“Cha tôi kỷ luật một cách tàn nhẫn, ai đó có thể nói ông hơi bị ám ảnh,” theo lời Benjamin Frank, ba mươi sáu tuổi, ngồi cạnh anh trai mình Sebastian, ba mươi chín tuổi, đang nhấm nháp bữa trưa pasta và những kỷ niệm vui buồn trong một khách sạn ở Mainz.
Anh em nhà Frank làm người đại diện và tuyển trạch viên cho Liverpool FC của Jürgen Klopp. Trước đó, họ làm công tác tư vấn cho Leicester City, nhà vô địch từng gây sửng sốt tại Premier League mùa giải 2015-16. Cả hai lớn lên ở Glarus, thị trấn êm đềm nằm trong một vùng thung lũng ở Thụy Sỹ, nơi có 12.000 người tôn sùng cha họ, Wolfgang Frank như một người anh hùng. Cựu tiền đạo Bundesliga (215 trận, 89 bàn thắng cho VfB Stuttgart, Eintracht Braunschweig, Borussia Dortmund và 1. FC Nürnberg) đã đưa gã tí hon địa phương FC Glarus lên Nationalliga B, giải hạng hai của Thụy Sỹ, lần đầu tiên trong lịch sử đội bóng với tư cách cầu thủ kiêm huấn luyện viên vào năm 1988.
Người cha Frank, hai anh em hồi tưởng, không cho thấy sự khác biệt giữa việc làm huấn luyện viên và làm cha. Cả hai vai trò cùng đọng lại một điều: trách nhiệm dạy dỗ. “Ông là người dị thường, theo cách tích cực,” Sebastian cho hay - một người đàn ông vô cùng tham vọng coi bóng đá không chỉ là những trận đấu và chiến thuật, mà là tất cả. Ngôi trường của cuộc đời.
Trong mùa giải cuối cùng chơi chuyên nghiệp, Wolfgang Frank đã có đủ tiêu chuẩn để hành nghề giáo viên, chuyên sâu về thể thao và tôn giáo. Cả hai bộ môn giúp ông thấm nhuần tư tưởng “không có điều gì là ngẫu nhiên, mọi thứ - kể cả những tổn thương, thất bại - xảy ra đều có nguyên do,” Benjamin Frank kể. Ông đau đáu trong việc truyền đi thông điệp đó, tín điều quan trọng nhất đến bất kỳ ai cần lắng nghe.
Hai cậu bé thường xuyên phải chịu đựng những buổi tập chạy trên băng và tuyết quanh thị trấn. Vài năm sau đó tại Hy Lạp, trong một kỳ nghỉ gia đình hiếm hoi mà lịch làm việc bận bịu của Wolfgang cho phép, hai anh em thiếu niên phải dậy từ 5 giờ sáng hằng ngày để chạy dọc bãi biển, rồi dùng bữa sáng kèm một nhúm thuốc vitamin bổ trợ. Sau đó là một phiên tập thể hình trước bữa trưa.
Tối muộn hoặc sáng sớm, chiếc máy fax tại nhà họ ở Glarus bắt đầu phát ra những tiếng bíp bíp. Là Frank đang gửi qua những trang giấy trong đó có vài cụm từ truyền động lực và lời khuyên, hoặc mấy kế hoạch tập luyện phức tạp, kèm đôi câu chúc may mắn và lời chào, từ cách đó hàng trăm ki-lô-mét, tại một trong mười lăm câu lạc bộ ông từng dẫn dắt trong sự nghiệp. “Cứ lúc nào bọn tôi gặp vấn đề ở trường hoặc trong việc chơi thể thao, một bản fax dài sẽ được gửi đến, khiến bọn tôi phấn khởi và nhận thấy ông đã thực sự để tâm đến vấn đề, từ một nơi xa xôi nào đó, theo cách riêng của mình,” Benjamin chia sẻ.
Khi còn là cầu thủ, Wolfgang bị mê hoặc bởi lối chơi của AC Milan dưới thời Arrigo Sacchi, đội bóng thống trị bóng đá châu Âu trong giai đoạn cuối những năm 1980 và đầu 1990 nhờ những chiến thuật tập thể mang tính cách mạng, một kiểu di chuyển mang tính đồng bộ bóp nghẹt các đối thủ bằng cách chiếm đoạt không gian và thời gian của họ. Ông đã nghiên cứu cách dịch chuyển thống nhất của các cầu thủ này trong những đoạn băng ghi hình vào lúc đêm muộn, đồng thời coi trọng tầm quan trọng của sự phục hồi, dinh dưỡng và đào tạo tâm lý ở thời điểm những chủ đề như vậy vẫn còn mơ hồ ở Đức. Ở Thụy Sỹ, ngược lại, sự thiếu hụt ngân sách cùng thế hệ cầu thủ nhỏ con hơn rất nhiều đã tạo điều kiện thuận lợi cho một cách tiếp cận cởi mở hơn. Phòng ngự khu vực - một hệ thống thay thế việc tập trung vào các tiền đạo đối phương bằng mối quan tâm căn bản là bảo vệ khoảng trống trước mặt khung thành và cướp bóng - đã được thừa nhận từ năm 1986, dưới sự bảo hộ của huấn luyện viên đội tuyển Thụy Sỹ Daniel Jeandupeux. Các huấn luyện viên ngoại quốc áp dụng những hiểu biết về hệ thống này vào câu lạc bộ của họ, vài đội tiếp tục chỉnh sửa theo ý riêng, cựu hậu vệ Andy Egli nhớ lại. Jeandupeux, Egli tin là vậy, lần đầu đụng độ với lối chơi này khi là cầu thủ chuyên nghiệp và huấn luyện viên tại Pháp.
Frank hiểu rằng sự cách tân về chiến thuật có thể là vũ khí của những đội bóng nhỏ trong cuộc chiến với những đội bóng lớn và chất lượng hơn; rằng những tư tưởng đúng đắn có thể nâng chất lượng lối chơi của đội nhà lên một cách rõ rệt.
Chiến tích phi thường với FC Glarus giúp ông được bổ nhiệm ở FC Aarau, đội bóng tỉnh lẻ chơi ở giải hạng nhất bằng chính thực lực của mình từng đạt được những thành tựu không thể ngờ dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên người Đức Ottmar Hitzfeld. Hitzfeld, sau đó vô địch Champions League với Borussia Dortmund và Bayern Munich, huấn luyện câu lạc bộ kém tên tuổi này tài tình đến mức tập thể của ông được biết đến với biệt danh “Đội bóng kỳ quan” trên các phương tiện truyền thông vào năm 1985. Họ về nhì ở giải vô địch quốc gia và giành Cúp Quốc gia Thụy Sỹ.
Frank, cũng xuất sắc không kém, đưa Aarau thẳng tiến đến trận chung kết Cúp Quốc gia Thụy Sỹ ngay ở nửa mùa giải đầu tiên (1989-90). Tuy nhiên, điều kỳ diệu vụt tắt khi những người Argovia bị đánh bại 2-1 bởi Grasshoppers Zürich của Hitzfeld ở Berne; và Frank rời khỏi đội một năm sau đó. Sau này ông còn thất bại trong việc ghi dấu ấn với những vai trò tương tự tại ứng cử viên xuống hạng FC Wettingen (1991-92) và đội hạng hai FC Winterhur (1992-93). Cầu thủ trụ cột và đội trưởng của Winterhur, một cách tình cờ, là tiền đạo kỳ cựu người Đức tên Joachim Löw. Huấn luyện viên đội tuyển Đức, khi đó mới ngoài ba mươi tuổi, có lần dám đứng ra bảo vệ đội bóng trước chỉ trích của Frank trong phòng thay đồ. Löw cũng từng thử lấn sân sang lĩnh vực thời trang: anh bán những mẫu cà vạt thửa trong cốp xe ô tô cho các đồng đội ở Winterhur.
Cuối cùng Frank cũng có một cơ hội, theo kiểu trớ trêu, để chứng tỏ bản thân ngay trên quê hương mình, vào tháng 1 năm 1994. Rot-Weiss Essen, đội bóng rất được mến mộ ở giải hạng Hai đến từ khu công nghiệp của nước Đức và thủ phủ bóng đá, vùng Ruhr, cần một huấn luyện viên mới sau khi Jürgen Röber bị VfB Stuttgart nhấc đi trong kỳ nghỉ đông. Tuy nhiên, trước khi kịp nhận trách nhiệm tại sân Georg-Melches-Stadion, Frank và đội bóng của ông đã bị rớt hạng. Liên đoàn Bóng đá Đức rút lại giấy phép hoạt động chuyên nghiệp của câu lạc bộ do những bất thường liên quan đến tài chính. Ngoài ra, Frank còn phải đối mặt với một cuộc nổi loạn trong phòng thay đồ trong ngày đầu nhận việc: đội trưởng Ingo Pickenäcker và đội phó Frank Kurth đồng loạt xin từ chức để phản đối việc họ không được tham vấn chọn người kế nhiệm Röber dù đã có cam kết trước từ ban lãnh đạo.
RWE hy vọng Liên đoàn Bóng đá Đức có thể tỏ ra đôi chút khoan dung trong đơn kháng án. Vị luật sư sắc sảo của câu lạc bộ, Reinhard Rauball (hiện đang là Chủ tịch của Borussia Dortmund), đã phát hiện ra rất nhiều sai sót về quy trình ở phía đại diện cho nhà chức trách bóng đá. Sửng sốt thay, các cầu thủ của Frank giành chiến thắng ở trận bán kết Cúp Quốc gia Đức trước Tennis Borussia (2-0) vào tháng 3 để đi đến trận chung kết ở Berlin, nhưng án phạt giáng xuống giải hạng Ba có hiệu lực đã được hội đồng phán xử xác nhận vài ngày sau đó. Tất cả những bàn thắng và điểm số của họ đều bị xóa bỏ.
