L
orne Hampstead, thám tử tư được David Cabot giới thiệu, có mặt ở văn phòng Sophie giữa lúc cô đang loay hoay dán bìa che khung cửa sổ.
“Ai đó đã ném gạch vào văn phòng tôi tối qua. Cẩn thận dưới chân anh đấy.” Cô chỉ vào những mảnh kính vương vãi trên sàn. “Anh là ai?”
“Lorne Hampstead.”
“Anh xuất hiện nhanh thật.”
Anh giữ miếng bìa trong khi Sophie dán băng dính. “Cô biết ai làm việc này không?”
“Hẳn là một trong số những người hâm mộ tôi.” Cô kể với anh cả thị trấn đã giận dữ ra sao khi cô đứng ra bào chữa cho Donny Crider.“ Riêng trong sáng nay, tôi đã nhận đến bảy mươi mốt email.” Cô vẽ vào không khí. “Mày là một con khốn chết tiệt và nếu có ai đó bắn nát mặt mày, tao sẽ rất vui khi được nhảy múa trên nấm mồ này.”
“Hắn sẽ tiếp tục nhảy múa cho đến khi hắn cần đến cô.” “Cho đến khi ả cần đến tôi. Mấy câu có vần điệu đó được chuyển cho tôi trong một bì thư hồng. Chữ viết hết sức bay bướm.” Cô ngồi xuống ghế làm việc, tay vò mái tóc sẫm màu. “Tôi đang không ở trong tình trạng tốt nhất.”
“David nói rằng cô cần một thám tử tư, chứ không phải một vệ sĩ.”
Hamp thấy cô sững lại, anh đoán là mình đã xúc phạm cô khi ngụ ý một cách vô tình rằng cô không đủ khả năng tự chăm sóc bản thân. Cho đến giờ, anh có thể khẳng định cô là người phụ nữ hết sức kiêu ngạo, sẵn sàng tự vấp ngã còn hơn cầu xin sự giúp đỡ. Nhưng có vẻ như nói bất kì điều gì lúc này cũng đều không đúng, nên anh im lặng.
Cô đưa anh một xấp giấy. “Tôi đã chuẩn bị cho anh trong mấy ngày cuối tuần. Đây là bảng tổng hợp các sự kiện. Đọc nó và anh sẽ nắm được mọi thông tin tôi có về vụ này, để anh có thể thấy mọi thứ không quá sức tệ hại.”
David Cabot đã nói với Hamp rằng Sophie là thực tập sinh xuất sắc nhất ông từng hướng dẫn, cứng rắn, hiểu biết về pháp luật, trung thực và nhạy cảm. “Cô bé luôn quan tâm đến mọi người,” Cabot nói qua điện thoại. “Khách hàng là quan trọng.” Nếu không nhận được lời giới thiệu đó, Hamp cũng sẽ làm công việc này. Anh đã ở Ventura đủ lâu.
Cho đến bây giờ, anh đã đi dọc các bờ biển từ Bắc đến Nam cả chục lần, nói chuyện với dân lướt ván, uống bia với họ, kể chuyện xưa với những tay kì cựu tóc bạc về những ngày quá khứ tươi đẹp xa xôi. Bất cứ nơi đâu anh đến, anh đều khoe ra một bức ảnh của Bronwyn đang đứng bên một tấm ván trượt dài ở Hawaii trong mùa hè cô bé biến mất. Cô mới mười bảy tuổi và đẹp rạng rỡ. Anh đã tìm kiếm từng khuôn mặt, nhưng trong suốt hai năm qua, manh mối duy nhất anh có là kí ức không chắc chắn của mấy cậu trai khẳng định họ đã gọi cô là Brown và đứng xếp hàng cùng cô tại Malibu một vài lần. Thời gian qua đi, anh không ngừng tìm kiếm nơi này với hi vọng sẽ tìm thấy một manh mối quan trọng, nhưng đều thất bại. Vào buổi đêm khi không thể ngủ được, anh thường tự hỏi liệu có phải con gái anh đã tìm thấy điểm tận cùng của thế giới và trượt ván ra khỏi đó.
Khi anh đọc tập manh mối, anh có thể cảm nhận được Sophie đang quan sát mình. Anh biết rõ cô đang nghĩ gì.
