời bỏ hay đánh mất”.

Thừa nhận sự ngược đãi xảy ra với bạn

Tin tôi đi, rất nhiều người bảo cách nuôi dạy con cái hợp pháp thực ra là ngược đãi. Nếu bạn vẫn có xu hướng coi nhẹ hoặc hợp lý hóa những cách mà bạn bị chế nhạo, bị bỏ mặc hoặc bị lợi dụng để làm hài lòng cha mẹ thì bây giờ bạn cần chấp nhận sự thật rằng, những điều này đã thực sự làm tổn thương tâm hồn bạn. Một số người trong các bạn cũng đã hiển nhiên trở thành nạn nhân của sự ngược đãi về thể xác, tình dục hoặc tình cảm. Tại sao sự ngược đãi rõ ràng như vậy lại cần phải được thừa nhận? Thật kỳ lạ là càng bị bạo hành, bạn càng cho rằng mình xấu xa và lý tưởng hóa cha mẹ. Đó là kết quả của mối liên kết ảo tưởng mà tôi đã mô tả lúc trước. Tất cả trẻ em đều lý tưởng hóa cha mẹ và đây là cách để trẻ đảm bảo sự sinh tồn của mình. Tuy nhiên, khi đứa trẻ bị bạo hành lý tưởng hóa cha mẹ, trẻ chắc hẳn sẽ tin rằng bản thân mình phải chịu trách nhiệm về hành vi ngược đãi đó: “Bố mẹ đánh mình vì mình là một đứa trẻ hư; họ quan hệ tình dục với mình vì mình rất tồi tệ; họ la hét bởi vì mình rất không vâng lời. Tất cả là tại mình, không phải tại họ. Họ chẳng có lỗi gì hết”. Sự lý tưởng hóa cha mẹ này là biện pháp bảo vệ bản ngã cốt lõi và phải được xóa bỏ. Bố mẹ bạn không tệ; họ chỉ là những đứa trẻ bị tổn thương. Hãy tưởng tượng bạn được nuôi dưỡng bởi một đứa trẻ 3 tuổi nặng 90 kg, to gấp 5 lần so với bạn, hoặc một đứa trẻ 3 tuổi nặng 64 kg, lớn gấp 4 lần bạn thì “đứa trẻ bên trong” bạn có thể hiểu được. Bố mẹ của bạn đã làm những gì tốt nhất mà họ có thể, nhưng đó không phải là điều mà một đứa trẻ 3 tuổi hiểu được.

a5

Sốc và trầm cảm

Nếu tất cả những điều này khiến bạn bị sốc thì sẽ thật tuyệt vời, bởi vì cú sốc là khởi đầu của sự đau buồn, theo sau đó là trầm cảm và chối bỏ. Sự chối bỏ đẩy lùi chiếc khiên bảo vệ bản ngã của chúng ta. Nó thường xuất hiện dưới hình thức thương lượng. Chúng ta sẽ nói: “Chà, thực sự không tệ đến thế. Mình có cơm ăn ba bữa mỗi ngày và một mái nhà để ở là được rồi!”

Xin hãy tin tôi: Nó thực sự tồi tệ đấy. Bị tổn thương về tinh thần vì cha mẹ không cho phép được sống bằng con người thật của mình là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra với bạn. Tôi cá rằng khi bạn tức giận, họ sẽ nói: “Đừng bao giờ lớn giọng với tao!” Điều này khiến bạn học được rằng sống bằng con người thực sự của mình là việc không ổn, và tức giận lại càng không ổn. Sợ hãi, nỗi buồn và niềm vui cũng vậy. Thật không tốt đẹp chút nào khi nghĩ những gì bạn đã nghĩ, muốn những gì bạn đã muốn, cảm thấy những gì bạn đã cảm nhận hoặc tưởng tượng những gì bạn đã tưởng tượng. Có khi bạn đã không nên thấy điều bạn đã thấy, không nên ngửi thấy những mùi bạn đã hít phải. Trở nên khác biệt hay là chính mình đều không ổn. Việc chấp nhận và hiểu những gì tôi đang nói là để xác nhận và hợp pháp hóa vết thương tinh thần của bạn hay chính là “đứa trẻ bên trong” bị tổn thương của bạn.