Vào tháng 5, 35.000 cổ động viên Essen đổ bộ đến thủ đô nước Đức với tâm thế chống đối. Nhiều biểu ngữ công kích sự thiếu công bằng trong quyết định của Liên đoàn Bóng đá Đức. “Nếu ông trời có mắt, chúng tôi sẽ thắng trận này,” Frank nói. Bên dưới sân vận động Olympic, dù vậy, đội cửa trên Werder Bremen, được dẫn dắt bởi Otto Rehhagel, tỏ ra thờ ơ trước viễn cảnh bị quả báo từ đấng tối cao. Đội bóng đến từ phương Bắc, từng nâng cao danh hiệu Winners’ Cup nhờ đánh bại AS Monaco của Arsène Wenger với tỉ số 2-0 hai năm trước, giành chiến thắng dễ dàng tại Berlin. Kết quả chung cuộc: 3-1.
Nhiều thập kỷ sau mới lộ ra rằng đã có một âm mưu chính trị xấu xí tác động lên thất bại này. Cầu thủ Frank Kontny của RWE vẫn do dự khi tiết lộ câu chuyện mà ông gọi là “thời khắc tăm tối nhất trong sự nghiệp chơi bóng của tôi”. Cựu cầu thủ năm mươi hai tuổi là thủ quân của đội vào thời điểm đó và chắc chắn được xếp đá chính trận chung kết ở hàng thủ. “Nhưng vào buổi sáng hôm diễn ra trận đấu, Frank bảo rằng tôi bị loại khỏi đội, và tôi phải tìm đội mới nếu muốn tiếp tục chơi bóng,” ông cho hay. “Thế giới của tôi như đổ sụp ngày hôm đó. Tôi đã bị tước đoạt mất trận đấu lớn chưa từng có đó.”
Như nhiều cầu thủ RWE, Kontny phải làm việc bán thời gian ngoài đá bóng để nuôi sống gia đình trong giai đoạn phá sản của câu lạc bộ. Thành viên ban lãnh đạo Wolfgang Thulius sắp xếp cho ông một công việc làm nhân viên nhà đất. Sau khi câu lạc bộ lọt vào trận chung kết Cúp Quốc gia Đức hồi tháng Ba, những ông chủ mới nhảy vào và giành quyền kiểm soát ban lãnh đạo. Họ có vẻ đã gây áp lực bắt Frank phải cắt bỏ tất cả các mối liên hệ với chế độ cũ. Kontny: “Tôi nằm trong nhóm chống đối trong màn chia bè cánh này và thật không may, Frank đã ra một quyết định chưa từng có tiền lệ trong bóng đá.” Thay vào vị trí của Kontny, huấn luyện viên chọn Pickenäcker, người đã dính một chấn thương háng nghiêm trọng chỉ vài tuần trước đó và chưa thực sự sẵn sàng ra sân. Pickenäcker mắc lỗi trong hai bàn đầu tiên của Werder và bị thay ra bảy phút trước khi hiệp một kết thúc. Essen trấn tĩnh lại sau giờ nghỉ, gỡ lại được một bàn do công của Daoud Bangoura nhưng Wynton Rufer ấn định chiến thắng 3-1 cho Werder với một quả phạt đền ở cuối trận. “Tôi tin chắc trận đấu sẽ khác nếu tôi ở trên sân,” Kontny nói với vẻ buồn bã. “Tôi đã rất thất vọng với Frank, tôi nguyền rủa ông ấy. Ông ấy là một huấn luyện viên giỏi - luôn bảo chúng tôi phải liên tục học hỏi và nâng tầm bản thân, với những buổi tập kéo dài tới hai tiếng đồng hồ - nhưng giờ tôi nghĩ ông ấy sẽ nhận ra mình đã mắc một sai lầm lớn.”
Ba tuần sau trận chung kết đó, Rot-Weiss hành quân đến Mainz cho trận đấu áp chót của mùa giải. Một trận cầu hỗn loạn trên sân Bruchweg trước 3.000 khán giả với ba thẻ đỏ, hai dành cho đội khách, kết thúc với bàn gỡ hòa ở phút chín mươi do công của tiền vệ Zeljko Buvac bên phía 05 ấn định tỉ số 1-1 và về lý thuyết xác nhận quyền trụ hạng của đội chủ nhà.
Vào tháng 9 năm 1995, đội bóng có thâm niên vật lộn với cuộc chiến trụ hạng Mainz một lần nữa xếp cuối bảng 2. Bundesliga và đang tìm kiếm một cái tên mới trên ghế huấn luyện. Giám đốc Điều hành Christian Heidel liên hệ với Frank. “Giọt nước tràn ly”, báo địa phương Rhein-Zeitung đã ví von như vậy.
“Ông ấy đến và phán nhiều thứ nghe có vẻ rất hấp dẫn và thú vị,” Heidel nói với sự châm chọc hài hước. “Ông ấy có cử chỉ của một giáo viên. Tôi luôn cẩn trọng với những ai có phong cách nhà giáo, họ đôi khi không dễ làm việc cùng. Nhưng sau một lúc, tôi bảo: ‘Được rồi, sao ông không bắt tay vào việc đi nhỉ.’ Ngẫm lại, đó là một ngày trọng đại dành cho Mainz 05. Tôi muốn nói rằng tôi biết ngay ông ấy là một huấn luyện viên giỏi. Nhưng sự thật là, không một ai muốn dẫn dắt chúng tôi cả.”
Cả đội ấn tượng với phương pháp tập luyện mà họ thấy “khá phức tạp” (Heidel), nhưng bất chấp điều đó, họ vẫn tiếp tục thua trận. Mainz bước vào kỳ nghỉ đông với tư cách đội tệ nhất giải, với mười hai điểm trên bảng xếp hạng, năm điểm kém hơn so với nhóm an toàn. Heidel: “Tạp chí Kicker viết: ‘Cơ hội rớt hạng của Mainz: 100 phần trăm.’ Không phải 99 phần trăm, mà là 100 phần trăm. Tôi sẽ không bao giờ quên được điều đó.”
Frank gõ cửa phòng Heidel. “Ông ấy bảo: ‘Chúng ta cần thay đổi.’ Tôi nghĩ bụng, ‘Hở, ông nói lại câu nữa xem.’ Ông ấy chia sẻ với tôi những gì ông ấy nghĩ rồi quyết định đội sẽ đi tập huấn mùa đông và từ giờ sẽ không sử dụng trung vệ quét. Tôi tự nhủ: ‘Gì cơ? Ông có đang nghiêm túc không vậy?’”
Một đội bóng chuyên nghiệp không có một libero - trung vệ quét, “chốt chặn” phía sau hàng thủ, là điều vô cùng khó tưởng tượng trong giai đoạn giữa thập niên chín mươi tại Đức. Các câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia đã giành tất cả các danh hiệu lớn với một libero trong đội hình kể từ giai đoạn hoàng kim của Franz Beckenbauer vào những năm 1970. “Chúng tôi đều tin đội bóng cần một ai đó trong vai trò lá chắn trong trường hợp đối thủ vượt được qua hàng thủ,” Heidel lý giải. “Sao có thể không dùng trung vệ quét được? Không thể. Chính tôi cũng từng chơi ở vị trí trung vệ quét, nên tôi cảm thấy như thể ông ta đang cố gắng gạt tôi ra vậy, theo một cách nào đó.”
Cựu tuyển thủ Đức Hans Bongartz đã sử dụng một phiên bản hàng thủ bốn người dàn hàng ngang không có trung vệ quét ngay từ năm 1986 ở 1. FC Kaiserslautern - ông được truyền cảm hứng sau thất bại trước một IFK Göteborg đi trước thời đại về chiến thuật do Sven-Göran Eriksson dẫn dắt ở trận bán kết UEFA Cup năm 1982 - nhưng không tạo được ấn tượng lâu dài ở giải đấu cấp cao nhất nước Đức với sáng kiến của mình. Chủ tịch của FC Bayern khi đó, Beckenbauer tuyệt đối cấm Erich Ribbeck tiếp tục những thử nghiệm (phải thừa nhận là khá nghiệp dư) với bộ tứ vệ ở mùa giải 1993-94. Vài tuần sau khi Frank được bổ nhiệm tại Mainz, huấn luyện viên đội tuyển quốc gia Berti Vogts phát biểu trên tờ tin nhanh Blick của Thụy Sĩ rằng một hệ thống không có trung vệ quét là “phá hoại về mặt nguyên tắc” và do đó đương nhiên không nhận được sự chấp thuận tại Bundesliga.
