Dortmund 2008-2010
Lạ lùng thay, không có câu tương đương trong tiếng Đức cho cách nói “hãy bán những âm thanh xì xèo, không phải miếng xúc xích”. Nhưng đó là mánh marketing kinh điển mà Borussia sử dụng vào tháng 6 năm 2008, một tháng sau khi Jürgen Klopp ký hợp đồng. Sáu tuần trước khi bóng lăn, những tấm áp phích khổ lớn in hình Jürgen Klopp được trưng ra cạnh đường quốc lộ B1 chạy qua sân Signal Iduna Park và xuyên qua khu thượng lưu phía nam thành phố. Khuôn mặt của anh chính là thông điệp, một lời hứa hẹn: một tài xế mới trên ghế lái sẽ biến “thứ bóng đá của toa giường nằm” (tờ Tagesspiegel) trong những mùa giải vừa qua trở thành một đoàn tàu tốc hành náo nhiệt, rền vang.
“Dortmund đâu có ngờ nghệch,” theo lời cựu phát ngôn viên Josef Schneck bên ly nước khoáng trong một khách sạn bình dân cách sân vận động của BVB một đoạn ngắn đi bộ. “Họ sử dụng cậu ấy để đẩy doanh số vé mùa. Và họ thắng lợi banh nóc. Người ta cắm trại bên ngoài các văn phòng của câu lạc bộ từ đêm hôm trước.” Freddie Röckenhaus của tờ Süddeutsche Zeitung, một trong hai phóng viên đã tiết lộ mức độ gây sốc từ khoản nợ và việc quản lý tài chính yếu kém của câu lạc bộ trong những năm đầu thập kỷ, ví những tấm áp phích với hoạt động quảng bá tranh cử. “Đáng ra là: ‘Bầu cho Merkel,’ nhưng lại thành: ‘Bầu cho Klopp!’ Thực tế là vậy.” Dortmund phải chốt doanh số ở mức 49.300 để đảm bảo có vài ngàn vé được chừa lại cho các nhân viên và các nhóm cổ động viên.
Ngay từ đầu, theo lời Schneck, Klopp tỏ ra vui vẻ khi bắt chuyện với bất kỳ ai: “Cậu ấy muốn gặp gỡ những nhóm ultra và các đại diện của hội cổ động viên để chiếm cảm tình nơi họ.” Jan-Henrik Gruszecki, một trong những thành viên sáng lập nhóm ultra The Unity của BVB, nhớ lại cảm giác vô cùng chán nản trước sự lựa chọn huấn luyện viên của câu lạc bộ. “Chúng tôi đã từng nghĩ Mainz, câu lạc bộ ‘mộng mơ’ đó, lúc nào cũng trong tâm trạng tốt - thật không ổn. Klopp là một trong những bộ mặt của World Cup 2006 - cũng không ổn. Và ông ta đã làm được gì với tư cách huấn luyện viên? Không nhiều. Chúng tôi lo ông ta chẳng thể ngăn được sự tuột dốc của câu lạc bộ. Thứ bóng đá ở đây thật đần độn. Câu lạc bộ không có tiền. Aki Watzke chấp thuận tất cả các vụ chuyển nhượng có giá trị hơn 500.000 euro. Chúng tôi đang trên đường trở thành một câu lạc bộ tầm thường ở giữa bảng xếp hạng. Nhưng rồi Klopp… Tôi không nghĩ mình từng ấn tượng với ai đó đến vậy trong đời. Chúng tôi dạy ông ấy cách chơi ‘Schotten’, một trò đánh bài, và ông ấy trò chuyện với chúng tôi. Hoàn toàn rõ ràng là Klopp và bà xã Ulla, người luôn sát cánh bên ông ấy, tỏ ra 100 phần trăm cam kết với Borussia. Họ muốn biết mọi thứ về câu lạc bộ và những người thuộc về nó. Ông ấy kể về việc mình đã háo hức như thế nào để bắt đầu, và nhắc chúng tôi có một vai trò lớn lao cần thể hiện với tư cách là cầu thủ thứ mười hai hoặc mười ba, rằng chúng tôi phải đề cao tinh thần của ‘chúng ta’. Thế là ông ấy đã chiếm được chúng tôi, kể từ khoảnh khắc đó. Chưa huấn luyện viên nào từng làm được tất cả những điều ấy.”
Schneck: “Lúc một người nào đó ở bộ phận marketing nói với Klopp rằng có một vài khách hàng công ty đã từ bỏ dịch vụ ghế VIP, cậu ấy bảo sẽ gọi cho họ để xem liệu họ có đổi ý không. Cậu ấy đi vào văn phòng, nhấc điện thoại lên và nói: ‘Schönen guten Tag, hier ist Jürgen Klopp. Tôi là huấn luyện viên mới của Borussia Dortmund. Tôi được biết quý vị muốn hủy vé. Quý vị không nghĩ là mình nên xem xét lại sao?’ Một vài trong số họ sốc vì ngạc nhiên, rồi đáp: ‘Được rồi, chúng tôi sẽ xem lại.’ Cậu ấy câu kéo họ trở lại. Bạn có hình dung ra bất kỳ huấn luyện viên nào khác đích thân làm điều đó không? Jürgen là vậy. Cậu ấy chiếm được cảm tình của mọi người.”
“Những huấn luyện viên thành công mà chúng tôi từng có trước đây tại Dortmund cũng tỏ ra rất ấn tượng trong việc đối nhân xử thế,” theo lời Fritz Lünschermann, một người đàn ông ngoại lục tuần, đeo kính, xởi lởi, dáng bệ vệ như một chú gấu, người chăm lo những nhu cầu của đội một với tư cách quản lý từ năm 1988. “Đó là Ottmar Hitzfeld, Matthias Sammer. Nhưng không ai bằng Jürgen Klopp. Cậu ấy khiến toàn bộ nhân viên phục tùng mình, qua cách đối đãi nghiêm túc và đề cao sự nỗ lực. Jürgen hỏi mọi người cảm thấy ra sao, có gặp vấn đề gì không và đại loại vậy. Tôi nhớ có một dạo tôi hay mặc những cái áo sơ mi rất sặc sỡ. Jürgen đến gặp tôi và bảo: ‘Ê, nghe này, anh luôn khoác lên người cái tờ giấy dán tường đấy à?’ Tôi đáp: ‘Để tôi xem còn thứ gì khác trong tủ không nhé.’ Và rồi tôi quẳng mấy cái áo sơ mi dán tường ấy vào sọt rác. Tôi nghe theo lời khuyên của cậu ấy. Bạn chẳng thể nào khó chịu với cậu ấy được.”
Đặt công việc bán thời gian là một nhà tạo mẫu cá nhân sang một bên, Klopp sử dụng quãng thời gian nghỉ hè để vùi mình vào những truyền thống và di sản của câu lạc bộ. Lünschermann, “cuốn từ điển di động” (theo lời Schneck), giảng giải cho anh về tầm quan trọng của “Drei Alfredos”, bộ ba tấn công gồm Alfred “Ady” Preißler, Alfred Kelbassa và Alfred Niepieklo từng giành hai chức vô địch liên tiếp vào giữa những năm 1950. Lünschermann và Klopp ngay lập tức trở nên quen thân, “Cậu ấy là một gã luôn vui vẻ, còn tính tôi cũng thuộc dạng tích cực. Tôi phải phối hợp làm lịch thi đấu với cậu ấy trong cả mùa nhưng có một vấn đề khác nảy sinh trong những tuần đầu. Hằng năm, hội đồng bô lão của câu lạc bộ, được tạo nên bởi các cựu cầu thủ và các thành viên lâu năm, thường tổ chức một bữa tiệc mùa hè. Tôi bảo Jürgen: ‘Thật tốt nếu cậu sắp xếp đến được.’ Tất cả bọn họ tụ tập tại một nhà hàng ở Wickede và lập tức tỏ ra mến Jürgen. Cậu ấy ngồi cùng mọi người và trò chuyện với tất cả những quý ông luống tuổi đó lẫn vợ của họ, những người chả biết tí gì về bóng đá. Nhưng cậu ấy khiến họ cảm thấy được trân trọng cũng như coi trọng những mối quan tâm của họ. Cậu ấy ở lại lâu hơn dự tính, chừng một vài giờ, và đã để lại một ấn tượng lâu bền với những bậc cha chú kia. Tới giờ họ vẫn bảo: ‘Jürgen là người có một không hai’.” Những cầu thủ huyền thoại như Aki Schmidt hay Hoppy Kurrat yêu quý Klopp, Schneck bổ sung: “Những huấn luyện viên khác coi mấy kiểu hội họp đó như một nghĩa vụ khó chịu. Jürgen, ngược lại, nhận thức rằng câu lạc bộ sẽ không có ngày hôm nay nếu không có những con người đó. Mối quan tâm của cậu ấy thật chân thành. Cậu ấy quý trọng lịch sử.”