Anh là một mẫu đàn ông điển hình ở thị trấn bên bờ biển phía Nam California. Dân lướt ván gọi anh là Gray, anh đã dành vô số giờ dưới ánh nắng mặt trời và nước biển. Hamp để tóc dài, buộc túm lại phía sau bằng một sợi da. Mắt anh khi nheo lại chỉ như một đường kẻ nhỏ màu xanh sáng, còn ánh nắng mặt trời đã nhuộm da anh rám bóng màu đồng, điểm xuyết những vết tàn nhang như những hình xăm trên thân. Vết sẹo trắng, dày kéo dài từ khuỷu đến cổ tay phải, một nửa dái tai đã biến mất. Nhưng vết thương tồi tệ nhất lại không thể nhìn thấy được: anh bị chấn động não do lặn xuống đáy đại dương quá nhiều và do va chạm với những tảng đá.
Anh đã từng tràn đầy nhiệt huyết, luôn thách thức những con sóng muốn nuốt chửng lấy mình. Còn bây giờ, anh chỉ như một cái bóng, nhưng như vậy xem chừng hợp với công việc của anh hơn. Những người anh cho xem ảnh con gái không thể nhớ ra anh là ai. Anh và những câu trao đổi ngắn ngủi sẽ nhanh chóng rời khỏi trí nhớ của họ. Điều đó rất tốt, bởi anh không muốn Bronwyn biết bố mình đã cày nát bờ biển từ Baja đến Bắc California.
Anh ngước lên khi đang đọc. “Hơi ít dữ kiện xác thực. Nhưng lại nhiều các suy đoán.”
“Anh nên biết thêm về khía cạnh đó của tôi, Lorne.” “Hamp. Tôi không thích cô gọi tôi như vậy.”
“Tôi tin vào suy đoán của mình.”
“David cũng nói với tôi như thế.” Ở Ventura, anh vẫn đang điều tra khoản phí bảo hiểm cho các tổn thương cá nhân của một công ty luật. Công việc đã bị ngưng lại chỉ sau tuần đầu tiên. “Tôi rất mừng vì nhận công việc mới này.”
“Có một số chi tiết đang diễn ra trong vụ án này mà nhiều người bỏ qua. Tôi không rõ đó là gì, nhưng nếu anh muốn giúp đỡ, anh buộc phải nhìn nhận những dự đoán và cảm xúc của tôi một cách nghiêm túc giống như tôi. Nếu anh không thể, tốt nhất chúng ta nên tìm hiểu lại từ bây giờ. Điều đó sẽ tiết kiệm thời gian cho cả hai.” Cô đếm ngón tay mình. “Tôi có một vụ nổ súng không động cơ, một kẻ tình nghi hiếm khi mở lời và mẹ của cậu ta là một kẻ khốn nạn. Đó là tất cả những điều tôi biết chắc chắn.”
Cô là một luật sư gai góc, nhưng cố gắng không để lộ điều đó ra ngoài.
“David khen cô là một luật sư giỏi.”
Cô cười nửa miệng, giơ hai tay lên. “Tôi là một thực tập sinh giỏi và tôi đã thắng nhiều vụ khi làm công tố viên, nhưng với vai trò một luật sư biện hộ ư? Đó là một câu chuyện khác.” “Tôi đã làm một số điều tra nho nhỏ về cô, tìm hiểu về một vụ án khác. Tên cậu ta là gì nhỉ, cái tên hơi giống tên áo khoác len?”
“Will Cardigan*”
* Cardigan là tên một kiểu áo khoác ngoài, mỏng dùng để mặc vào mùa thu.
“Chính xác. Tên kiểu gì mà lạ lùng thế nhỉ?”
“Tôi không biết. Có lẽ là người Anh? Tôi chưa từng nghe thấy trước kia.”
“Vậy, hẳn cô nghĩ đâu đó sẽ có đứa nhóc tên là Will Pullover* hả?”
* Pullover là một loại áo len chùm đầu khác.
Anh đang cố tìm hiểu xem cô có khiếu hài hước không. Ít nhất cô đã mỉm cười.
“Cô đã lôi cậu bé ra khỏi vụ đó bằng cách yêu cầu cậu ta bán đứng bạn bè mình cho cảnh sát. Hẳn là chúng sẽ rất tức giận với cậu bé. Và cô.”
“Will chuyển về sống cùng mẹ ở một nơi xa tầm mắt của đám Bleeker. Tôi nghĩ rằng chúng còn không biết Massachusetts ở đâu trên bản đồ.”