Heidel: “Tôi đã nghĩ chúng tôi sẽ trở thành trò cười, tôi rất bi quan. Trong suốt những ngày tập huấn, tôi quyết phải xem xét kỹ lưỡng hơn. Trên sân tập có đầy những chiếc cột. Các cầu thủ nghĩ ‘lão này mất trí rồi’. Trong hàng giờ, họ chỉ chạy quanh mà không có bóng, họ tập cách di chuyển ngang sân theo đội hình. Ngày nay, hiển nhiên là một bên cánh sẽ bị bỏ trống khi bộ tứ vệ di chuyển về phía phần sân đang có bóng. Nhưng khi đội chơi trận đầu tiên trên sân nhà theo kiểu đó, cả sân la ó chúng tôi. Một tiền đạo đối phương hoàn toàn đơn độc bên cánh trái còn cả đội đang ở bên cánh phải. Thời đó không ai nhận thức được rằng trái bóng không thể được luân chuyển sang cánh trái nhanh đến vậy, rằng hàng thủ có đủ thời gian để di chuyển ngược lại. Phòng ngự khu vực định hướng bóng, cách gọi của lối chơi này, là thứ hoàn toàn mới lạ ở Đức. Một thứ phép thuật, về cơ bản là vậy. Chúng tôi lao vào luyện tập, luyện tập và luyện tập. Cơ mà tôi chắc chắn chúng tôi sẽ rớt hạng.”
Vào khoảng giữa những năm chín mươi, những buổi tập về cơ bản gồm hai kiểu: lao động (chạy rất nhiều) và giải trí (chơi bóng). Những bài tập về di chuyển tập thể hoặc nghiên cứu lý thuyết chưa từng được biết đến. Frank, ngược lại, bị “ám ảnh bởi chiến thuật”. Heidel nói: “Tôi chưa từng thấy bất cứ điều gì như vậy trước đây.” Vị huấn luyện viên dành nhiều giờ xem bóng đá, đặc biệt là bóng đá Italia. Sacchi là thần tượng của ông. “Ông ấy cho chúng tôi xem tất cả các trận đấu của ông trong những cuốn băng ghi hình, tôi luôn có mặt. ‘Giám đốc Điều hành phải ở đây,’ Frank nói. Vậy là tôi cũng phải xem mấy thứ vô bổ đó. Các đoạn phim đều chưa qua xử lý. Ông ấy dừng hình, tua lại, chạy băng rồi lại tua lại, hàng giờ liền. Ông ấy như mất trí vì những chiến thuật của Sacchi.”
Frank cũng ghé qua Italia để tận mắt chứng kiến những buổi tập của vị huấn luyện viên bậc thầy. “Sacchi không để tâm tới ông ấy, nhưng vẫn cho phép ông ấy quan sát từ đường biên,” Heidel kể. “Đó là lúc ông ấy bật ra ý tưởng. Ở Đức, chúng tôi còn chưa tiệm cận mức cấp tiến như vậy.”
Với giáo sư khoa học thể thao Dr Dieter Augustin đến từ Đại học Mainz, nơi nằm cách sân vận động một đoạn ngắn đi bộ, Frank đã gặp được một nhà lý luận bóng đá cùng chí hướng. Augustin thích lối chơi có tính liên kết vị trí sâu sắc hơn là cách đá theo trục dọc của FSV. Dù có những sự khác biệt về nhận thức, cả hai người họ đồng tình rằng các cầu thủ cần những sự hỗ trợ trực quan để nâng cao trình độ chơi bóng. Những học viên trong khóa của Augustin được yêu cầu ghép những đoạn băng hình ngắn của Mainz và các đối thủ để hỗ trợ việc chuẩn bị trước trận. Một ý tưởng đơn giản nhưng căn bản: các đội bóng Đức khi đó chưa có cả con người lẫn phương pháp để xử lý việc phân tích băng hình. Một trong những nhà khoa học thể thao trẻ tuổi đã tình nguyện tham gia thử nghiệm là Peter Krawietz. Anh sau này đã trở thành trưởng bộ phận tuyển trạch của Mainz và là trợ lý thân tín của Klopp.
“Những buổi xem băng hình của Frank vào lúc 7 giờ 30 phút sáng vô cùng đáng sợ,” cựu cầu thủ Torsten Lieberknecht của 05 cho hay. “Chúng tôi ngồi trên những cái ghế sân vườn làm bằng sắt trong một căn phòng bé tí và dùng bữa sáng, trong khi Wolfgang Frank ấn những cái nút trên đầu phát băng hình. Thời gian như kéo dài vô tận.”
Frank cũng tìm cảm hứng từ những ngày ông còn chơi bóng. Một năm trong màu áo AZ ở Alkmaar tại giải vô địch quốc gia Hà Lan vào mùa giải 1973-74 khiến ông sững sờ trước triết lý bóng đá tổng lực của Ajax. Khi trở lại Đức, tiền đạo mảnh khảnh có biệt danh Floh (Bọ chét) đã tái hợp với thầy cũ tại Stuttgart là Branco Zebec tại đội bóng mới lên hạng Eintracht Braunschweig. Zebec, huấn luyện viên người Nam Tư từng đưa Bayern Munich đến chức vô địch Bundesliga đầu tiên trong lịch sử vào năm 1969 với phương pháp rèn thể lực khắc nghiệt và kỷ luật chiến thuật đanh thép, là chiến lược gia đầu tiên thử nghiệm lối chơi phòng ngự khu vực ở giải đấu cao nhất nước Đức vào giai đoạn giữa những năm bảy mươi. Khi đó các đội vẫn chơi một kèm một nghiêm chỉnh. “Chúng tôi không còn chạy theo cầu thủ đối phương một cách ngớ ngẩn dưới thời Zebec, ông ấy là người đi trước thời đại,” Frank nhớ lại.
Hai mươi mốt năm sau, Mainz đang khao khát những sự thúc đẩy mang đậm dấu ấn tương lai giống như vậy. “Đội bóng chúng tôi thực tế đã đóng băng trong suốt kỳ nghỉ đông,” hậu vệ Klopp của Mainz trả lời tờ Süddeutsche Zeitung vào năm 1999. “Chúng tôi đón nhận những ý tưởng mới. Chúng tôi thậm chí sẽ leo một cái cây mười lăm lần cho giao kèo đổi lấy vài điểm số.” Frank ước tính sẽ cần 150 giờ đào tạo lý thuyết trước khi hệ thống mới được tiếp thu. Thay vì kiểu tập luyện thường lệ đậm tính giải trí mà các cầu thủ chuyên nghiệp Đức đã quen thuộc, họ dành nhiều ngày trọn vẹn không đụng đến bóng. “Nhưng rồi chúng tôi nghĩ: nếu Gullit và Van Basten phải học thứ này ở Milan, thì chúng tôi cũng có thể chịu đựng được nó,” Klopp sau này phát biểu trong một cuộc phỏng vấn cùng ông thầy trên tờ Frankfurter Rundschau vào năm 2007. “Phải thấy rằng đó là một quyết định dũng cảm tới mức nào. Trong bóng đá, để đưa những thứ mới lạ vào khuôn khổ cần rất nhiều thời gian. Wolfgang áp dụng sơ đồ bốn hậu vệ khi cuộc chiến trụ hạng khốc liệt đang diễn ra. Chúng tôi về cơ bản đang vướng trong một mớ hỗn độn trước khi ông ấy đến. Chúng tôi bám đuổi tất cả các đối thủ.” Frank, ông nhớ mình đã từng nghĩ rằng, đáng ra nên bảo cả đội “đi thi vật lý lượng tử chỉ với kiến thức về hàng thủ bốn người.”
“Thứ bóng đá tại Mainz khá bảo thủ, nhưng có một điều phải xảy đến. Thời gian đã chín muồi,” Frank giải thích. Đội bóng, theo lời Heidel, lúc đầu không hoàn toàn bị thuyết phục. “Họ không hiểu điều gì đang xảy ra với mình. Mấy kiểu chạy quanh không bóng. Sang trái, sang phải. Frank giải thích với tôi hàng tiếng đồng hồ trong một nhà hàng Italia về việc bớt đi một người ở hàng thủ có nghĩa là chúng tôi có thêm một người ở hàng tiền vệ. Rồi tôi nói: ‘Phải rồi, nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu có một gã đột nhập vào được vòng cấm?’ Ông ấy đáp: ‘Sẽ không có ai đột nhập được cả, không ai được phép.’ Ở phía trên, chúng tôi gây áp lực, buộc đối thủ phải chơi bóng dài. Hàng thủ chúng tôi có những gã khổng lồ như Klopp, 1,93 mét, thắng thế trong mọi pha chơi đầu. Đó là lối đá mới của chúng tôi. Đó là cách chúng tôi kết thúc đợt tập huấn.”
Trận giao hữu đầu tiên dùng sơ đồ mới chứng kiến họ đối đầu với đội hạng Ba 1. FC Saarbrücken, “một ‘gã nhà giàu’ đã bỏ rất xa những đội còn lại ở vị trí dẫn đầu tại giải đấu của họ và chắc chắn sẽ lên hạng,” Heidel nhớ lại. “Trận đấu diễn ra ở Frauenlautern, gần biên giới với nước Pháp, và tôi khá chắc là chúng tôi sẽ thủng lưới năm trái. Nhưng vào giờ nghỉ, chúng tôi dẫn 6-0. Tôi cứ nghĩ mình đang mơ. Họ tung ra sân đội hình xuất sắc nhất nhưng bế tắc trong việc chống lại chúng tôi. Họ hoàn toàn bị áp đảo. Đó là sự ra đời… sự tái sinh của Mainz 05 và sự ra đời của bộ tứ vệ. Chúng tôi là đội đầu tiên dùng sơ đồ đó, kết hợp với cách phòng ngự khu vực, định hướng bóng. Ralf Rangnick (huấn luyện viên của Ulm 1846) và Uwe Rapolder (huấn luyện viên của Waldhof Mannheim) đã áp dụng ngay sau đó.”