Klopp vẫn chinh phục được câu lạc bộ kể cả khi anh thất bại, và thất bại thảm hại. Trong một buổi tiệc nhân viên nhiều năm sau đó, các nhân sự được chia vào các nhóm trộn lẫn để tranh tài trong những trò chơi thể chất và đố vui. Schneck: “Tôi cùng nhóm với Jürgen, một người quản sân và một phụ nữ thuộc bộ phận kế toán. Có một cuộc thi giữ quả trứng thăng bằng trên chiếc thìa, rồi phải sút bóng vào gôn, kiểu vậy. Và có những câu hỏi về lịch sử của Dortmund. Chúng tôi chắc chắn mình sẽ về đầu nhưng hóa ra lại về bét. Tất cả những người khác đều ăn mừng! Là đội thua cuộc, chúng tôi phải rửa xe buýt của đội. Bạn hoàn toàn có thể làm những việc đó với Jürgen. Cậu ấy thực sự là một người dễ gần. Bạn nhận thấy: đây đúng là một sự ăn khớp hoàn hảo.”
Tầm ảnh hưởng của cá tính nơi Klopp, Schneck hồi tưởng lại, đã phá bỏ ngăn cách giữa công việc và cuộc sống cá nhân. “Một ngày nọ, tôi nói chơi với cậu ấy rằng mẹ tôi sắp bước sang tuổi chín mươi, và bà vẫn còn rất nhanh nhẹn. Klopp đáp: ‘Tôi có nên đến và chúc mừng bà không nhỉ?’ Nếu được vậy thì rõ ràng là một giấc mơ, tất nhiên, nhưng lúc đầu tôi không cho là cậu ấy nghiêm túc. Tôi không bao giờ nhắc lại chuyện đó nữa. Nhưng vài tuần sau đó cậu ấy hỏi tôi: ‘Này, có phải sắp đến sinh nhật mẹ cậu đúng không? Viết cho tôi địa chỉ đi, tôi sẽ đến thăm bà.’ Và rồi cậu ấy bấm chuông cửa. Họ mang theo cà phê và bánh, và tất cả những khách mời đến dự buổi tiệc đều không thể tin rằng Klopp đang ngồi đó, chuyện trò với mẹ tôi. Với cậu ấy, đó là thứ bản năng nhất.”
Công cuộc chuẩn bị trước mùa giải bắt đầu với chuyến tập huấn ở Donaueschingen, trong vùng Rừng Đen, kèm trò chèo thuyền dọc theo một con sông. “Đó là lần đầu tiên chúng tôi chơi trò đó, mọi người gắn kết và vui vẻ,” hậu vệ Dortmund Neven Subotić cho hay. “Kloppo chuyên ngả người và lật thuyền của người khác. Đó là lúc trò vui bắt đầu. Bạn biết đấy, à há, ông ấy không hề tỏ ra ai là chỉ huy và chúng tôi phải đua một cuộc tử tế. Tôi không cho là Klopp phải nghĩ: ‘Làm sao để trở nên thú vị nhỉ?’ Bởi nó đến với ông ấy một cách tự nhiên.”
“Jürgen là một gã mua vui bẩm sinh. Ngay lập tức cậu ấy chứng tỏ được sự hiện diện của mình, cái khí chất đó, ở Donaueschingen,” Watzke kể. “Cả đội lập tức bám theo cậu ấy.” Họ không có nhiều lựa chọn, tất nhiên. “Ông ấy biết mình muốn gì, với ông ấy chỉ có một hướng đi mà thôi,” Subotić cho hay. “Chiến lược của ông ấy về cơ bản là hủy diệt đối thủ. Điều này không dành cho tất cả các cầu thủ. Một vài người nghĩ: ‘Tôi chỉ muốn chơi bóng. Hãy đưa quả bóng đây.’ Đặc biệt là vài cầu thủ lớn tuổi, dày dạn kinh nghiệm, họ có cách nhìn nhận riêng. Thuyết phục họ tham gia vào cách chơi bóng cường độ lớn như vậy là một thử thách mà ông ấy đã giải quyết rất tốt, tôi nghĩ vậy. Đó là một tình thế mới mẻ dành cho ông ấy, bởi ở Mainz ông ấy đã có một tập thể được đặt cạnh nhau để chơi theo cách này. Tại Dortmund, ông ấy phải tìm ra ai về phe mình và ai không.”
Sebastian Kehl, khi ấy hai mươi tám tuổi, được Klopp bổ nhiệm làm đội trưởng trong đợt tập huấn đó. Kehl đưa ra quan điểm rằng bắt các cầu thủ tập chạy ở giai đoạn chuẩn bị cho mùa giải mới chỉ là một nửa nhiệm vụ. Hệ thống mới, một thay đổi căn bản từ lối đá dựa trên nền tảng kiểm soát bóng có bài bản của Borussia dưới thời Doll và Van Marwijk, không chỉ cần chạy nhiều hơn mà còn cần một cách tư duy khác về bóng đá.
“Klopp làm việc không biết mệt mỏi để gieo triết lý của ông ấy vào đầu các cầu thủ,” Kehl nói. “Tôi nhớ có lần ông ấy gọi khi tôi đang trong kỳ nghỉ để bàn bạc chi tiết về những ý tưởng và quan niệm của ông ấy. Đó là một lối đi hoàn toàn mới mà chúng tôi đang mạo hiểm.” Một vài đội bóng nhỏ tại Bundesliga, đáng chú ý có Mainz của Klopp trước đây, từng trình diễn một lối chơi cực đoan như vậy. Nhưng có một sự đồng thuận ngầm rằng những đội bóng giỏi hơn, chất lượng hơn, không cần phải cày ải và tư duy khắc nghiệt như vậy. “Chiến thuật chỉ dành cho những cầu thủ tồi,” cựu huấn luyện viên VfB Stuttgart và FC Bayern Munich Felix Magath từng tuyên bố vài năm trước đó như thế.
Thương hiệu pressing và Gegenpressing của Klopp đòi hỏi những nền tảng lý thuyết vững chắc lẫn một thái độ quên mình. Việc đào tạo cơ bản cho nhiệm vụ đầu tiên được trình bày thông qua “nhiều, rất nhiều những buổi xem băng hình” (Kehl). Một vài đoạn phim có nội dung từ các giải đấu và câu lạc bộ khác, trong đó có Barcelona, nhưng việc phân tích tập trung vào các trận đấu của Dortmund. Klopp vẽ những mũi tên trên màn hình, phác thảo nơi mà cầu thủ đội nhà cần hiện diện, hoặc di chuyển tới, để dồn quân vào khu vực gần quả bóng. Kehl: “Tất cả những điều đó được đi kèm với cường độ vận động kinh hoàng trên sân tập, với những lần tạm dừng, chỉnh sửa, di chuyển khắp sân. Xem băng hình thì hay đấy, nhưng bạn phải cảm nhận được nó trên sân tập. Bạn phải phán đoán được thời điểm hợp lý, bắt đầu hiểu trận đấu theo một cách mới. Bạn phải chuyển đổi giữa trạng thái tấn công và phòng ngự nhanh hơn, bạn phải thích nghi với những khát khao khác nhau diễn ra trong đầu mình. Những điều đó không thể đạt được trong một sớm một chiều.”