“Nhưng chúng có thể tìm thấy cô?”
“Chúng là nhóm du côn ở phía Đông thành phố. Hứng thú với thuốc phiện và trộm cắp ô tô hơn là với tôi.”
Hamp tự hỏi đó là cô đang tỏ vẻ mạnh mẽ hay cô thực sự tin như vậy. “Cô cũng gan đấy, Sophie, nhận vụ đó và bây giờ là vụ này.”
Má cô ửng hồng.
“Cô muốn tôi bắt đầu từ đâu?”
“Có một văn phòng nhỏ phía ngoài,” cô nói. “Thực ra nó giống một phòng thay đồ khép kín hơn. Tôi đã đặt bàn làm việc ở đó vào cuối tuần. Anh toàn quyền sử dụng nó.”
“Hành lí của tôi chẳng có gì đâu.”
Hành trang của anh gồm những vật dụng thiết yếu với tất cả mọi người - vài món đồ trang trí và đồ kỉ niệm, một chảo trứng ốp-la vừa chín tới, một album ảnh - những thứ đó luôn là vướng mắc trong tâm trí Hamp, tựa như lớp rong biển níu chân anh xuống. Kể từ khi con gái mất tích, anh đã cất hầu hết đồ đạc của mình ở một căn phòng tại San Diego và sống chủ yếu trong các nhà nghỉ hay nương nhờ bạn bè. Khi tìm kiếm Bronwyn, anh buộc phải di chuyển nhanh.
“Bây giờ thì vụ này giống như một chuyến đi câu nhỉ? Anh có thể bắt đầu bằng việc tìm hiểu về cha của Donny. Brad Crider. Chuyện xảy ra đã lâu rồi, nhưng tôi muốn biết nguyên nhân vụ li dị. Ông ta là người như thế nào? Ông ta không phải là kẻ bỏ đi, tôi chỉ biết đến thế.” Cô đưa anh một xấp giấy khác. “Tôi tìm được chúng trên mạng Internet. Ông ta sở hữu nhiều tòa nhà văn phòng. Tôi muốn biết vì sao ông không bao giờ đến thăm con mình? Có vẻ ông ta khá giàu, nhưng đã
không bỏ một xu nào để nuôi thằng bé?” “Bà ấy đưa ông ta ra tòa à?”
Sophie lắc đầu.
“Và chuyện đó thì liên quan gì đến vụ nổ súng chứ?” “Ai mà biết được? Có thể là không gì cả, nhưng anh cứ thả lưỡi câu xuống mặt nước và chờ đợi một cú giật. Chẳng phải đó là cách ta đi câu cá sao?”
Anh đọc lại lần nữa đoạn viết về Elena Crider. “Cô ta lấy đâu ra con số 25.000 vậy? Từ chồng cũ à?”
“Có thể, nhưng làm sao bà ta có thể bắt chồng mình trả nhiều tiền đến vậy khi ông ta đã không gửi một xu cho con trai mình trong suốt mười lăm năm? Và tại sao bà ta không thèm trả lời tôi về nguồn gốc số tiền chứ? Tôi đã hỏi và bà ta nói...”- Sophie trích lại lời Elena - “Tôi có một vài nguồn trợ giúp.”
“Thế còn tay này…” Hamp kiểm tra lại cuốn sổ ghi chép lần nữa. “Roman Devane?”
“Donny nói rằng cậu đã ăn trộm súng của anh ta, nhưng những điều ít ỏi cậu bé chia sẻ không thuyết phục tôi chút nào.”
“Đã tìm thấy khẩu súng chưa?” “Vẫn chưa.”
“Tôi không phải luật sư, Sophie, nhưng tôi đã làm nghề này một thời gian, tôi làm việc chung với nhiều luật sư xuất sắc và tệ hại. Giả dụ chúng ta tìm được cả đống thông tin về Donny và quá khứ cũng như gia đình của cậu...”
“Tôi vẫn chưa biết mình sẽ làm gì với chúng.” Cô đứng lên và bước về phía cửa sổ còn chưa được che bìa. Nhìn từ phía sau, tấm lưng thẳng và bờ vai vững chãi toát lên tính kiên định của cô, điều mà Hamp rất thích.
“Có lẽ chính quyền sẽ giúp ích cô nhiều.”