Cựu hậu vệ của Mainz là Jürgen Kramny chơi cho Saarbrücken ở trận đấu đó. “Tôi đã chứng kiến hàng thủ bốn người của Mainz ra đời,” anh cho hay. “Chúng tôi là một đội khá tốt tại giải hạng Ba còn Mainz đang đối mặt nguy cơ xuống hạng ở 2. Bundesliga. Nhưng chúng tôi không có cơ hội. Họ hủy diệt chúng tôi. Họ đá cho chúng tôi tối tăm mặt mũi.”
Jürgen Klopp, Peter Neustädter, Michael Müller và Uwe Stöver là bốn hậu vệ trong ngày hôm đó. “Sự kết hợp này hiệu quả đến mức chúng tôi không thay đổi bất kỳ điều gì trong mười tám tháng tiếp theo,” Klopp cho hay.
Frank mô tả chiến thuật của ông như một phiên bản nâng cao của trò bóng đá trẻ con: “Bóng đi đâu người theo đến đó. Mục tiêu là tạo ra sức mạnh về quân số để đoạt bóng, sau đó giãn ra, như duỗi một bàn tay đang nắm.” Cách chơi lạ thường đó biến Mainz trở thành đội bóng hay nhất Rückrunde (giai đoạn lượt về của mùa giải) của 2. Bundesliga. Họ giành ba mươi hai điểm, nhiều hơn bất kỳ đội nào khác trong hai hạng đấu cao nhất. “Đó là điều điên rồ, chưa từng có trong bóng đá chuyên nghiệp Đức,” Heidel mỉm cười.
Đối với Klopp, đó là “một sự khai sáng: tôi nhận ra rằng hệ thống này giúp chúng tôi đánh bại những đội bóng sở hữu dàn cầu thủ giỏi hơn. Ông ấy khiến thành quả của cả đội không bị lệ thuộc vào năng lực của các cầu thủ, trong một chừng mực nào đó. Từ trước đến giờ, chúng tôi vẫn nghĩ với tư cách đội yếu hơn, chúng tôi sẽ thua. Thế mạnh lớn của Frank là đưa ra được một chỉ dẫn súc tích.” Lao động chăm chỉ hoặc khát khao hơn so với đối thủ có thể bù đắp cho năng lực của kẻ yếu là điều đã được thừa nhận rộng rãi. Thế còn khái niệm về tập thể, dựa trên cách tận dụng không gian thì sao? Chưa ai ở nước Đức nghĩ đến khả năng nó có thể tạo ra sự khác biệt. “Lần đầu tiên tôi thấy thích thú với chiến thuật,” Heidel thừa nhận. “Thật chẳng ngờ chúng tôi có thể đánh bại những đội bóng giỏi hơn chúng tôi ở từng cá nhân, đơn giản bởi chúng tôi đã có một ý tưởng hiệu nghiệm.” Cả đội luyện tập “tới mức ngất xỉu”, ông nói thêm. “Cuối cùng, tất cả các cầu thủ đã thấm nhuần. Ngày nay, việc sở hữu những cầu thủ sáng dạ, thích nghi tốt là điều bình thường, nhưng vào thời kỳ đó, cần vài người có thể dẫn dắt những người khác. Kloppo, tất nhiên, là đầu não về chiến thuật của cả đội, kể cả khi lối chơi của cậu ấy không giống như thế. Cậu ấy là dạng cầu thủ thiên về sức mạnh, cảm xúc, thể chất, cậu ấy không phải kiểu thêu hoa dệt gấm. Nhưng cậu ấy là bộ não của đội bóng.”
“Tại Mainz, tôi lần đầu tiếp xúc với chiến thuật,” theo lời cựu tiền vệ FSV Christian Hock, người từng chơi cho đội trẻ Eintracht Frankfurt và đội một Borussia Mönchengladbach. “Chiến thuật không bao giờ được dạy tại Borussia. Mất rất lâu để học về một hệ thống, theo kiểu vô cùng xa lạ: phải cùng lúc vừa nhìn trái bóng vừa nhìn cầu thủ, liên tục như vậy. Nhiều năm sau, khi tôi học lấy bằng huấn luyện viên, có rất nhiều cựu cầu thủ gặp vấn đề thực sự trong việc tiếp thu về mặt lý thuyết khái niệm bộ tứ vệ. Nhờ Wolfgang Frank, tôi đã rất quen thuộc với nó.”
“Mục tiêu của Wolfgang là luôn luôn giúp cầu thủ chúng tôi học những điều mới mẻ,” Klopp cho hay. “Chúng tôi không được yêu cầu để gặp nhau và chơi bóng đá cho vui vào cuối tuần. Tất nhiên, đôi khi chúng tôi cũng phàn nàn sau mỗi buổi tập chiến thuật bốn tiếng liền, nhưng chúng tôi hiểu tại sao mình cần làm vậy.” Klopp nhớ Frank từng bảo các nhà báo địa phương đừng viết quá nhiều về bộ tứ vệ bởi ông biết mình sẽ rất mất công giải thích trong trường hợp thất bại. Sự phá cách này bị nhìn nhận với rất nhiều ngờ vực.
Bất chấp sự cải thiện rõ rệt trong những thành quả, nửa đầu tệ hại của mùa giải 1995-96 khiến khả năng trụ hạng vẫn bị bỏ ngỏ trước trận đấu cuối cùng của mùa giải, trên sân nhà trước VfL Bochum. Mainz phải thắng.
Phóng viên truyền hình Martin Quast nhớ về buổi tường thuật trận đấu: “Có 12.000 người trên sân Bruchweg, gần kín chỗ. Marco Weißhaupt ghi bàn sớm. Sau tám mươi ba phút cực kỳ căng thẳng, Mainz đã trụ hạng thành công. Trong khi tất cả đều ăn mừng điên dại với những cánh tay giơ cao, thì Wolfgang Frank đăm chiêu đi tới đi lui như một con hổ bị nhốt. Ông không biết phải làm gì. Tình huống này hoàn toàn xa lạ với ông. Hàng ngàn người mở hội như thể không có ngày mai. Còn Wolfgang Frank loạng quạng bước quanh sân, hoàn toàn thu mình, như thể có ai đó đang điều khiển ông từ xa.”
“Mọi người đều ăn mừng còn cha tôi như bị rút hết sức lực, không hé răng một lời và phải hứng chịu cơn đau đầu khủng khiếp,” Sebastian Frank cho hay. Wolfgang Frank là kiểu huấn luyện viên chạy 100 dặm một giờ nhưng có thể kẹt ở số mo trên đường biên, rực lửa bên trong nhưng lại không thể tìm được đầu ra cho khối năng lượng đó. “Ông không muốn làm trung tâm của sự chú ý,” Sebastian nói, “dầm mình trong sự tâng bốc không phải kiểu của ông.”
“Mùa giải sau đó, tất cả chúng tôi đều ở bên nhau. Và chưa ai biết cách đối phó với chúng tôi,” Heidel hồi tưởng. “Lần đầu tiên trong lịch sử của Mainz, chúng tôi bất ngờ cạnh tranh cho suất lên hạng Bundesliga.” “Chưa ai từng để tâm đến đội bóng này, họ đã bị bỏ lại trên hoang đảo trong hàng năm trời,” tờ Süddeutsche Zeitung viết vào tháng 10 năm 1996. “Nhưng bây giờ họ là đội bóng duy nhất ở giải hạng Hai sử dụng và thấu hiểu hàng thủ bốn người.” Đội bóng với biệt danh tự phong là Câu lạc bộ hội hè bỗng nhiên có quyền được tôn trọng và ngưỡng mộ bởi những ý tưởng cấp tiến. “Chúng tôi đột nhiên bị sự hưng phấn bóp nghẹt,” trích lời Chủ tịch Harald Strutz của 05. Cả thành phố khuấy đảo trong sự háo hức chưa từng có.
Và rồi 05 tiếp tục trên đà thắng lợi. Đội bóng của Frank bước vào kỳ nghỉ đông của mùa giải 1996-97 với vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng, chỉ xếp sau 1. FC Kaiserslautern của Otto Rehhagel, đội giành danh hiệu Meisterschaf một năm sau đó.
Nhưng với Frank, sự tiến triển diễn ra chưa đủ nhanh. Cùng vào thời điểm áp dụng những thay đổi căn bản lên chiến thuật của đội, vào tháng 1 năm 1996, ông khiến ban lãnh đạo sửng sốt với đề xuất muốn có một sân vận động đời mới, hoành tráng hơn cùng cơ sở vật chất dành cho tập luyện tân tiến hơn. Sân Bruchweg mới chỉ được lắp hệ thống chiếu sáng và một bảng tỉ số điện tử vài tháng trước đó.
“Ông ấy giảng giải rằng chúng tôi cần phải có ‘một tầm nhìn’ nếu muốn gặt hái thành quả, kiên quyết là vậy,” Strutz kể. “Ông ấy hỏi thẳng chúng tôi: ‘Một ngày nào đó các ông có muốn chơi ở Bundesliga không?’ Tôi không chắc đã có ai ở đây thực sự từng nghĩ về điều đó. Lúc đó chúng tôi vẫn đang đứng bét bảng 2. Bundesliga.” Tầm nhìn của Frank là cải tạo sân Bruchweg - cái tên (hiểu theo nghĩa đen là con đường đau khổ) “thật là hợp hoàn cảnh lúc đó,” Strutz thừa nhận - và ông còn đề xuất xây một bể tắm cùng một nhà xông hơi, cũng như làm lại mặt sân tốt hơn. “Wolfgang Frank là một con người khác thường, rất đặc biệt. Một con người đáng thán phục. Nhưng hơi thông thái, lý trí quá. Ông ấy xoay ban lãnh đạo Mainz như chong chóng với những đề xuất để tạo nền móng cho thành công bền vững. Tôi nhớ lúc ông ấy khăng khăng đòi làm bể tắm. Tất cả những gì Mainz có lúc bấy giờ là một cái bồn tắm cáu bẩn, chỗ người phụ trách trang phục thi thoảng vào giặt mấy đôi giày. Sau trận đấu, nơi đó chỉ dành cho đội trưởng, nên chẳng ai tắm rửa được. Frank trở nên cứng rắn. Mặt sân mới, các phòng thay đồ mới, “phòng họp báo không thể ở đây, chỗ trung tâm tòa nhà ấy, nơi đó dành cho các cầu thủ”, ông chỉ đạo. Sự tiến triển chậm chạp là bước lùi với ông ấy. Mọi thứ phải thay đổi với nhịp độ mạnh mẽ.