Là một tiền vệ mỏ neo, Kehl quen với việc bảo vệ hàng thủ và âm thầm phân phối bóng cho những cầu thủ ở phía trên anh. Trên thực tế, anh hoạt động như một gờ giảm tốc bằng xương bằng thịt. Nhưng phong cách của Klopp là đường cao tốc, kiểu bóng đá Autobahn. Lối chơi của Kehl phải thay đổi nhiều hơn những người khác để phù hợp với sự gấp gáp xung quanh anh. Thay vì lập tức lùi về phần sân nhà ngay khi Borussia mất bóng ở tuyến trên, anh và các đồng đội được yêu cầu lao lên phía trước, với nỗ lực đoạt lại bóng ngay tức thì. “Những huấn luyện viên khác sẽ bảo: Cứ để họ cầm bóng ở sân bên đó. Chúng ta sẽ chỉ cướp bóng khi họ tiến đến gần hơn,” Kehl cho hay. “Chỉ thị của Jürgen là áp sát và đồng loạt dâng cao nếu chúng tôi mất bóng bên phần sân của họ, hoặc nếu họ quay lưng về phía chúng tôi. Chúng tôi cũng cài những cái bẫy trên sân, bằng cách không cố tranh chấp ở tình huống bóng đầu tiên rồi dàn xếp để đối thủ đưa bóng vào khu vực chúng tôi muốn, ra hai bên cánh, chẳng hạn vậy, nơi chúng tôi có thể kèm đôi. Đó là chỉ đạo, kết hợp với quyết tâm sắt đá để chạy và chịu đựng nỗi đau thể chất. ‘Kể cả trông như ngớ ngẩn’ - đấy là một trong những khẩu hiệu của ông ấy. Nếu người đầu tiên áp sát và để sổng, người sau đó phải sẵn sàng để tiếp nối. Đó là những bước chạy vô cùng, vô cùng hoang dại. ‘Hoang dại’ là một trong những từ mà Klopp dùng. Ông ấy muốn biến trận đấu thành một đấu trường hoang dại, để gây ra những vấn đề cho đối thủ và đẩy họ vào những tình thế khó khăn. Nhiều cầu thủ ở Bundesliga vẫn quen với việc bình tĩnh xử lý bóng rồi mới tư duy những phương án tốt. Nếu có đủ thời gian và không gian, mọi cầu thủ đều hay nhưng nếu bạn can thiệp ngay khi họ có bóng, kể cả những người hay nhất cũng gặp khó. Nếu bạn kèm đôi hoặc kèm ba với họ, mọi chuyện thậm chí còn khó khăn hơn.”
Subotić đã quen với kiểu luyện tập này từ hai mùa giải trước đó dưới thời Klopp tại Mainz nhưng ở Dortmund, vị huấn luyện viên phải quay lại những khái niệm cơ bản. “Đội bóng mạnh hơn nhiều nhưng hệ thống này lại hoàn toàn mới với họ. Có nhiều bài tập thực sự không mấy vui vẻ. Klopp giảng giải mọi thứ trong khi hai mươi gã trai đứng xung quanh. Hoặc chạy đồng bộ, theo chiến thuật. Chẳng hề vui. Nhưng quan trọng. Sau cùng, Zeljko Buvac đã tham gia ngày một nhiều hơn. Ông ấy rất kín tiếng bên ngoài sân tập - chẳng ai đặt câu hỏi với trợ lý cả, đúng không? - nhưng ông ấy tạo dựng được mối quan hệ cực tốt với các cầu thủ. Ông ấy cũng chơi bóng với bọn tôi. Điều đó giúp ông ấy được nể phục. Các cầu thủ thấy rằng: ‘À, ông ấy biết đá bóng’.”
Điều tương tự có thể sớm được nói về sự kết hợp mới ở hàng phòng ngự của BVB với Subotić và bản hợp đồng cho mượn từ Bayern Munich - Mats Hummels, đều mười chín tuổi. Bị tờ Bild gán cho biệt danh Kinderriegel - sát nghĩa nhất là “Khóa trẻ em” - hai cầu thủ tuổi thiếu niên còn non kinh nghiệm ở Bundesliga được lựa chọn thay cho tuyển thủ Croatia lão luyện Robert Kovacˇ trước sự sửng sốt của nhiều chuyên gia. Thành phần của hàng thủ BVB tiếp tục trở nên trẻ trung hơn sau khi hậu vệ trái được yêu thích Dédé đứt dây chằng chéo trước ở trận đấu đầu tiên của mùa giải, trong chiến thắng 3-2 trên sân Bayer 04 Leverkusen. Klopp miêu tả hậu vệ người Brazil là “cầu thủ hay nhất tôi từng làm việc cùng” với một người bạn chỉ hai tuần trước đó, và anh tỏ ra suy sụp. May mắn thay, một Marcel Schmelzer hai mươi tuổi, sản phẩm của lò đào tạo trẻ BVB, hóa ra lại là một sự thay thế hơn cả mong đợi. “Cậu ấy là một cỗ máy,” Klopp nói với Fligge và Fligge trong Echte Liebe.
“Ngay từ đầu, không cầu thủ nào thuộc bốn trung vệ có tên trong danh sách đội chắc suất đá chính, đó là lợi thế lớn dành cho tôi và Neven,” Hummels chia sẻ. Anh từng bị coi là người thừa dưới thời “một Jürgen khác” - Klinsmann, tân huấn luyện viên của FC Bayern. “Chúng tôi mau chóng tìm ra cách tự ứng cử mình, và Jürgen có thể thấy rằng chúng tôi sở hữu tư chất tốt. Chúng tôi mới chỉ mười chín tuổi, phải, nhưng Klopp hoàn toàn tin tưởng chúng tôi, có lẽ bởi ông ấy nhìn ra rằng chúng tôi trội hơn về nhận thức so với những cầu thủ cùng trang lứa, nhờ vào kinh nghiệm chúng tôi có được.” Hummels từng là một tài năng trẻ sáng giá vô cùng tự tin ở cấp học viện tại Bayern, trong khi Subotić được đánh giá cao bởi phong cách kiên định và chín chắn. Là con của một cặp đôi tị nạn người Serb gốc Bosnia rời vùng Rừng Đen tới Mỹ để tránh trục xuất, mùa hè năm 2006, anh gia nhập Mainz khi mười bảy tuổi dưới tư cách cầu thủ đến từ trường Đại học Nam California. (Anh và tiền đạo Conor Casey của FSV có chung người đại diện, là Steve Kelly. Chính Kelly đã sắp xếp để cầu thủ thiếu niên này thử việc thành công.)
Là một cựu hậu vệ, ai đó có lẽ đã kỳ vọng vị tân huấn luyện viên sẽ chăm chút cho bộ đôi trẻ tuổi này. Nhưng Hummels có chút bất ngờ, khi Klopp tỏ ra cởi mở về những hạn chế của mình với cậu học trò. “Ông ấy bảo: ‘Tôi chưa bao giờ đạt được trình độ như cậu, nên tôi sẽ không vờ với cậu rằng tôi biết mọi thứ. Nhưng tôi sẽ luôn nỗ lực để giúp đỡ cậu’.” Sự thiếu kinh nghiệm rõ rệt ở bộ tứ vệ, Hummels nói thêm, đã được giảm nhẹ với chiến lược đẩy phần lớn trách nhiệm phòng ngự lên đằng trước 40 mét, về phía các tiền đạo và tiền vệ. “Các đối thủ khó có thể triển khai bóng mà không có áp lực, điều này dẫn đến nhiều đường bóng dài thiếu chính xác và định hướng. Những đường chuyền kiểu này, được thực hiện dưới sự ép buộc, thường đi quá xa hoặc ngoài tầm kiểm soát. Chúng tôi ở phía dưới dễ đá hơn. Điều này mới mẻ nhưng vô cùng thú vị. Chúng tôi còn quá trẻ để đá theo cách riêng, nên chúng tôi có thể cống hiến hết mình cho cách chơi này.” Quan trọng nhất vẫn là khối lượng sức ép được áp “lên trái bóng”, như Klopp vẫn nhấn mạnh nhiều lần với các cầu thủ của mình. Một nhà truyền giáo mặc đồ thể thao, đang thuyết giảng chân lý về một dạng chiến thuật chưa được đặt tên.