“Có thể, nhưng không chắc chắn đâu. Tôi từng kết hôn với một công tố viên. Ben muốn thăng chức, anh ta tin rằng mình có thể làm được việc đó bằng cách lên trang nhất các báo nhờ vụ này.” Cô nhìn Hamp. “Không có một cách chết tiệt nào để tôi kéo Donny ra khỏi vụ này. Vấn đề không phải là không có bằng chứng, mà vấn đề nằm ở thị trấn này.”
“Hãy lùi ngày xử lại.”
“Không đáng công đấu tranh. Chứng cứ chống lại cậu bé quá nhiều. Nhưng tôi sẽ không để cậu bé mục nát trong trại giam cho đến tuổi trung niên đâu. Tôi không thể làm vậy.”
Cô quyến rũ, quyết liệt và đầy tự tin khi nói về vụ án không thể thắng này. Luật pháp và công lý vô cùng quan trọng đối với cô, thậm chí còn vượt xa những gì cô biết hay có thể diễn đạt và quyết tâm của cô vô cùng thuần khiết. Cô vẫn còn trẻ, chưa bị vùi dập bởi thực tại, vẫn còn hi vọng - hay tin tưởng - rằng cô có đủ khả năng như Perry Mason*. Anh rất thích điều đó, nhưng nó cũng làm anh thấy buồn.
* Một luật sư biện hộ hư cấu - nhân vật chính trong các tiểu thuyết trinh thám của nhà văn Erle Stanley Gardner.
“Tôi sắp có một trợ thủ hết sức xuất sắc đến đây. Alexander Itkin. Anh ta đã phỏng vấn Donny, làm cả đống kiểm tra. Anh ta sẽ có phần trong số 25.000 đó, nhưng tôi cần hiểu sâu sắc hơn về Donny.”“Cô muốn tôi bắt đầu từ đâu?” Anh hỏi.
“Người cha.”
Hamp đứng dậy, chuẩn bị lên đường.
“Đợi một phút đã.” Sophie ra hiệu cho anh ngồi xuống. Mái tóc sẫm màu và đôi mắt quả quyết của cô làm Hamp bình tĩnh lại một chút.“ Câu chuyện của anh là gì?” Cô liếc nhìn đồng hồ. “Anh có năm phút.”
“Sinh ra và lớn lên ở San Diego. Cách bờ biển Đại dương hai khu nhà.”
Vào ngày sinh nhật sáu tuổi, anh được bố tặng cho một tấm ván trượt. Bãi biển và những con sóng là tất cả đam mê của Hamp. Năm tám tuổi, anh đã có thể cưỡi trên tấm ván lướt sóng đầu tiên, đứng thẳng trong hai giây trên hai đầu gối tê rần. Kể từ ngày đó, anh dần dần trở thành một tay lướt sóng thực thụ. Trong những năm tiếp theo, anh đã trượt ngã cả ngàn lần nhưng không bỏ cuộc, điều này khiến những tay lướt ván lão luyện thích anh. Họ dạy anh những nghi thức lướt ván cũng như kĩ năng chuyên nghiệp. Họ cười phá lên khi anh ngã nhào.
Vào tuổi mười tám, anh thi vào Đại học để làm bố mẹ vui lòng và sau khi tốt nghiệp với tấm bằng cử nhân chuyên ngành Tội phạm học, anh được đào tạo tại Học viện cảnh sát. Anh mong muốn trở thành cảnh sát ở San Diego. Công việc tốt đẹp còn thời tiết thì tuyệt vời. Anh kết hôn và hai tháng sau có con gái, Bronwyn. Sáu tháng sau đó, anh lại sống một mình ở bờ biển Đại Dương.
“Con gái anh giờ ở đâu rồi?” “Orgeon.”
Những lời nói dối làm cuộc sống trở nên phức tạp và xáo trộn trí óc nên Hamp đặt ra những quy tắc nhất định cho việc này. Có hai ngoại lệ được phép nói dối: thứ nhất, là một thám tử, anh nói dối trong công việc, thứ hai, anh không bao giờ kể sự thật về Bronwyn.
“Đang đi học.”
Sophie không để lộ ra rằng cô không tin anh, nhưng thái độ kiên quyết của cô làm anh khó chịu ra mặt. Như thể cô nhìn được sự thực ẩn sâu trong tâm trí anh, rằng con gái anh đã mất tích hai năm rồi.