Khu VIP bé xíu nằm trong căn phòng cũng là chỗ ngồi của ban quản trị đã được cải tạo thành một phòng giải trí với vô số những chiếc ghế tựa dài cho các cầu thủ sử dụng trong tuần; đã có những bàn bạc về việc mời về một chuyên gia dinh dưỡng. “Ông ấy muốn cho những cầu thủ tiềm năng thấy rằng chúng tôi có đủ cơ sở vật chất để đào tạo họ đến nơi đến chốn. Điều đó rất quan trọng với ông ấy,” Strutz cho hay. “Và ông ấy ngạc nhiên về việc đám xe ủi không đến ngay ngày hôm sau để tiến hành việc sửa chữa.” “Ban lãnh đạo chắc nghĩ tôi là một thằng khờ,” Frank thừa nhận nhiều năm sau đó.
Trong tuyển tập về câu lạc bộ Karneval am Bruchweg, các phóng viên địa phương - Reinhard Rehberg và Christian Karn - viết rằng những cuộc đàm phán với chủ sở hữu sân vận động, hội đồng thành phố Mainz, tỏ ra hết sức ảm đạm. Các chính khách không nhìn thấy sức thuyết phục để chi ra số tiền lớn cho một câu lạc bộ chỉ có 3.000 - 5.000 người thường xuyên đi qua cửa soát vé.
Chẳng hề nao núng vì những vấn đề tế nhị đó, Frank tiếp tục vận động nội bộ cho tới khi Mainz có khoản kinh phí sẵn sàng cho phương án mở rộng sân ở mức khiêm tốn nhất. “Ông ấy không phải là một huấn luyện viên dễ dãi, càng không phải là một con người dễ dãi,” Strutz cho hay. “Ông ấy là kiểu người không mấy dễ chịu khi làm việc cùng, ít nhất là với tôi trên tư cách chủ tịch câu lạc bộ. Ông ấy có vô cùng nhiều động lực. Ông ấy muốn câu lạc bộ phát triển thật mau lẹ.”
Vào tháng 1 năm 1997, đội bóng không thuộc nhóm ứng viên lên hạng di chuyển đến Cyprus để chuẩn bị cho giai đoạn hai của mùa giải. Anh em nhà Frank cũng ở đó, với tư cách những cầu thủ trẻ. “Vài gã cầu thủ chuyên nghiệp cười chảy nước mắt khi thấy chúng tôi phải tham gia vào các bài tập nâng cao sức bền và khả năng chịu lực ở sân bên cạnh,” Benjamin nhớ lại. “Cha tôi bảo: “Đừng bận tâm người khác nghĩ gì, cứ làm việc của các con đi.” Bảy năm sau, vài tờ tin nhanh ở Đức và mấy tay bình luận viên ưa công kích cũng lên tiếng chế nhạo khi Jürgen Klinsmann áp dụng bài tập tương tự cho đội tuyển quốc gia dưới sự giám sát của những huấn luyện viên thể lực người Mỹ. Những bài tập này đã trở thành tiêu chuẩn rèn luyện ở cấp câu lạc bộ sau World Cup 2006.
Cuối khóa tập huấn mười ngày tại Cyprus, được tin về đợt tuyết mới ở Mainz, Frank ra lệnh rằng cả đội bóng nên ở lại thêm hai tuần nữa, để tận dụng điều kiện tập luyện hoàn hảo trên hòn đảo. Các cầu thủ tỏ ra kém hài lòng. Họ muốn về nhà với gia đình. Nhưng câu lạc bộ tỏ ra phục tùng vị huấn luyện viên đầu tiên mang về cho họ thứ tỏ ra là thành công đó tới mức chấp hành mọi mong muốn của ông. “Chúng tôi xếp nhì bảng. Mainz 05: THỨ HAI trên bảng xếp hạng,” Heidel nói lớn để gây chú ý. “Nếu Frank đề nghị: ngày mai, tháp nhà thờ nên được phá bỏ, thì chúng tôi sẽ trèo lên đó và đập cái tháp. Chúng tôi còn chưa bao giờ lên trên đó cả. Mọi thứ ông ấy nói đều ngay lập tức được thi hành.”
Sau kỳ tập huấn chắc chắn là dài nhất trong lịch sử bóng đá chuyên nghiệp Đức, Mainz trở về và thua trận đầu tiên trên sân nhà trước Hertha BSC với tỉ số 1-0. Họ thua luôn cả trận thứ hai, 3-0 trên sân khách trước VfB Leipzig. Và rồi họ mất luôn cả huấn luyện viên trưởng.
Heidel: “Tôi nán lại Leipzig vì phải tham dự một sự kiện. Ngày hôm sau, Frank gọi khi tôi đang ngồi trong taxi. ‘Christian này,’ ông ấy vào thẳng vấn đề, ‘tôi muốn bảo là cậu sắp phải tìm một huấn luyện viên mới rồi.’ Vậy nên tôi nghĩ, à, vào mùa hè. Bởi hợp đồng của ông ấy hết hạn sau mùa giải này. Nhưng rồi tôi chợt nhận ra ý ông ấy là bây giờ, ngay lập tức. Tôi đáp chuyến bay trở lại Mainz, và bốn nhà báo đang đợi ở sân vận động. Như vậy là nhiều, ở tầm của đội tôi. Ông ấy đã nói với tất cả bọn họ rằng ông ấy sẽ ra đi. Chỉ vậy thôi.”
Frank đã dành cả chặng đường về từ Leipzig để nghiền ngẫm lý do cho hai thất bại. Không hiểu sao, ông kết luận rằng chính bản thân mình là nguyên nhân. Heidel mô tả việc Frank từ chức như một Kurzschlussreaktion, phản ứng cảm tính. Thậm chí ngay cả Jürgen Klopp, người bạn tâm giao của huấn luyện viên này trong phòng thay đồ, cũng không thể thay đổi được ý định của ông.
Kế nhiệm Frank là một người đàn ông tên Reinhard Saftig. Một nhà điều hành dày dạn, sở hữu bộ ria mép rậm với kinh nghiệm ở Bundesliga (Dortmund, Leverkusen) và Thổ Nhĩ Kỳ (Kocaelispor, Galatasaray), một phương án an toàn. Hoặc Heidel nghĩ vậy. “Ký hợp đồng với ông ta thực sự là một trong những ‘thành tựu’ của tôi,” ông nhăn mặt. “Saftig chẳng biết gì cả. Tôi phải nói thật. Ông ta không hiểu gì về bóng đá. Tất nhiên chúng tôi không được lên hạng. Mọi thứ rối tung ở ngày cuối cùng của mùa giải, tại Wolfsburg. Chúng tôi thua 4-5, thế là Wolfsburg chiếm suất lên hạng của chúng tôi. Một trận đấu huyền thoại, với một Jürgen Klopp vĩ đại.” Chơi ở vị trí hậu vệ phải, Klopp góp một bàn thắng trong bối cảnh đội khách vùng lên trong thế mười người và bị dẫn 3-1 để gỡ hòa, nhưng anh cũng là người đã mắc lỗi tai hại dẫn đến thất bại của Mainz. Cuộc đối đầu này có tính chất như một trận play-off lên hạng.
Frank, khi đó, đã chuyển tới dẫn dắt FK Austria Wien. Benjamin nhớ lại lúc ở trong xe cùng ông bố trên đường ra sân bay. “Ông gần như không nói gì. Tất cả những gì ông làm là học thuộc lòng tên của các cầu thủ người Áo. Ông muốn nhận biết tất cả bọn họ trước buổi tập đầu tiên.”
Đội bóng của thành Vienna, một tập thể lính đánh thuê trình độ trung bình bao gồm tuyển thủ người Bulgaria có bộ râu tóc rậm rạp khó tin - Trifon Ivanov, cũng hoang mang về hệ thống của Frank không kém gì Saftig tại Mainz, nơi cả đội vẫn tin vào phương pháp từ người tiền nhiệm của ông. Họ có nhiều nỗ lực để quay về với hàng thủ ba người khi việc dùng tân binh Kramny cho vị trí trung vệ quét tỏ ra tai hại.
Saftig thích nhậu với các cầu thủ vào đêm trước ngày diễn ra trận đấu. “Những trụ cột như Jürgen Klopp rất sợ mấy lời rủ rê kiểu vậy. Saftig nát rượu và sung sức.”