Không phải tất cả những con chiên đều đồng tình với giáo lý của anh. Tiền đạo người Croatia Mladen Petrić, tay săn bàn hàng đầu ở mùa giải trước (mười ba bàn thắng) và có thể coi là cầu thủ tài năng nhất đội, cảm thấy khó chấp nhận cách quản lý mới. Một ngày sau trận đấu với Leverkusen, anh này bị bán cho Hamburger SV trong một thương vụ trao đổi các thêm 5 triệu euro, đồng thời đưa một trong những học trò cũ yêu thích của Klopp ở Mainz, cầu thủ người Ai Cập Mohamed Zidan, đến sân Signal Iduna Park.
Hành động tống khứ một cầu thủ tiếng tăm như Petrić của Klopp được cho là một bước đi đầy rủi ro, một chiến thuật áp đảo từ một huấn luyện viên cứng đầu đang háo hức thiết lập luật lệ. Nhưng Watzke ngụ ý rằng đã có những lý lẽ vững chắc về tài chính và bóng đá để vụ chuyển nhượng này cũng được coi là hợp lý dưới quan điểm của câu lạc bộ. “Chúng tôi đều muốn điều đó,” ông nói, hơi nhăn mặt khi tay chơi saxophone tại sảnh khách sạn lê bước gần hơn tới chiếc ghế sofa mình đang ngồi. “Jürgen tha thiết muốn đưa Zidan vào đội, đó mới là lý do. Và lời đề nghị từ Hamburg tỏ ra hợp lý. Petrić và Alexander Frei không thực sự ăn ý ở tuyến trên.” Frei, tiền đạo người Thụy Sĩ và là tay săn bàn truyền thống, cũng không phải kiểu cầu thủ ưa thích của Klopp, nhưng Borussia thấy rằng anh này có thể phối hợp đủ tốt với một Zidan linh hoạt hơn ở phía sau. Màn kết hợp giữa Frei và Petrić, một hộ công cừ khôi, không tạo ra được cường độ hoạt động đạt yêu cầu.
“Chiến lược của đội là chơi thứ bóng đá kịch tính kèm Gegenpressing,” Watzke nói. “Họ là những cầu thủ giỏi, nhưng lại không phải là những người hợp với chiến thuật đó.” Lối chơi pressing tầm cao của Dortmund thậm chí còn cho thấy kết quả tích cực hơn. “Bạn có thể mau chóng nhận ra rằng đội bóng ổn định hơn ở tuyến dưới,” Watzke nhận định về màn khởi đầu đáng khích lệ với chiến thắng ở trận tranh Siêu cúp với Bayern (2-1), một thắng lợi ở Cúp Quốc gia Đức (3-1 trước RW Essen) và bảy điểm sau ba trận đầu tiên ở giải vô địch quốc gia. “Jürgen mang tới sự cân bằng ở hàng phòng ngự cho đội, và Gegenpressing là thương hiệu của cậu ấy. Hiện tại, mọi đội bóng đều sử dụng nó, ít hay nhiều thôi. Thời điểm đó, bạn có thể thấy ngay từ ngày đầu rằng có một điều gì đó đang diễn ra. Nhưng chúng tôi thực lòng không nghĩ là nó lại trở nên phổ biến như vậy.”
Như một định mệnh, cuộc đụng độ thứ tư của Klopp tại Bundesliga là trận đấu quan trọng bậc nhất mùa giải: trận Revierderby trên sân nhà với gã hàng xóm đáng ghét Schalke 04. The Royal Blues (cổ động viên Dortmund không bao giờ dùng tên chính thức của đối thủ) dẫn 3-0 sau sáu mươi sáu phút. Đội hình trẻ của Borussia lâm vào tình thế vô cùng khó khăn, trong khi các cầu thủ Schalke ngạo nghễ dạo chơi trên sân. Pháo đài Signal Iduna Park dường như đã thất thủ khi Kevin Kuranyi suýt nâng tỉ số lên 4-0, với một cú đánh đầu dội xà ngang ở cự ly gần. Klopp tỏ ra khiếp đảm. “Vợ tôi, Ulla, ngồi trên khán đài và đã nghĩ tới việc thu xếp hành lý,” sau này anh tiết lộ. Nhưng, bằng một cách nào đó, điều không thể lại xảy ra. Bị chọc tức bởi sự kiêu ngạo của Schalke 04, Subotić ghi bàn thắng hâm nóng cầu trường. Năng lực phán xử của cả các cầu thủ đội khách lẫn vị trọng tài bỗng chốc tan chảy trong chảo lửa. Cầu thủ vào thay người Alex Frei ghi bàn trong tư thế việt vị. Phút thứ tám mươi chín của trận đấu, Dortmund được hưởng một quả penalty đáng ngờ. Klopp không dám nhìn. Anh quay lưng lại với Frei, người bình tĩnh bước lên và gỡ hòa: 3-3. “Có lẽ là một trong những trận derby hay nhất mọi thời đại,” tờ Frankfurter Rundschau tán dương. “Một thiên sử, xứng đáng với 1.000 trang tiểu thuyết. Một màn phục hưng vĩ đại.” “Nếu có mùi mồ hôi ở đây, là do tôi đấy,” một Klopp được giải tỏa, kiệt sức, đầy cảm xúc phát biểu trong buổi họp báo. “Trận đấu quả là ly kỳ. Tôi đã chứng kiến nhiều chiến thắng, nhưng chưa từng thấy thỏa mãn như thế này.” Khởi đầu mùa giải tốt nhất của Dortmund trong 5 năm qua khiến cả thành phố rạo rực. “Nơi nào chúng tôi đến, mọi người đều ra dấu ủng hộ, tôi chưa bao giờ thấy điều gì tương tự trong mười năm công tác của mình,” Schneck cho hay. “Nếu bạn hỏi tôi, cậu ấy xoay xở kiểu gì để đánh thức được gã khổng lồ ngủ quên, xin trả lời: bằng một nụ hôn. Và một thái độ hòa hợp với vùng Ruhr. Là vậy đó. Cậu ấy chẳng theo khóa học nào cả, cậu ấy chẳng hỏi han bất kỳ ai về con người nơi đây. Cậu ấy cảm nhận nó, theo bản năng, và cư xử theo cách kết nối được với họ. Cậu ấy khiến họ hào hứng. Người ta không ngừng hỏi: ‘Cậu chắc mình không có gốc gác gì ở đây chứ? Ông của cậu có từng hành nghề khai thác mỏ hoặc làm việc trong những nhà máy thép ở đây chăng?’ Họ chắc chắn cậu ấy là một trong số họ. Chẳng ai tin cậu ấy đến từ ở vùng Rừng Đen, rằng cậu ấy là người Swabia. Chính cậu ấy cũng không coi mình như thế. Cậu ấy luôn bảo: ‘Tôi nhận thấy ngay từ đầu rằng mình phải rời nơi đó. Tôi không thể tưởng tượng được cảnh hằng ngày quét dọn lối đi chỉ để gã hàng xóm trông thấy và nói: À, được đấy, hắn dọn lối đi nhà hắn rồi.’ Cậu ấy không bao giờ có kiểu thái độ nhỏ nhen của người Swabia. Đấy là sự cởi mở của cậu ấy. Cậu ấy bắt chuyện với mọi người. Chúa ơi, ngay từ đầu, cậu ấy đã làm mãn nguyện các cổ động viên. Nếu có ai muốn cậu ấy đến đâu đó và nói lời chào, cậu ấy sẵn sàng. Tôi chưa bao giờ cảm thấy cậu ấy làm những điều đó một cách tính toán. Cậu ấy đơn giản là một gã ưa chuộng con người. Tôi chắc chắn có lần nghe được cậu ấy nói: ‘Một huấn luyện viên không yêu quý cầu thủ của mình không thể là một huấn luyện viên tốt.’”