Sự tức giận

Cảm giác tiếp theo thường xuất hiện khi đau buồn là tức giận. Đó là một phản ứng chính đáng cho tổn thương tinh thần. Mặc dù bố mẹ bạn cố gắng làm những gì tốt nhất có thể nhưng về cơ bản, ý định của họ không bao giờ phù hợp cả. Điều liên quan là những gì thực sự đã xảy ra. Hãy tưởng tượng rằng họ đang lùi xe vào chỗ đỗ và vô tình chèn lên chân bạn. Bạn đã phải đi khập khiễng trong suốt bao năm qua, và bạn chưa bao giờ biết lý do tại sao. Bạn có quyền biết những gì đã xảy ra với bạn không? Bạn có quyền bị tổn thương và đau đớn vì nó không? Câu trả lời cho cả hai câu hỏi trên hiển nhiên là có. Bạn có thể tức giận, ngay cả khi những gì họ đã làm với bạn là vô tình. Trên thực tế, bạn phải tức giận nếu bạn muốn chữa lành “đứa trẻ bên trong” bị tổn thương của mình. Tôi không có ý nói rằng bạn cần la hét và kêu gào (mặc dù bạn hoàn toàn có thể làm như thế), chỉ là việc bạn nổi giận trước một việc làm không đúng đắn là hoàn toàn bình thường. Tôi thậm chí không bắt bố mẹ tôi phải chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra với mình. Tôi hiểu họ đã làm điều tốt nhất mà hai người tuy lớn nhưng bên trong trẻ con có thể làm được, nhưng tôi cũng biết rằng tôi đã bị tổn thương tinh thần sâu sắc nên tôi phải nhận những hậu quả nghiêm trọng đến tính mạng của mình. Cá nhân tôi cho rằng tất cả chúng ta đều phải có trách nhiệm ngăn chặn những gì chúng ta đang làm đối với chính mình và với người khác. Tôi sẽ không dung thứ cho những rối loạn và ngược đãi rõ ràng đang chi phối môi trường gia đình của mình.

Nỗi đau đớn và buồn khổ

Sau tức giận sẽ là cảm giác tổn thương và buồn khổ. Nếu là nạn nhân, chúng ta phải đau buồn vì sự phản bội đó. Chúng ta cũng phải đau khổ về những gì có thể đã từng là ước mơ và khát vọng của mình. Chúng ta cần phải buồn chán khi những nhu cầu phát triển chưa được đáp ứng.

Cảm giác hối hận

Cảm giác hối hận thường xuất hiện sau nỗi đau đớn và buồn khổ. Chúng ta hay nói: “Giá như mọi thứ không như thế, có lẽ tôi đã có thể làm điều gì đó khác. Có lẽ nếu tôi yêu bố nhiều hơn và nói với bố rằng, tôi cần bố như thế nào thì bố đã không bỏ rơi tôi”. Khi tôi tư vấn cho các nạn nhân của hành vi loạn luân và ngược đãi về thể chất, tôi gần như không thể tin rằng họ lại cảm thấy tội lỗi và hối hận về hành vi xâm phạm xảy ra với mình, cứ như thể họ phải chịu trách nhiệm phần nào đó cho việc này vậy. Khi chúng ta đau buồn vì một người thân qua đời thì cảm giác hối hận đôi khi dễ hiểu hơn, chẳng hạn như chúng ta có thể ước mình đã dành nhiều thời gian hơn cho người đã khuất. Nhưng trong thời thơ ấu đau buồn vì bị bỏ rơi, bạn phải giúp “đứa trẻ bên trong” bị tổn thương của bạn thấy rằng nó không thể làm gì khác được. Nỗi đau của đứa trẻ ấy là bởi những gì đã xảy ra với nó chứ không phải do nó.