Sau năm tháng ở Bruchweg, Saftig bị thay thế bởi huấn luyện viên người Áo Dietmar Constantini. Ông này từng làm trợ lý cho huấn luyện viên huyền thoại Ernst Happel và có lần đã giải thích với cánh nhà báo địa phương đang rối trí rằng lối chơi pressing của Mainz được mô phỏng theo “hình dáng của chiếc kèn túi”. Trên thực tế, điều này có nghĩa là áp dụng lý thuyết hàng thủ bốn người của Frank, kèm một thay đổi quan trọng: có một trung vệ quét phía sau họ, như vai trò của Kramny. Heidel: “Vậy là chúng tôi có bốn cầu thủ dàn ngang ở hàng thủ kèm thêm một trung vệ quét phía sau. Kloppo tỏ ra quẫn trí vì kiểu sơ đồ này. Chúng tôi có mối quan hệ được xây dựng trên sự tín nhiệm. Cậu ấy đến chỗ tôi và nói: ‘Huấn luyện viên không hiểu tí gì về chiến thuật cả. Chúng ta không thể chơi kiểu vậy được. Hàng thủ bốn người kèm một trung vệ quét…’ Đó là lúc tôi nhận thấy một ngày nào đó cậu ấy có thể trở thành một huấn luyện viên bằng chính năng lực của mình.”
Constantini không thua nhiều trận. Nhưng ông cũng không thắng nhiều, chỉ bốn trên tổng số mười tám trận. “Vua của những trận hòa,” tờ Allgemeine Zeitung đặt biệt danh cho ông. Trận đấu cuối cùng của Constantini, thất bại 1-3 trên sân nhà trước SG Wattenscheid 09 (đội có Souleyman Sané, cha của tuyển thủ Đức Leroy Sané, trên hàng công) vào đầu tháng 4 năm 1998, khiến Mainz lại rơi vào khu vực xuống hạng. “Những người đến sau Frank đều không đặt niềm tin vào bộ tứ vệ,” Kramny cho hay. “Họ bảo các cầu thủ trong đội quá chậm chạp để chơi trong hệ thống ấy và thay vào đó nghĩ ra đủ kiểu sơ đồ điên rồ. Nhưng đội bóng không chấp thuận quan điểm của họ, các cầu thủ vẫn tin vào hệ thống của Frank. Điều đó lý giải tại sao không kiểu chiến thuật nào khác hợp với chúng tôi.”
Constantini thú nhận với Heidel rằng ông không thể gắn kết phòng thay đồ. Vị giám đốc điều hành của Mainz nén sĩ diện và gọi cho huấn luyện viên duy nhất mà ông tin là có thể đưa đội bóng trở lại mạch thắng: Frank. Giao kèo của ông với Vienna đang đi đến hồi kết, cả hai phía đều đã đạt thỏa thuận chấm dứt vào cuối mùa giải. Sau khi Heidel gọi đến, nài nỉ tới tận 3 giờ sáng, Frank ngay lập tức rời vị trí để quay về quá khứ và lần thứ hai cứu Mainz khỏi nguy cơ rớt hạng. Ông giành chiến thắng ngay trận đầu tiên với tỉ số 2-1 trên sân của Stuttgarter Kickers, nhờ thổi vào một luồng hy vọng đúng lúc. “Ông ấy bùng nổ trong sự phấn khích,” Klopp nói trước máy quay sau tiếng còi chung cuộc. “Nếu ai đó có thể thu về những chuyển biến chỉ sau ba ngày, đó chính là ông ấy.” Mainz cán đích ở vị trí thứ mười.
Cả đội hài lòng khi lại được chơi trong hệ thống mà họ thấy thoải mái nhất. Khôi phục xong bộ tứ vệ dàn hàng ngang và lối chơi phòng ngự khu vực, Frank dời sự tập trung của mình sang việc chinh phục một nơi hoàn toàn khác biệt: bộ não của các cầu thủ.
“Ông ấy coi việc luyện trí lực cho đội bóng là một nhiệm vụ,” Strutz cho hay. “Ông ấy đi rất sâu vào mảng này, với việc áp dụng phương pháp đào tạo tâm lý và kỹ thuật giảm stress. Ông ấy còn mời về một chuyên gia trong lĩnh vực giảm căng thẳng tâm lý, sau chúng tôi mới biết người này trước từng làm lái tàu. Ông ta đã nhảy qua vài công việc.”
Strutz, một cựu vận động viên nhảy ba bước từng giành huy chương Bạc ở giải vô địch toàn nước Đức vào các năm 1969 và 1970, cảm thấy mình có một phần trách nhiệm trong chuyến du hành của Frank vào nơi tâm trí nội tại đầy lạ lẫm. “Tôi tặng ông ấy một cuốn sách, Die Macht der Motivation (Sức mạnh của động lực), viết bởi Nikolaus B. Enkelmann, mà chính tôi được tặng nhân dịp Giáng sinh, bởi tôi nghĩ ông ấy có thể sẽ thích nó. Nhưng ông ấy đã toàn tâm toàn ý theo đuổi cách tiếp cận tâm lý đó đến mức nó đã hoàn toàn thay đổi cuộc đời ông ấy. Đào sâu đến giai đoạn những bài tập thở và việc lặp lại những câu thần chú. Chuyện này trở nên rất bí hiểm.”
Nhà Frank chất đầy những đầu sách và băng hình của Enkelmann, các con ông cho biết. Mỗi sáng, ông thức dậy và thực hành bài tập phát ngôn. Những mẩu giấy nhớ nhỏ ghi các mệnh đề ám thị được dính vào gương nhà tắm, kiểu như: “Tôi sẽ khỏe khoắn và mạnh mẽ hơn mỗi ngày”, v.v.. “Ai không thân với cha tôi sẽ cho rằng ông đôi khi hơi kỳ cục và lập dị,” Benjamin thừa nhận. Ở đợt tập huấn mùa đông năm 1998, lại được tổ chức ở Cyprus, các cầu thủ Mainz đã được hướng dẫn cách trị liệu lời nói, luyện dây thanh đới bằng cách hô to lặp đi lặp lại những nguyên âm. Đội Greuther Fürth bị chọc cười khi tình cờ ở cùng khách sạn và nghe thấy những tiếng hô “aaaaaa”, “oooooo” từ phòng ăn. Thủ môn người Áo Herbert Ilsanker có lần để ý thấy Frank thực hiện một cuộc phỏng vấn trong phòng xông hơi của đội. Một nơi lạ lùng cho việc này, anh nghĩ. Nhưng thậm chí còn lạ hơn nữa, Frank ngồi một mình trong phòng xông hơi, tự phỏng vấn mình - để luyện tập cách nói chuyện với đội bóng. “Tông giọng của ông ấy không bao giờ bị một màu. Khi ông ấy nói với bạn, bạn sẽ nhận ra,” Ilsanker kể trên tờ Allgemeine Zeitung. Và Frank nói rất nhiều. Những buổi họp đội trung bình kéo dài cả tiếng đồng hồ, và được lên lịch từng ngày một. “Mọi thứ rất ít khi vượt ngoài tầm kiểm soát, vài người cho là vậy,” Klopp nói. “Những cầu thủ bỏ học từ khá sớm nay bỗng đọc sách trên xe buýt về những chủ đề mà tôi thậm chí không lĩnh hội được.”
Strutz: “Ưu tiên của chúng tôi thay đổi một chút. Frank muốn trau dồi các cầu thủ bằng cách trao cho họ ‘sự vững vàng trong cá tính’, ông ấy muốn cho họ thấy rằng điều này còn quan trọng hơn cả những mảng miếng chiến thuật hay cách di chuyển, rằng họ có thể đánh bại đối thủ bằng sức mạnh của trí óc.” Sau đó, khi dẫn dắt Kickers Offenbach, Frank đặt một quả bóng bàn lên miệng một cái chai và yêu cầu các cầu thủ của mình tập trung búng nó bay đi xa nhất có thể. “Làm sao có thể tối đa hóa tiềm năng tinh thần của mình? Đó là một trong những vấn đề quyết định,” ông chia sẻ với tờ Frankfurter Rundschau. Khi đó chỉ có một số ít người tin ông, nhưng ngày nay nhiều huấn luyện viên hàng đầu chắc chắn rằng đào tạo nhận thức và tìm cách rút ngắn thời gian phản xạ là vấn đề sống còn để tư duy của các cầu thủ bắt kịp được với kiểu trận đấu càng ngày càng nhanh. “Để thể hiện tốt hơn nhờ khả năng hiểu vấn đề nhanh hơn, phân tích nhanh hơn, quyết định nhanh hơn và hành động nhanh hơn,” theo lời Ralf Rangnick.
Ông là người chấp hành kỷ luật nhưng cũng là một nhà ngoại giao, Sebastian nhớ lại, rất khác so với những kiểu huấn luyện viên thiết quân luật đang chiếm ưu thế ở môn thể thao này thời kỳ đó. “Cách ông ấy đối xử với các cầu thủ của đội khiến chúng tôi nhận ra: A, coi này, một thái độ khác,” Klopp nói trên tờ Frankfurter Rundschau vào năm 2007. “Ông ấy đặt tính nhân văn vào trung tâm. Chúng tôi thực sự yêu quý ông ấy. Khi thua trận, chúng tôi có hai vấn đề. Thứ nhất, là việc chúng tôi để thua. Thứ hai, là việc chúng tôi khiến Wolfgang thất vọng. Điều này khá quan trọng với chúng tôi. Cách ông ấy khiến cả đội ủng hộ mình thật khác thường.”