Bình luận viên của tờ Bild - Mario Basler - từng gọi Klopp là “Barack Obama da trắng”. Họ đều “sở hữu một lượng thượng thừa về tri thức lẫn khả năng thực hành”, cựu tiền vệ Bayern Munich viết, “cả hai là những người mang theo hy vọng, đều là những thần tượng. Tại Dortmund, các cổ động viên phấn khích đến mức việc anh ấy lau chùi cặp kính trên ghế huấn luyện theo kiểu vụng về cũng mang tới những màn cổ vũ ở khán đài phía nam.”
Klopp cảnh báo rằng anh “không phải một vị cứu tinh, chỉ là một huấn luyện viên”, và là quá sớm để đoán định Dortmund sẽ lọt vào nhóm ba đội đầu bảng: “Nếu chúng tôi có thể cho thấy sự cam kết và sẵn sàng để chiến đấu trong chín mươi phút, thì một điều gì đó mới có thể nảy nở ở đây.”
Sự hoài nghi của anh đã được minh chứng, hơn nhiều so với những gì anh mong đợi, khi Dortmund sụp đổ trong thất bại 2-0 trên sân nhà trước Udinese tại vòng một UEFA Cup. (Họ được quyền tham dự giải đấu nhờ việc lọt vào trận chung kết Cúp Quốc gia Đức dưới thời người tiền nhiệm Thomas Doll.) Trận đấu đầu tiên trong 5 năm của BVB tại đấu trường châu Âu cho thấy sự chênh lệch giữa một đội ngũ trẻ trung với kiểu chiến thuật xù xì lão luyện, và rằng họ cần phải nỗ lực rất nhiều để cạnh tranh với những đối thủ hàng đầu. Đội bóng đến từ Italia, không hề bối rối vì sự náo nhiệt trên sân, lạnh lùng né tránh lối đá pressing của Dortmund và tung đòn phản công đầy khó chịu. “Tôi chưa bao giờ thấy đội bóng do mình dẫn dắt chơi tệ đến mức này, thật đáng xấu hổ,” Klopp nói, lắc đầu trong sự chán chường. Hai sự thay đổi người sớm, bất đắc dĩ - Zidan và Hummels đều gặp chấn thương - chỉ khiến sự hỗn loạn tăng cao. Đội chủ nhà “vô vọng như một con cá voi mắc cạn”, Gazzetta dello Sport tường thuật với giọng hân hoan. Tệ hơn cả, cách thua trận dấy lên những câu hỏi về chính sách chuyển nhượng của câu lạc bộ. “Liệu đội hình này, được Giám đốc Thể thao Michael Zorc lắp ghép qua nhiều năm, có đủ tốt để chơi bóng đỉnh cao về lâu dài?” Tờ Süddeutsche tự hỏi.
Những câu hỏi đó chỉ trở nên hệ trọng hơn sau thất bại 4-1 trước đội bóng mới lên hạng Hoffenheim, ứng viên vô địch bất ngờ của mùa giải. “Một trận đòn nhừ tử,” Watzke cho hay. Các chàng trai của Ralf Rangnick thể hiện một phong cách rất tương đồng với lối đá của Dortmund, chỉ là hay hơn nhiều. “Đó là thứ bóng đá có hệ thống, theo cách mà nó nên như thế,” Klopp thừa nhận. “Chúng tôi cần đạt tới tầm của họ. Thật không may, ứng xử về mặt chiến thuật không giống việc đạp xe. Bạn phải luyện tập, làm đi làm lại.”
Tái lập trình hệ thống vận hành của đội bóng đơn giản là cần thời gian, Subotić nhấn mạnh. “Ba đấu ba hoặc năm đấu năm, điều đó khá dễ dàng. Nhưng trong trận, có lúc bạn mệt mỏi và tự hỏi: ‘Có thực sự cần áp sát nữa không nhỉ?’ Rồi khi bạn gây áp lực nhưng đối phương vẫn chuyền bóng đi một cách dễ dàng bởi đồng đội của bạn không áp sát cùng bạn, và tất cả là một sự phí phạm. Làm quen với điều đó thật không dễ dàng gì. Đòi hỏi về tinh thần lẫn thể lực đều rất khắt khe. Bạn đang quen với việc cả đội chạy 105 km mỗi trận. Đột nhiên, cả đội bị nâng lên 115 km, và mục tiêu là đạt mức 120 km hoặc hơn. Klopp hiểu rằng điều đó không thể đạt được một sớm một chiều. Ông ấy biết các cầu thủ đã có hai mươi năm chơi bóng và chưa bao giờ bị yêu cầu phải tuân theo một kế hoạch như vậy trước đây. Lao động nhiều hơn, và dành nhiều thời gian hơn, chính là giải pháp cho vấn đề.”
Nếu những tuần đầu được tạo nên bởi Aufbruchsstimmung - một xuất phát điểm đầy khí thế hướng tới tương lai rực rỡ cho đội bóng áo Vàng Đen - thì đến mùa thu, Dortmund lại đột ngột cập một bến đỗ không hề mong đợi. Một cuộc khủng hoảng nội bộ, sự pha trộn đáng quan ngại giữa một hàng thủ hớ hênh - (“một tấm bia tập bắn”, tờ Süddeutsche chế nhạo), với một ý đồ chơi bóng non nớt và một huấn luyện viên vật vã trong việc tìm ra đội hình xuất phát tối ưu. Có sáu thay đổi trong đội hình ra sân ở trận gặp Hoffenheim, và sáu thay đổi khác cho trận đấu cúp không-được-phép-thua sau đó trước Hertha BSC. “Những ngày đen tối, một tuần đen tối,” anh than thở.
“Bạn có thể là một gã tuyệt vời nhất trên tư cách một huấn luyện viên nhưng mọi thứ đều phụ thuộc vào thành tích,” Schneck nói, nhướn một bên lông mày. Subotić bóng gió rằng sự tin tưởng trong phòng thay đồ dành cho vị huấn luyện viên mới là khá mong manh trong giai đoạn đó. “Tôi hiểu ông ấy, tôi tin ông ấy,” anh nói, “nhưng với đội bóng nào cũng vậy, kết quả thực tế mới là điều quan trọng. Tất cả đều rất mến ông ấy. Nhưng hiệu quả từ phương pháp của ông ấy mới là tiêu chuẩn hàng đầu.”
“Ông ấy phải đi lôi kéo mọi người, không phải mọi thứ đều suôn sẻ ngay từ đầu,” Kehl cho hay. “Ban đầu, khi gặp phải một số thời khắc khó khăn, chúng tôi băn khoăn: ‘Sao mà thứ này vận hành được nhỉ?’ Đã có những cuộc tranh luận. Tuy nhiên, ông ấy luôn kiên định với lối chơi mình theo đuổi bởi ông ấy từng hoàn toàn bị thuyết phục rằng đó là phương pháp đúng đắn.”
Trước Berlin, vận may từ trong trứng nước đã giải cứu Klopp. Dortmund có chiến thắng nhọc nhằn 2-1 ở hiệp phụ bằng một hàng tiền vệ kim cương mang hơi hướng phòng ngự để tạo ra thêm một lớp lá chắn nữa. Tiếp đó, đến lượt VfB Stuttgart bị vùi dập 3-0 tại Mercedes Benz-Arena, và Borussia cho thấy phương án tác chiến tinh tế của họ tỏ ra hiệu quả thế nào.