Cảm giác xấu hổ và cô đơn độc hại

Cảm giác cốt lõi sâu xa nhất của đau buồn là sự xấu hổ và cô đơn độc hại. Chúng ta hổ thẹn khi bị người khác bỏ rơi. Chúng ta cảm thấy mình thật tệ, như thể chúng ta là kẻ hư hỏng vậy. Rồi cảm giác hổ thẹn đó khiến chúng ta cô đơn. Vì “đứa trẻ bên trong” chúng ta cảm thấy sai trái và khiếm khuyết, nên nó phải che đậy con người thật bằng con người giả tạo đã thích nghi của mình. Sau đó, nó tự định dạng bản thân bằng bản thể giả dối khiến bản thể thật bị cô lập và đơn độc. Sống cùng cảm giác tổn thương cuối cùng này là phần khó khăn nhất của quá trình trải nghiệm cảm giác đau khổ. “Cách duy nhất để thoát khỏi nó chính là trải qua nó”, như chúng tôi thường nhắc đến trong trị liệu. Thật khó để sống với cảm giác xấu hổ và cô đơn đó nhưng khi chúng ta nắm bắt được những cảm xúc này, chúng ta sẽ tìm thấy lối ra. Chúng ta sẽ gặp được bản ngã thật đang ẩn mình. Bạn thấy đấy, bởi vì chúng ta đã che giấu nó với người khác nên chúng ta cũng ẩn giấu nó với chính mình. Khi nắm bắt được sự xấu hổ và cô đơn, chúng ta sẽ chạm vào con người thật nhất của mình.

CẢM NHẬN CÁC CẢM XÚC

Tất cả những cảm xúc này đều cần được cảm nhận. Chúng ta cần giậm chân và tức giận, cần thổn thức và òa khóc, cần sợ vã mồ hôi và run rẩy. Chúng ta cần thời gian để làm được những điều này. Phục hồi cảm giác là một quá trình chứ không phải là một sự kiện, nhưng tình trạng sẽ trở nên tốt hơn gần như ngay lập tức. Khi tiếp xúc được với “đứa trẻ bên trong”; khi nó biết rằng ở đó luôn có người và nó sẽ không phải tiếp tục đơn độc một mình nữa thì niềm vui và sự nhẹ nhõm sẽ xuất hiện ngay tức thì. Khoảng thời gian thực tế để trải nghiệm đau buồn ở mỗi người là khác nhau, không ai có thể nói chính xác quá trình đau buồn sẽ kéo dài bao lâu cả. Biết cách buông bỏ sự phòng thủ của bạn chính là chìa khóa. Trên thực tế, bạn không thể luôn luôn ở thế phòng thủ, luôn có những người và những nơi không an toàn trong khi bạn trải nghiệm nỗi đau thương của mình. Và sẽ có những lúc bạn cần đến sự trợ giúp.

Vì vậy, trình tự hoặc các giai đoạn của nỗi đau buồn sẽ lặp đi lặp lại. Có thể hôm nay bạn thấy rất hiệu quả nhưng ba hôm nữa bạn sẽ lại thấy bản thân mình suy giảm rất nhiều. Nhưng bạn hoàn toàn có thể tiếp tục tiến về phía trước và trải nghiệm hết các chu kỳ này. Việc cảm nhận các cảm xúc mang tính quyết định.Bạn không thể chữa lành những cảm xúc mà bạn không thể nhận biết được! Khi bạn trải qua cảm xúc cũ và cho phép bản thân ở đó vì “đứa trẻ bên trong” bạn, tác dụng chữa lành sẽ tự động phát huy. Điều quan trọng là bạn phải giữ cho mình thật an toàn khi giải quyết các vấn đề về cảm xúc. Tốt nhất bạn nên thực hiện việc này với một người hoặc một nhóm. Hãy chú ý đến cảnh báo mà tôi đã đưa ra ở đầu phần Hai. Hãy nhờ ai đó tham gia cùng để bạn có thể trò chuyện với họ sau khi thực hiện việc này. Đừng vội vàng. Bạn đã bị tê liệt và mắc kẹt rất lâu rồi nên bạn cũng cần rất nhiều thời gian để có thể chữa lành. Nếu bạn cảm thấy như đang bị choáng ngợp, hãy dừng lại ngay lập tức. Hãy để những gì bạn làm tích tụ dần. Nếu cảm giác choáng ngợp vẫn còn, hãy tìm kiếm sự giúp đỡ của một nhà trị liệu lành nghề.