Klopp và Frank có đôi lần tranh cãi, nhưng chỉ có một lần họ giận dỗi nhau. Trong một lần đi tập huấn, Klopp từng thú nhận với vị huấn luyện viên rằng anh thấy như thể ông đang “đổ thêm một xô nước vào cái cốc đã đầy tràn”, và rằng nhiều cầu thủ khác cũng cảm nhận như vậy. Frank cảm thấy bị sỉ nhục và Klopp lo lắng trước viễn cảnh phải ra đường (“cả đêm tôi không ngủ nổi”). Nhưng ngày hôm sau, mọi việc diễn ra như bình thường. “Tôi nói chuyện với các cầu thủ theo cái cách tôi muốn các huấn luyện viên nói chuyện với tôi,” Frank chia sẻ về phương pháp quản lý của ông.
Nhưng có lẽ ông không phải lúc nào cũng đi đúng hướng. “Frank là người có tính tình rất đặc biệt,” Strutz cho hay. “Ông ấy có thể là một huấn luyện viên tuyệt vời nếu thoải mái hơn một chút. Không như Jürgen Klopp sau này, ông ấy quá nghiêm túc. Và ông ấy không thực sự hiểu rằng các cầu thủ trẻ đôi khi muốn giải trí và uống chút bia, họ không muốn bị bó buộc.”
Hai cậu con trai của ông lại vẽ lên một bức tranh nhiều sắc thái hơn. Ở nhà, theo họ kể, Frank có khi rất vui tính, rất ấm áp. Nhưng ông không thích sự nổi bật, không phải là kiểu người dám trèo hàng rào đằng trước nhà. “Cha tôi”, Sebastian nói, “lạc lối trong cuộc đời của một huấn luyện viên bóng đá. Tôi không chắc ông biết giá một ổ bánh mì. Đôi khi ông còn thấy khó để sống một cuộc đời bình thường. Những ngày làm việc của ông bắt đầu từ bảy giờ với bữa sáng ở câu lạc bộ và kết thúc sau nửa đêm. Cha đẩy mình đến giới hạn; ông muốn cho các cầu thủ của mình nhận thấy mức độ tận tụy đó.”
Frank sưu tầm bất cứ thứ gì ông xem là hữu ích cho công việc. Ông cắt những mẩu báo chí, lưu trữ chế độ tập luyện và sắp xếp vào những tập hồ sơ lớn. “Ông nhúng tay vào mọi việc,” Benjamin Frank cho hay. Như nhiều người tham công tiếc việc, ông có cảm giác không thể ủy thác cho ai đó. Ông muốn điều hành tổng thể hoặc ít nhất cần hiểu về mọi việc đang diễn ra, tới từng chi tiết. Thường thường, ở nhà hay có tranh cãi, do ông lại đem cho khoản tiền thưởng thắng trận - khoản thu nhập phụ thêm vào đồng lương khiêm tốn của ông, đến những người quản sân hoặc ai đó ở câu lạc bộ, vì cho rằng họ cũng quan trọng như những tiền đạo hay hậu vệ của đội bóng. Frank coi một câu lạc bộ bóng đá là một tổ chức lớn, không phải một công ty được tạo nên từ nhiều phòng ban ít liên quan đến nhau.
Cảm xúc của ông dưới tư cách huấn luyện viên là hoàn toàn hướng nội. Một lần, ông tỏ ra thất vọng và bực bội đến mức tự tay dọn tất cả đồ đạc trong văn phòng của mình ra bên ngoài. Mainz đã phải giả vờ với mọi người rằng họ đang sửa chữa và sơn lại căn phòng. Lý do cho cơn giận dữ của Frank không phải do tranh cãi với các quan chức của câu lạc bộ hay các cầu thủ. Không, do đội bóng của ông thua một trận đấu cúp trên sân khách trước Bayern Munich. “Đó là kiểu hành xử của cha tôi,” Sebastian Frank gật đầu. “Ông chắc chắn rằng một Mainz nhỏ bé lão luyện có thể thắng ở Munich nếu họ chơi bóng ở giới hạn cao nhất và có thể cầm hòa được Bayern trong một ngày xấu trời. (Klopp, một cách tình cờ, dự khán thất bại 3-0 này trên khán đài của sân Olympic, do bị truất quyền thi đấu ở vòng trước sau một pha triệt hạ tiền đạo người Iran Ali Daei của Hertha BSC. Sau khi hậu vệ này bị đuổi, một cầu thủ khác của Mainz, Marcio Rodriguez, cũng nhận thẻ đỏ bởi một pha ăn mừng bàn thắng quá khích. Khi trận đấu kết thúc, cầu thủ người Brazil không để ý Klopp đang trong nhà vệ sinh ở phòng thay đồ và vô tình nhốt đồng đội của mình.)
Dưới sự dẫn dắt của Frank, 05 một lần nữa đạt được những thành tựu to lớn hơn nhiều so với hầu bao bé nhỏ của đội. Họ về đích thứ bảy ở mùa 1998-99 và thứ chín một năm sau đó. Nhưng người đàn ông đã “đánh thức Mainz đang say ngủ”, như tờ Süddeutsche Zeitung nhìn nhận nhiều năm sau này, một lần nữa tỏ ra thiếu kiên nhẫn. Ông muốn hành nghề tại Bundesliga, và tin rằng MSV Duisburg, đội bóng với biệt danh Những chú ngựa vằn, sẽ mang tới một cơ hội tốt hơn để được công nhận ở đẳng cấp cao nhất. Nhưng vụ chuyển nhượng của ông từ vùng Ruhr đến câu lạc bộ truyền thống tầm trung này lại phản tác dụng. Frank bị sa thải khi mùa giải mới của 2. Bundesliga khởi tranh được bốn tháng, với việc đội bóng ngấp nghé khu vực xuống hạng. “Ngay từ đầu phương pháp của ông ấy gặp phải sự cự tuyệt từ số đông cầu thủ của đội,” tờ Rhein-Post ghi lại. Bên cạnh nhiều hoạt động khác, ông từng yêu cầu các cầu thủ của mình ôm những cái cây trong một buổi chạy bền xuyên rừng.
Nhiệm kỳ tiếp theo của ông, tại SpVgg Unterhaching, tỏ ra thành công hơn - ông đưa một đội bóng từng chơi ở hạng đấu cao nhất, có trụ sở ở ngoại ô Munich, từ hạng Ba lên 2. Bundesliga - nhưng bị sa thải một năm sau đó. Một chiến dịch với SSC Farul Constanța ở Romania đâm vào một con đường cụt khác. Danh sách chủ quản sau đó của ông đọc lên giống một bảng danh vọng của những đội bóng kiệt quệ ở giải hạng dưới và các câu lạc bộ chuyên hứng chịu những giấc mơ dang dở và những nỗi thất vọng thay vì điểm số: FC Sachsen Leipzig (giờ đã giải thể), Kickers Offenbach, Wuppertaler SV, SV Wehen Wiesbaden, FC Carl Zeiss Jena, KAS Eupen (Bỉ). Không đội nào trong số này thực sự hợp với ông.
Frank sau đó từng thú nhận rằng ông có lẽ đã tiếp quản quá nhiều câu lạc bộ trong sự nghiệp của mình. “Lẽ ra đã ổn hơn rất nhiều nếu ông chịu chờ đợi một đề nghị hợp lý. Nhưng viễn cảnh thất nghiệp, không thể mang tất cả những gì mình biết vào công việc, khiến ông sợ hãi,” Sebastian Frank chia sẻ. “Ông cũng mang theo nỗi sợ bị lãng quên và bị đánh giá thấp nếu ẩn mình quá lâu. Cha chúng tôi thường nghĩ về những gì có thể xảy ra, liệu hành trình này có thể đưa ông đến đâu.” Một lần, Werder Bremen ngỏ lời, nhưng Frank lại tự tin rằng ông sẽ tìm thấy niềm vui tại Áo vào thời điểm ấy. Điều tương tự lại xảy đến với Hansa Rostock vài năm sau đó.
“Cha chúng tôi sở hữu kho kiến thức khổng lồ và những ý tưởng có tầm nhìn,” Benjamin Frank nói thêm. “Ông tạo ấn tượng là người tự tin, nhưng cũng luôn âm thầm ngờ vực bản thân, khi nói về thành quả và ảnh hưởng của ông lên đội bóng. Với tư cách một huấn luyện viên, ông vẫn chưa được toại nguyện.”
“Ông ấy gần như chưa bao giờ nâng được sự nghiệp của mình bật hẳn lên do sở hữu một cá tính gai góc,” Heidel cho hay. “Tôi là người duy nhất hợp tính ông ấy. Chúng tôi khá thân, cho tới một lần cãi nhau to. Sau khi ông ấy chia tay chúng tôi lần thứ hai, đến Duisburg, chúng tôi không chuyện trò gì với nhau trong vòng hai năm. Ông ấy luôn nghĩ mình có thể tìm được điều gì đó tốt hơn.”
Nhưng không bên nào làm được điều đó. Vào thời khắc chuyển giao của thiên niên kỷ, hệ thống gây chấn động của Frank vẫn tỏ ra cấp tiến so với trình độ của bóng đá Đức đến mức những huấn luyện viên sau này của Mainz gần như không biết cách vận hành nó thế nào. “Về mặt chiến thuật, đội bóng giỏi hơn các huấn luyện viên,” Klopp cho hay. Đội tuyển quốc gia và đa số các đội bóng ở cấp câu lạc bộ vẫn tuyệt đối trung thành với hệ thống có trung vệ quét. Heidel: “Ở Mainz, một nửa số cầu thủ biết cách chơi với hàng thủ bốn người, và nửa còn lại mù tịt. Và các huấn luyện viên không hiểu tại sao. Chúng tôi từng bổ nhiệm bất cứ ai tình cờ có bộ quần áo thể thao trong tủ đồ lên ghế huấn luyện. Nhưng không ai có thể giảng giải cho các cầu thủ những gì họ được Wolfgang dạy. Chúng tôi về cơ bản đã xong đời vào mùa đông năm 2001. Kết thúc hẳn. Tôi nói với Kloppo: ‘Cậu sáng dạ, cậu có khả năng ăn nói, cậu hiểu lối chơi của đội. Cậu có muốn cân nhắc vị trí này nếu có thể vực dậy đội?’ Trong vòng hai tuần, cậu ấy giải quyết xong.”