“Đến lúc này, ngay cả người bi quan nhất ở Dortmund cũng nhận ra rằng chúng tôi đang đi đúng hướng,” Watzke cho biết sau trận lượt về với Udinese. Đội bóng của ông thua trận trên những loạt luân lưu, sau khi thắng 2-0 tại Stadio Friuli ở khoảng thời gian chính thức. Nhưng phẩm chất và dũng khí mà các cầu thủ thể hiện đã biến trận đấu này thành một cú knock-out theo chiều ngược lại: vực dậy đội bóng một cách bền vững. Sự tiến bộ của Dortmund dưới quyền huấn luyện viên mới đã trở nên quá rõ ràng. Bác bỏ nhận định cho rằng Klopp chỉ là một vị thuyền trưởng chèo lái bằng động lực, hay đấm gió, nhảy nhót trên đường biên như một đứa trẻ hiếu động, Klopp cho thấy anh không chỉ đọc được trận đấu, mà còn có thể soạn ra nó.
Klopp cũng lấy lòng nhóm báo chí địa phương bằng việc trợ giúp họ giữa một cuộc đấu khẩu vào đêm hôm đó. Những tay bảo vệ sân ngăn không cho cánh nhà báo tiếp cận các cầu thủ BVB sau tiếng còi mãn cuộc, cho tới khi huấn luyện viên Dortmund đích thân chen vào và mở lối đi. Một gã người Italia buông lời chửi Klopp, hét lên “cazzo” - hiểu theo cách lịch sự là đồ mặt dùi cui - nhưng anh chỉ cười, và, e hèm, ngẩng cao đầu. “Đừng lo - tôi không nói tiếng Italia,” anh đáp.
Tiếp đó, Dortmund chỉ bại trận thêm một lần nữa trước Giáng sinh - bởi Hamburger SV, đội sau đó trở thành đối thủ không đội trời chung của Klopp tại Bundesliga theo một cách khó hiểu - và nghỉ ngơi trong suốt kỳ nghỉ đông ở vị trí thứ sáu, xếp trên Schalke. Sự tiến triển là có thật.
“Tất cả chúng ta đều hiểu rằng tiền bạc mang về bàn thắng trong bóng đá,” Norbert Dickel nói, khi đang ngồi ghé lên chiếc bàn cập kênh bên ngoài một quán cà phê tạm bợ ở Marbella vào tháng 1 năm 2017. Bên kia đường, phía trong sân vận động Municipal de Marbella xây bằng gạch đỏ, đội một Dortmund đang luyện tập. “Nhưng lúc đó chúng tôi không có tiền. Đưa được Jürgen về đã là một phước lành tuyệt diệu rồi. Đội bóng bắt đầu chơi thực sự hay trong năm đầu tiên, như tất cả chúng ta đã thấy. Toàn bộ phong cách chơi bóng đã thay đổi. Không chỉ có bước tiến triển khó tin trên khía cạnh bóng đá, Jürgen cũng đã khiến tiếng tăm của câu lạc bộ tăng lên ngoài sức tưởng tượng. Đơn giản bởi cậu ấy đã ở đây, hai mươi tư tiếng một ngày, mang mọi người lại gần nhau. Cậu ấy không bao giờ than phiền chuyện cầu thủ dính chấn thương hoặc ốm đau. Cậu ấy sẽ nói: ‘Chúng ta có đủ cầu thủ chất lượng.’ Cậu ấy không phải người hay kêu ca; cậu ấy cho rằng thật vô ích khi lo lắng về những điều mà bạn không thể chi phối. Chúng tôi đều cảm nhận rằng mọi thứ đang tiến lên phía trước, đến một mốc mà bạn có thể tin vào thành công.” Lünschermann: “Đó là một màn hóa thân. Chúng tôi đã chứng kiến nhiều trận đấu khá tệ hại. Bỗng nhiên, những chàng trai trẻ này hăng hái như lũ thỏ vậy, đuổi theo mọi pha bóng. Một lúc sau họ còn bắt đầu phối hợp nữa. Thật tuyệt vời. Tất cả chúng tôi đều cho rằng: ‘Ôi trời, đó có thể trở thành một kỷ nguyên.’ Và thực tế đúng là vậy - một kỷ nguyên không thể nào quên. Đó là công sức của cậu ấy.”
Nửa đầu mùa giải ra mắt của Klopp tại Bundesliga ở North Rhine-Westphalia chứng kiến phong độ ổn định của BVB với bảy chiến thắng, tám trận hòa và hai thất bại. Tiếp đó là thành tích gần như giống hệt (tám chiến thắng, bảy trận hòa, ba thất bại) sau kỳ nghỉ đông, bất chấp chấn thương mắt cá nghiêm trọng của Hummels và khởi đầu nghèo nàn ở năm dương lịch, đưa đội bóng hướng đến vòng sơ loại UEFA Cup. Hợp đồng của Klopp được gia hạn sớm đến năm 2012. “Không ai trong câu lạc bộ phản đối Jürgen Klopp, mọi người đều ủng hộ quyết định này,” Watzke tuyên bố công khai vào tháng 3 năm đó.
Tuy nhiên, đội bóng lại lỡ hẹn với đấu trường châu Âu, theo cách kinh điển, kịch tính mà đau đớn, mang đậm phong cách Klopp: vào phút cuối cùng trong ngày hạ màn của mùa giải. Đội xếp thứ năm Hamburger SV, bị dẫn 2-0 trước Eintracht Frankfurt sau một giờ đồng hồ, đã vùng lên để thắng 3-2, trong đó có một bàn thắng được ghi ở tư thế việt vị của Piotr Trochowski. Dortmund, với trận hòa 1-1 trên sân của một Borussia khác (đến từ Mönchengladbach), bỗng chốc trắng tay. Việc hụt mất khoản tiền 5 đến 7 triệu euro do không được tham dự Europa League đã để lại một lỗ hổng trong ngân sách của đội.
“Sẽ có ít tiền hơn trước,” Klopp cho biết sau khi nỗi thất vọng đã nguôi ngoai. “Nhưng chúng tôi đã tận hưởng một vài trải nghiệm có sức tác động khó tin và trở nên gắn kết hơn rất nhiều với các cổ động viên. Tôi hy vọng một vài nhà tài trợ sẽ nói: ‘Có điều gì đó đang hình thành ở đây, tuyệt đấy, chúng tôi muốn trở thành một phần trong đó.’ Ai cũng có thể chạy theo trào lưu. Nhưng góp phần trong việc khởi sự một thứ gì đó tỏ ra thỏa mãn hơn nhiều.”
“Nhìn chung, đó là một mùa giải xuất sắc,” Watzke cho hay. “Tiếc là lại thiếu một phần thưởng. Cách mùa giải kết thúc là một sự thất vọng lớn với chúng tôi. Trước giờ đúng ra chúng tôi chưa từng thỏa mãn, nhưng việc tiến thêm bảy bậc là khá ổn. Có vài điều thất vọng khác trong những năm qua, nhưng những thứ đó luôn khiến chúng tôi gắn kết hơn. Cuối cùng, có một thực tế là ba chúng tôi - Jürgen, Michael Zorc và tôi - tỏ ra ăn ý một cách lạ thường. Đó là điểm mấu chốt.”
Đâu đó, ẩn giấu bên dưới sự tích cực luôn hiện hữu, đầy tính lan truyền mà Klopp đang phô bày, cũng đã xuất hiện sự lo âu và xáo động về một huấn luyện viên mới chỉ trải nghiệm ở giải hạng Hai của bóng đá Đức. Quá nhiều nhà quản lý đã đến rồi thất bại kể từ sau cuộc chia ly với Matthias Sammer vào năm 2004. “Đã có một chút lo sợ trong nội bộ câu lạc bộ, sau những trường hợp gần đây. ‘Mong là đừng hỏng lần nữa,’ các cầu thủ nói,” Subotić kể. “Chúng tôi đã tìm được cách xoa dịu những nỗi sợ ấy trong năm đầu tiên. Về đích ở vị trí thứ sáu sau khi xếp thứ mười ba ở mùa trước đó là một thành công. Chúng tôi thắng, hòa, tất nhiên cả thua nữa nhưng nhìn chung, bạn có thể nhận thấy cách làm tỏ ra hiệu quả. Chúng tôi hiểu rằng có thể tin tưởng ông ấy và tin lẫn nhau. Cả câu lạc bộ giờ có thể hít một hơi thật sâu.” Kehl đồng tình. “Rõ ràng là tâm trạng của các cầu thủ đã hoàn toàn thay đổi,” anh nói.
