H
amp kẹp bức ảnh chụp Bronwyn trên tấm chắn nắng của chiếc xe Jeep Cherokee 1995. Khi nhìn vào đó, anh sẽ bắt gặp một cô bé tóc nâu với xương gò má di truyền từ mẹ đang đứng cạnh tấm ván dài hiệu O’Neil của anh. Vào thời điểm ấy, đó là vật quý giá nhất mà anh sở hữu. Cô bé mới mười lăm tuổi.
Con thích cảm giác sợ hãi, bố ạ.
Anh không thể nhớ nổi cô bé bao tuổi khi nói với anh những câu đó. Có lẽ tầm bảy hay tám, một tay lướt ván tí hon cứng đầu trong bộ áo tắm xanh, không chịu bôi kem chống nắng nhưng không bao giờ bắt nắng, kể cả vào những ngày tháng Tám trên bãi biển.
Tại bến tàu Cayucos, Hamp ngả lưng trên mặt sàn gỗ. Dưới cánh tay anh, mặt gỗ cũ kĩ sần sùi vì ẩm và dính muối nhớp nháp. Khi nước biển dâng lên và hạ xuống, bến tàu khẽ rùng mình nhè nhẹ dưới chân anh. Anh hướng ống nhòm về phía những tay lướt sóng đang đứng ôm ván trượt, xếp hàng chờ đợi đợt sóng. Thỉnh thoảng, anh nghe thấy họ gọi tên nhau khi cố tranh lấy vị trí đứng trên. Gió thổi từ phía Đông và các cơn sóng cao ngang vai tràn tới, khá lí tưởng để lướt sóng. Đã từng có thời gian, Hamp dành cả ngày bồng bềnh, thong dong, cưỡi những con sóng sảng khoái như thế này. Anh nhớ những ngày đó, nhưng anh không muốn lại rơi vào kỷ niệm.
Phía trên cao, những đám mây đang chồng chất lên nhau cho đến khi trời đổi gió. Anh đoán những đám mây này sẽ mang bão đến vùng Duyên hải, một hiện tượng hiếm gặp khi anh còn là một cậu bé. Những ngày đó, ông nội của anh có cả chục mẫu cây ăn quả trên những ngọn núi ở Modesto. Ông và bạn bè anh gọi những trận bão tháng tư là “mưa cherry.” Chúng đến khi những vụ mùa đã sẵn sàng thu hoạch. Một cơn bão mạnh sẽ làm hỏng công lao cả năm.
Anh chỉnh lại tiêu cự ống nhòm cho đến khi nhìn rõ từng người lướt sóng một. Ngày qua ngày, giờ qua giờ, tâm trạng anh giằng co giữa nhiều thái cực. Hôm nay chính là ngày đó và hãy bỏ cuộc đi, con bé đã ở một thế giới khác rất xa rồi. Khi những tay lướt ván mặc bộ đồ bơi ướt sũng, anh không thể nhìn rõ được đó là nam hay nữ cho đến khi họ quýnh quáng ngã nhào. Đó là khi anh nhớ đến những bước di chuyển gọn ghẽ, nhanh nhẹn của Bronwyn. Cô bé không cần phải thử nghiệm. Khi gặp đúng thời điểm và những con sóng đến đúng lúc, trong một khoảnh khắc mong manh, cô sẽ nhảy lên, một cách chắn chắn và tuyệt đẹp. Những cậu con trai sẽ chú ý. Một vài người không thích ý tưởng cô sẽ đợi con sóng phù hợp đến, và ngược lại con sóng phù hợp sẽ tìm đến cô. Lướt ván hết sức quyến rũ và một cô gái phải luôn chứng tỏ mình mỗi khi cầm ván đứng trong hàng. Một người tự nhiên như Bronwyn là mối đe dọa với nhiều tay lướt ván khác. Họ luôn phá bỏ các quy tắc và chinh phục các con sóng của mình. Khi cô học cách sử dụng ván ngắn và ngã dúi dụi liên tục, cả lũ đều trêu chọc cô, nhưng cô đón nhận tất cả với một sự lì lợm đến khó chịu. Chẳng ai thích điều đó. Sự mạnh mẽ của cô làm Hamp lo lắng. Anh luôn muốn cô hiểu rõ dù một nhóm người có vui vẻ đến đâu khi trời còn sáng, dù những trò chêu trọc có vô hại đến đâu, bãi biển luôn trở nên nguy hiểm khi hoàng hôn buông xuống.