Klopp và Frank từng có những cuộc thảo luận kéo dài về bóng đá và nghệ thuật huấn luyện, theo lời Benjamin Frank. “Klopp luôn đặt ra những câu hỏi, anh ấy muốn biết mục đích của các bài tập riêng biệt. Cha khuyên anh ấy nên ghi chép mọi thứ: những bài nói chuyện với đội, các dạng chiến thuật, những buổi tập, các ý tưởng cho lối chơi. Ông có cảm nhận rằng một ngày nào đó Klopp sẽ tận dụng được những điều này. Cha chúng tôi chắc chắn là nguồn cảm hứng đằng sau việc anh ấy trở thành một huấn luyện viên.”
Trong ngày hậu vệ có dáng vẻ mảnh khảnh được thăng chức lên làm cầu thủ kiêm huấn luyện viên, Mainz trở thành câu lạc bộ có tiếng đầu tiên ở Đức làm điều trái khoáy này. Bắt nguồn từ Klopp, các huấn luyện viên giờ được lựa chọn để ăn khớp với đội ngũ và một lối chơi cụ thể, chứ không phải điều ngược lại. “Chúng tôi không cần một huấn luyện viên giảng giải cho chúng tôi ý tưởng của anh ta, chúng tôi muốn đưa ra một khái niệm rồi sau đó tìm người phù hợp cho nó,” Heidel lý giải. “Điều đó trở thành kim chỉ nam cho cách chúng tôi vận hành đội bóng, cho tới khi tôi rời đi vào năm 2016. Tất cả khởi nguồn từ năm đầu tiên với Wolfgang Frank, năm đầu tiên trong bất kỳ thành công nào chúng tôi có được. Khi đó chúng tôi hiểu rằng chiến thuật có thể đưa chúng tôi đến một tầm nào đó, thậm chí với từng cá nhân các cầu thủ có trình độ thấp hơn. Mainz của hiện tại cũng như vậy.”
Cách làm thận trọng dành cho FSV, ông nói thêm, cũng hợp lý để áp dụng với những đội bóng có tiềm lực tài chính mạnh hơn. “Không thể thay toàn bộ cách tổ chức và đội ngũ mỗi khi đổi huấn luyện viên, sẽ chẳng bao giờ tìm được sự ổn định theo cách đó.” Ông đề cập đến Hamburger SV, một trong những gã khổng lồ của Bundesliga trong những năm bảy mươi và tám mươi, giờ vẫn giậm chân tại chỗ vì thiếu một tư duy toàn diện.
Giống hệt một nhà tiên tri luôn luôn xáo động, dễ tổn thương trước đó, Frank chỉ được phép nhìn lướt qua miền đất hứa của mình: sự thiếu kiên nhẫn đã cản lối vào của ông. Nhưng ít nhất ông đã có thể chứng kiến những cận thần của mình - trong đó có đệ tử ruột Jürgen Klopp, và một số đông các cựu cầu thủ khác như Joachim Löw, Torsten Lieberknecht, Jürgen Kramny, Peter Neustädter, Christian Hock, Stephan Kuhnert, Lars Schmidt, Sandro Schwarz, Sven Demandt và Uwe Stöver - trợ giúp việc đưa những nét chiến thuật bóng đá của người Đức ra ánh sáng dưới tư cách những huấn luyện viên.
“Ông sẽ bảo bọn tôi: Khi tất cả các cậu trở thành huấn luyện viên, nhớ quay về và kể cho tôi nghe về những chiến công lẫy lừng mà các cậu giành được,” Klopp nói. Ngày diễn ra trận chung kết Champions League vào tháng 5 năm 2013, huấn luyện viên của BVB gửi cho người bạn già đáng kính của mình một tin nhắn: “Không có thầy, tôi sẽ chẳng thể ở đây hôm nay, tại London, trên sân Wembley.” Klopp cũng giữ liên lạc với những cậu con trai của ông thầy, mời họ đến thăm trại tập huấn mùa hè của Dortmund ở Bad Ragaz, Áo.
Học trò xuất sắc nhất của Frank, một huấn luyện viên cuồng chiến thuật người Swabia khác, Ralf Rangnick, tiếp tục củng cố mô hình phá cách về phòng ngự khu vực của ông thầy, đưa hàng thủ bốn người và lối pressing khó chịu thành một định nghĩa mới ở Bundesliga trong giai đoạn giữa và cuối thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI. Nhưng phải mất thêm vài năm nữa trước khi tầm ảnh hưởng của Frank được thừa nhận rộng rãi. “Khi những chiến công vĩ đại diễn ra, sự báo đáp thường đến quá muộn,” Klopp nói vài ngày sau khi Frank qua đời vào ngày 7 tháng 9 năm 2013. Ông bị chẩn đoán có một khối u ác tính trong não chỉ bốn tháng trước đó.
Frank đảm nhận công việc trinh sát đối thủ cho Mainz trong năm cuối đời. Ông tự chăm sóc bản thân, cẩn trọng trong việc ăn uống. Cả kết quả chẩn đoán lẫn tốc độ tiến triển của căn bệnh ung thư đã mang ông đi là một cú sốc lớn với tất cả mọi người. “Một tuần trước khi lên bàn mổ, lúc đã khá rõ ràng về việc mình sẽ không còn sống được lâu nữa, ông ấy một lần nữa nói với tôi rằng việc rời bỏ Mainz là một trong những sai lầm lớn trong đời ông ấy,” Heidel kể. “Thật quá khó để đối mặt với sự ra đi của ông ấy…”
“Nhưng biết đâu việc ông đổ bệnh là lẽ tự nhiên,” Sebastian trầm tư. Hai người con trai ở bên ông cho tới những giờ phút cuối cùng. Các cổ động viên của Mainz 05 vinh danh Frank bằng một màn tri ân trước trận đấu tại Bundesliga với Schalke 04 vài ngày sau khi ông mất. “Mainz ist deins”, Mainz là của Ngài, tấm banner viết. Có nhiều huấn luyện viên giành được những danh hiệu, nhưng chỉ một số ít có thể khiến một câu lạc bộ và một thành phố thuộc về mình. Một số ít hơn nữa thậm chí còn để lại một di sản tồn tại lâu dài hơn nhiều so với khoảng thời gian trên ghế huấn luyện của họ.
“Không một người yêu bóng đá nào ở Mainz không tin chắc 100 phần trăm rằng mọi thứ đều bắt đầu với Wolfgang Frank,” Klopp nói về Lehrmeister, người thầy và hình mẫu của anh.
Klopp cũng phải đảm bảo có đông đảo các cựu cầu thủ đến tỏ lòng thành ở đám tang diễn ra tại nghĩa trang thành phố Mainz vào ngày 19 tháng 9. “Mọi người đều có mặt,” Martin Quast nói. “Các cầu thủ từ những câu lạc bộ mà ông ấy dẫn dắt, các đại diện từ Liên đoàn Bóng đá Đức, từ giải Bundesliga, từ học viện đào tạo. Tôi nổi da gà khi nghĩ về điều đó. Hầu hết mọi người đều không biết. Nhưng những ai làm bóng đá, những người trong cuộc, đều tỏ tường. Họ biết rằng Wolfgang Frank không chỉ góp công lớn trong việc phát triển bóng đá ở Mainz mà còn cho bóng đá hiện đại. Theo hướng căn bản. Ông ấy suy nghĩ về những thứ chưa từng ai tưởng tượng ra.”
“Thầy là một huấn luyện viên Bundesliga, dẫu cho thầy chưa từng làm việc ở đó,” Klopp nói, cố ngăn những giọt nước mắt. “Tôi đã nói với hơn cả nghìn cầu thủ rằng Wolfgang tác động tới cả một thế hệ những người chơi bóng đá và cho tới giờ vẫn vậy. Ông là huấn luyện viên có ảnh hưởng lớn nhất với tôi. Một nhân cách đặc biệt.”
Quast đã quen biết Klopp được hai mươi lăm năm nay nhưng đám tang của Frank là lần đầu tiên anh thấy bạn mình đánh vật với những câu chữ. “Anh ấy phát biểu, tất nhiên, nhưng với anh ấy, dường như đó là công việc khó khăn nhất từ trước đến nay. Đọc điếu văn cho người thầy vĩ đại. Tôi có cảm giác đó không hẳn là một màn từ biệt: nhiều câu chữ được suy diễn ra để đón nhận một thông điệp tinh thần, hoặc truyền tải một thông điệp khác. Đó còn hơn cả một lễ tang. Đó là sự vinh danh, sự công nhận.”
Thông qua sự nghiệp của Klopp, môn đồ siêng năng nhất mà Frank có được, tầm quan trọng mang tính nòng cốt của người đàn ông hướng nội, phức tạp này đối với sự phục hưng của bóng đá Đức đã được công nhận rộng rãi hơn kể từ đó. Chẳng có niềm vinh dự nào lớn hơn mà một cậu học trò có thể dành tặng cho người thầy của mình.