Nhưng không phải tất cả các cầu thủ đều được coi là phù hợp để tiếp tục cuộc hành trình. Tiền đạo người Thụy Sĩ Alex Frei bị đẩy sang FC Basel để đổi lấy 4,25 triệu euro trong giai đoạn hậu mùa giải. Dortmund đã tiêu tất cả số tiền đó để mang về một sự thay thế, tiền đạo người Argentina có biệt danh “Báo đen” Lucas Barrios, người sẵn lòng cày ải quên mình trên hàng công, đúng như hệ thống của Klopp đòi hỏi. Hợp đồng cho mượn của Hummels được mua đứt với thỏa thuận 4,2 triệu euro khiến Bayern Munich tiếc đứt ruột sau này. Thêm hai chữ ký chủ chốt nữa chẳng tốn là bao. Hai cầu thủ đa năng Sven Bender (hai mươi tuổi, từ TSV 1860, giá 1,5 triệu euro) và Kevin Großkreutz (hai mươi mốt tuổi, từ Ahlen, miễn phí) bổ sung thêm sự năng động của tuổi trẻ vào hàng tiền vệ.
Cầu thủ gốc Munich Bender nhớ lại chuyện Klopp gọi điện để thuyết phục mình về Dortmund vào mùa hè năm đó. “Lúc đó tôi đang ở trong xe. Kết nối rớt bốn lần nhưng ông ấy vẫn cố gọi lại. Tôi biết Dortmund quan tâm đến mình, nhưng khoảnh khắc đích thân một huấn luyện viên gọi cho bạn rồi bày tỏ với bạn lý do và niềm mong mỏi họ muốn có bạn thì thực sự mang tính quyết định. Trước hết, thật vinh dự cho tôi khi được nói chuyện với ông ấy. Tôi mới chỉ biết ông ấy trên ti vi, thế nên nói chuyện qua điện thoại với ông ấy thật thú vị. Ông ấy cư xử y hệt như trên truyền hình. Cuộc trò chuyện rất thoải mái. Ông ấy kể với tôi về tất cả những thứ ông ấy phải đối mặt trong năm đầu ở đây, rằng Dortmund là một câu lạc bộ tuyệt vời mà ông ấy có thể toàn tâm toàn ý tiến cử cho tôi và cho rằng tôi nên đến đây. Và ông ấy còn bảo sẽ vui ‘quên đời’ nếu tôi chọn ông ấy làm huấn luyện viên và Borussia làm bến đỗ. Tất nhiên tôi muốn gia nhập họ. Dortmund là một câu lạc bộ lớn, có khí chất vĩ đại, và Klopp là cái tên hoàn hảo ở vị trí chỉ huy ngay từ đầu.” Bender thậm chí còn ấn tượng hơn nữa khi anh gặp huấn luyện viên mới của mình ngoài đời. “Một người khổng lồ! Kinh dị! Ông ấy trông không cao đến vậy trên ti vi, tôi đã phải nhìn kỹ lại cho chắc. Ông ấy là mẫu người thúc đẩy xuất sắc. Ông ấy thực sự là những gì tôi cần, cho một cầu thủ trẻ.”
Klopp có tài trong việc đáp ứng những gì người khác cần, Lünschermann cho hay. “Cậu ấy chẳng có thủ tục gì trong phòng thay đồ trước trận đấu, hay một sự mê tín cụ thể nào đó nhưng khi đá trên sân khách, cậu ấy luôn tìm một chỗ vắng vẻ, kín đáo để hút thuốc. Điều đó khiến cậu ấy cực kỳ dễ mến trong mắt tôi. Cậu ấy không giả vờ khổ hạnh, đôi lúc cũng làm chai bia, cậu ấy là người không biết ngượng ngùng - chẳng như nhiều tay huấn luyện viên cứ giấu tiệt đi bất kỳ thứ gì mà người khác cho là điểm yếu. Chính phần con người của cậu ấy, hơn tất thảy, đã giúp cả đội bóng tiến lên.”
Ở Dortmund, Giám đốc Thể thao Michael Zorc và trưởng bộ phận tuyển trạch Sven Mislintat chịu trách nhiệm tìm kiếm những giải pháp nhân sự dựa trên hầu bao khá eo hẹp của đội bóng, không tính một vài cầu thủ Mainz (Zidan, Subotić, Markus Feulner) được chính tay Klopp đưa vào danh sách mua sắm. Có ít sự lựa chọn nên không còn cách nào khác phải đánh cược vào những cầu thủ ngoại ít tầm ảnh hưởng như Barrios và tiền đạo vô danh người Ba Lan Robert Lewandowski, người được mua về từ Lech Poznan vào năm 2010. Mức giá 4,25 triệu euro gây chú ý tới mức Lewandowski được do thám khoảng ba mươi lần. Klopp đã cải trang bằng áo hoodie và mũ lưỡi trai, thân chinh đến Ba Lan để tận mắt đánh giá tiền đạo này.
Cái két rỗng khiến việc dùng người trẻ là điều bắt buộc. May cho Dortmund, Klopp ngày càng bộc lộ một khát khao vượt xa hơn việc huấn luyện, như Subotić nhận thấy. Anh thích xây dựng một đội bóng mới. “Ở Dortmund, ông ấy có cơ hội được thay đổi đội ngũ, gần như từ vạch xuất phát, đưa tầm nhìn của ông ấy vào đúng chỗ. Tôi nghĩ điều đó thực sự lôi cuốn ông ấy. Tôi đoán điều đó cũng tương tự như ở Liverpool.”
Klopp thường xuyên tuyên bố rằng đội bóng trẻ của mình “nóng như mỡ rán”, nhưng mùa giải thứ hai của anh lại bắt đầu khá ảm đạm. Hai trận thua nặng nề, trên sân khách trước Hamburg (1-4) và Bayern (1-5), ba trận hòa và một thất bại đầy phiền muộn với tỉ số 1-0 trên sân nhà trong trận derby với Schalke. Bảy trận đầu tiên tạo ra khởi đầu tệ hại nhất của câu lạc bộ trong vòng hai mươi tư năm qua. Một tháng trước lễ kỷ niệm một trăm tuổi của câu lạc bộ, đội bóng rơi xuống vị trí thứ mười lăm. “Các cổ động viên có một chút bực dọc,” Watzke cho hay. Một trăm ultra giận dữ xuất hiện ở sân tập sau thất bại trước Schalke, đề nghị lời giải thích từ các cầu thủ và quan chức. Klopp xoa dịu tình hình bằng cách thương lượng trực tiếp với nhóm người đang bất đồng. Schneck: “Cậu ấy bước ra khỏi xe buýt của đội và nói: ‘Được rồi, nói tôi nghe nào.’ Họ phàn nàn rằng đội bóng chiến đấu chưa đủ nhiệt, rằng đó không phải là Borussia chân chính, kiểu vậy. Jürgen đã giải thích với họ trong tầm mười lăm đến hai mươi phút rằng mọi chuyện hoàn toàn không phải như thế, và quả quyết rằng cậu ấy rất xem trọng những băn khoăn và quan điểm của họ. Các cổ động viên lặng lẽ giải tán, còn cảm ơn cậu ấy vì đã bỏ thời gian giải quyết. Đó là một công trạng lớn. Thường thì những huấn luyện viên khác chẳng muốn đối mặt với những tình huống kiểu đó.”
Klopp có một mẹo thú vị để hòa hợp với các cổ động viên, đó là sử dụng ngôn ngữ của chính họ, Dickel tiết lộ. “Chúng tôi thấy có nhiều huấn luyện viên hay nói: ‘Trận này, lối chơi của chúng ta ở các tuyến, giữa hàng phòng ngự và hàng tiền vệ, và giữa hàng tiền vệ với hàng công, không thực sự hiệu quả.’ Hoặc: ‘Việc chuyển đổi trạng thái gần như không có.’ Ở Ruhr, không ai muốn nghe những điều đó. Jürgen quát: ‘Đá đấm như tào lao vậy, thua là phải.’ Ai cũng đồng tình với cách ấy.”