Vài tháng sau đó, xác một cô gái được tìm thấy ở Trestles. Theo mô tả trên báo - một cô gái tầm mười chín tuổi, là người châu Âu khỏe mạnh với mái tóc nâu - anh đã đi xuống đó để xem xác chết. Hamp đã từng là cảnh sát và đã nhìn thấy nhiều điều ghê sợ trong đời, nhưng khi viên cảnh sát mở ngăn tủ đựng xác, xả luồng khí lạnh ra ngoài, anh vẫn thấy không thoải mái khi nhìn vào cái xác. Cô gái có một hình xăm trái tim nhỏ trên cổ ngay dưới mang tai. Bronwyn nghĩ rằng xăm mình thật gớm ghiếc.
Sau đó, viên cảnh sát trực nói rằng Jane Doe đã bị cưỡng hiếp và siết cổ đến chết. Hamp đã không thể lái xe trong gần mười lăm phút sau. Anh tự nói với bản thân dù câu chuyện của Jane Doe có tồi tệ đến mức nào, cô gái đó cũng chỉ mang giá trị tham khảo. Anh cố không để bản thân nghĩ tới việc đó là con gái một người nào khác.
Kí ức ngọt ngào của anh về Bronwyn không liên quan đến nước. Anh thích nhớ về cô bé vào những dịp cuối tuần, khi anh đèo con đến UC Santa Cruz và đưa cô vào khu kí túc. Suốt thời gian đi dọc con đường 10, cô luôn tự vấn bản thân và đặt ra những câu hỏi mà anh cũng không thể trả lời được. “Nếu con không vào được đội thì sao? Phải làm gì nếu bạn cùng phòng không thích con? Và nếu con cũng không thích cô ta thì sao? Nếu như con không thể tìm được lớp học? Làm sao con có thể ra bãi biển được?”
“Con sẽ được vào đội và tham gia câu lạc bộ lướt ván. Con luôn có thể cưỡi trên những ngọn sóng.” Anh sẽ mua tặng con bé một chiếc xe hơi nếu cô nằm trong danh sách khen thưởng của thầy hiệu trưởng. Có thể là một chiếc Element với rất nhiều chỗ trống để chứa đồ. “Con là một học sinh xuất sắc, Bronwyn. Nhưng con cần phải học. Nơi này không giống như trường Phổ thông.”
“Nếu họ không thích con thì sao?” “Tại sao họ lại không thích con?”
Cả hai đều biết rõ câu trả lời. Bronwyn là người luôn thích nói thẳng suy nghĩ của mình, không chịu được những kẻ ngốc và sẽ không bao giờ giành được giải Hoa hậu thân thiện. Sự phản kháng và quyết liệt của con bé giống hệt Sophie.
“Chắc chắn con sẽ được nhận vào đội. Con chỉ cần nghe theo lời huấn luyện viên thôi, OK? Hãy giữ vững phong độ như hiện tại, con luôn có thể học hỏi được nhiều hơn.” Cả hai đã nói về chủ đề này nhiều lần từ khi cô nhận được thư chấp thuận của trường.
Cả Hamp và vợ cũ của mình, Terri, đều muốn con gái sẽ sống ở San Diego để họ có thể để mắt đến cô. Cô không phải một đứa trẻ hư hay thích phá phách, nhưng cô khá đồng bóng và đôi khi cô thường mặc kệ linh cảm tốt của mình. San Diego quá tẻ nhạt và cô luôn tìm mọi cách để có thể thoát khỏi nơi này. Swami’s, Windansea, Seaside: cô đã lướt sóng ở những nơi này cả đời rồi. Tại Santa Cruz, cô có thể chứng tỏ bản thân trên những con sóng ở Natural Bridges và bãi biển huyền thoại Steamer’s.