Truyền thông có vẻ không dễ nguôi ngoai bằng các cổ động viên. Khi Dortmund bị đội hạng Ba VfL Osnabrück đá bay khỏi Cúp Quốc gia Đức vào tháng 11, tờ tin nhanh Berliner Zeitung đã đặt dấu hỏi về năng lực của Klopp trong việc đưa Borussia tiến lên. “Đó là sự thụt lùi,” tờ báo khổ nhỏ viết. “Klopp thể hiện một cách ấn tượng ở FSV Mainz rằng anh ta có thể biến một đội bóng nhỏ trở thành lớn hơn. Chưa rõ việc anh ta có thể biến một đội không-quá-lớn thành lớn trở lại hay không. Nhưng mùa giải này đã có thể coi là thất bại theo cách đó.”
Huấn luyện viên của Dortmund thừa nhận chính ông cũng thất vọng về sự thay đổi đột ngột này trong nhận thức. “Ngày nay mọi thứ đều có thể là khủng hoảng, năng lực của con người ta bị nghi ngờ quá đỗi mau lẹ,” và hứa hẹn sẽ cải tổ. “Chúng tôi sẽ tự kéo mình ra khỏi khủng hoảng, tôi khá chắc điều đó.” Watzke giữ vững quan điểm rằng câu lạc bộ “chẳng nghi ngờ gì về việc cậu ấy sẽ thành công. Không một chút nào.”
Khả năng của Klopp trong việc giữ cho tâm trạng lạc quan là điều mang tính sống còn vào thời điểm đó, theo lời Bender. Một vài huấn luyện viên thường trút giận lên các cầu thủ của họ hoặc mất niềm tin vào những nguyên tắc chơi bóng do chính họ đặt ra. Klopp không như vậy. “Bình thường, ông ấy sẽ góp ý thẳng thắn nếu ai đó di chuyển không đúng hướng hoặc dừng lại sai thời điểm,” Bender cho hay. “Nhưng ông ấy không bao giờ khiến một cầu thủ cảm thấy họ là đồ bỏ đi, rằng họ đã tự ném đi cơ hội. Ngược lại, ông ấy luôn đảm bảo rằng cầu thủ đó sẽ nhận được cơ hội khác nếu họ muốn. Bạn cần cho ông ấy thấy rằng mình vẫn đang ở đó, sẵn sàng nhấn lên chân ga.”
Thuyền trưởng của BVB, như các cầu thủ, coi mỗi trận đấu là một cơ hội mới để chuẩn chỉnh mọi việc. Chuỗi trận nghèo nàn của Dortmund vào mùa thu năm 2009, theo anh cảm nhận, tỏ ra tệ hại nhưng lại là tác dụng phụ khó tránh của một đội bóng rất trẻ đang thích nghi với một hệ thống cần thái độ cam kết hết mình và khả năng thực thi tỉ mỉ để phát huy hiệu quả. Những khó khăn buổi ban đầu.
Lời giải đáp thật đơn giản: lao động nhiều hơn. “Chúng tôi tổ chức một chuyến tập huấn ngắn và bảo với các cầu thủ rằng họ sẽ có thêm ba ngày nghỉ trong dịp cuối năm nếu họ - cả đội - có thể di chuyển được hơn 118 km mỗi trận trong số mười trận đến lúc đó,” anh chia sẻ với tạp chí FourFourTwo nhiều năm sau này. Họ gần như không làm nổi, nhưng bất chấp điều đó, Klopp vẫn trao cho các cầu thủ thêm số ngày nghỉ. “Tôi làm điều đó bởi nỗ lực hơn thường lệ mà đội bóng thể hiện ngay tức khắc mang đến nhiều hơn sự năng nổ trên sân. Chúng tôi lập tức tỏ ra quyết đoán hơn, tạo ra sự vượt trội về quân số - mọi mặt mà bạn kết hợp cùng sự nỗ lực cao hơn.”
“Ông ấy sẽ đứng trên đường biên và la hét om sòm về việc chúng tôi cần phải đẩy cao đội hình,” Subotić nói. “Là một cầu thủ, đặc biệt với tư cách một hậu vệ, bạn thường nghĩ: ‘An toàn là trên hết, cứ ở nhà đã.’ Klopp đã phải tạo ra rất nhiều điều chỉnh trong các trận đấu ở những ngày đầu. Hệ thống này vẫn hoàn toàn mới mẻ với hầu hết các cầu thủ. Hoffenheim đã chơi theo cách đó, nhưng chỉ trong nửa đầu mùa 2008-09. Họ không thể duy trì nó. Với chúng tôi, đó là một tiến trình liên tục, và chúng tôi không thể coi bất kỳ đội bóng nào tại giải là hình mẫu cho những gì chúng tôi muốn thể hiện.”
Dortmund phải tự mình tạo ra tiền lệ. Với mỗi tuần trôi qua, một “đội bóng trẻ trâu” (theo Süddeutsche Zeitung), thường xuyên ra sân với độ tuổi trung bình ít hơn hai mươi ba, đã dần dần quen với “sự hoang dại” ở nhịp độ cao đi kèm với tính ổn định. Đến giữa tháng 12, họ đứng ở vị trí thứ năm. Những pha lập công của Lucas Barrios, tổng cộng mười chín bàn, giúp họ đeo bám các vị trí dự Champions League vào dịp năm mới, suốt cho đến trận đấu áp chót. Nhà vô địch năm 2009 VfL Wolfsburg, đội vừa mất ngôi vương vào tay Bayern của Louis van Gaal, là đối thủ của họ vào một ngày thi đấu kết thúc bằng những màn ăn mừng khiến cả cựu huấn luyện viên Mainz cũng phải lúng túng. “Tôi chưa bao giờ chứng kiến một màn cổ vũ tuyệt vời như thế trong đời,” anh thổ lộ, sau khi Bức tường vàng và phần còn lại của sân vận động chào đón đội bóng bằng những bài hát cổ động và những màn tung hô không ngừng. Nhìn sự hưng phấn đó, không thể tin rằng Dortmund chỉ có một trận hòa 1-1. Tỉ số này, kết hợp với chiến thắng 2-0 của Werder Bremen trên sân khách trước Schalke, dẫn đến việc họ không thể về đích trong nhóm ba đội đầu bảng và đủ điều kiện tham dự giải đấu cao nhất của các câu lạc bộ châu Âu. Nhưng các cổ động viên không quan tâm. Niềm hân hoan của họ bắt nguồn từ thất bại của gã hàng xóm Schalke - điều đảm bảo rằng The Royal Blues sẽ không thể, lạy trời, vô địch giải đấu - và một Dortmund đứng hạng năm lần đầu tiên có vé trực tiếp dự Europa League trong bảy năm qua. Đám đông cuồng nhiệt và thông thái nhất nước Đức đều nhận thức được rằng câu lạc bộ đã tiến xa như thế nào trong hai mùa giải đầu tiên dưới thời Klopp và than tiếc chuyện họ thiếu một vài điểm để tham dự Champions League. “Một bữa tiệc phô trương, đội bóng được tung hô như thể họ đã giành được chiến tích phi thường nhất,” tờ Frankfurter Allgemeine Zeitung thuật lại đầy hoài nghi.
Trước ngày làm việc đầu tiên của Klopp, Watzke và Zorc tặng anh một bức tượng tê giác có cánh như một vật cầu may. Là linh vật được thiết kế cho nhà hát giao hưởng mới được khai trương vào năm 2002, loài vật thần thoại này trở thành biểu tượng của thành phố, hiện thân của niềm kiêu hãnh bất khuất và những khát vọng. Vào tháng 5, các cổ động viên trên sân Signal Iduna Park tự cho phép mình tin rằng con quái vật tưởng tượng kia thực ra có thể… bay được? Chú tê giác BVB gõ móng xuống nền sân, chuẩn bị cho màn cất cánh.