Bronwyn ở Santa Cruz chừng hai tháng rưỡi cho đến khi cô không còn xuất hiện ở trường nữa. Không có một email, tin nhắn hay cuộc gọi nào về nhà. Khi huấn luyện viên gọi điện đến thông báo cô đã ngừng lướt sóng với câu lạc bộ, Hamp ngay lập tức bay xuống phía Bắc và trú luôn tại khu kí túc, nói chuyện với các thầy giáo, bạn cùng phòng, những người bạn khác và những tay lướt sóng. Hamp và huấn luyện viên của cô đã đi bộ dọc bờ biển và hỏi thăm tất cả những ai cầm ván trượt hay quần áo ướt.
Anh quay lại San Diego mà không thu được gì.
Có một thời điểm, cảnh sát đã nói với anh. “Anh phải chờ đợi thôi. Bây giờ không còn gì khác cả.”
Mẹ của Bronwyn sống trong một căn nhà lớn ở Rancho Santa Fe, cách năm dặm đến bãi biển gần nhất. Terri và Mel, một thợ sửa ống nước giàu có, đã kết hôn được mười hai năm và có ba cậu nhóc chưa tới mười tuổi. Chúng thích chơi bóng chày và bóng đá. Terri luôn để ý không cho chúng đến gần nước. Đó có lẽ là một môi trường tốt hơn dù hơi tiêu cực để Bronwyn lớn lên. Một nơi ổn định.
Kể từ ngày Bronwyn mất tích, Terri đã nhắn tin và gọi Hamp hàng ngày, để lại những lời giận dữ và trách móc điên khùng trên máy trả lời tự động của anh. Cô không bao giờ gọi tên Bronwyn, mà luôn gọi là con của em hay con gái bé nhỏ của em.
Cách đây hai năm, anh đã đứng trong phòng khách nhà Terri - thậm chí không bỏ áo khoác ngoài - và nói rằng anh sẽ nghỉ việc và đi lang thang.
“Em sẽ không gặp anh cho đến khi anh tìm được con.” “Tôi không muốn nhìn thấy anh. Tôi chỉ muốn gặp con gái bé nhỏ của mình.”
Mel và mấy đứa nhỏ đứng bên ngoài, biết rằng tốt hơn không nên xen vào cuộc nói chuyện này.
“Anh đã làm việc đó với con.” Terri rít lên the thé. Kể cả khi cô nói nhỏ, anh cũng có thể nghe thấy tiếng la hét ẩn chứa trong đó. “Nếu nó chết, đó hoàn toàn là do anh đã giết chết con tôi.”
Đứa nhỏ nhất bắt đầu khóc, Mel phải dỗ nó nín.
Hamp muốn rời khỏi ngôi nhà nhưng anh không thể. Những điều Terri nói không đúng cũng chẳng sai. Sự khuyến khích của anh không thay đổi được số mệnh của Bronwyn, mà chỉ là động lực đẩy mọi thứ đi quá xa. Cô bé sinh ra để lướt sóng, bay lượn trên những ngọn sóng như một chú cá chim. Nếu Terri chịu lắng nghe, nếu những lời anh nói có thể xoa dịu nỗi đau trong cô, thì anh sẽ nói rằng dù Bronwyn sống ở Denver hay Fargo, sớm muộn cô bé cũng sẽ tìm đến những con sóng.
Anh biết Terri đang hoảng loạn - anh cũng vậy. Hoảng sợ có thể khiến con người ta trở nên tàn nhẫn. Cô hành hạ anh bởi anh ở đó, một vật thế thân cho Chúa, may mắn hay số phận. Hoặc có thể là cả ba. Anh để mặc cô nói những điều cô muốn nói.
“Lướt ván gây nghiện và anh đã cố dụ dỗ chính con gái ruột của mình. Chính anh đã đâm kim lên tay nó.”
Đôi tay cô nắm lại, hai vai gồng lên và trong giây lát Hamp đã nghĩ cô sẽ đấm anh. Rồi bất ngờ, sự căng cứng tuột khỏi người cô, đầu gối cô gục xuống và cô rũ ra như một bông hoa úa. Hamp đỡ và giữ cô lại. Họ đứng đó, hai tay ôm lấy nhau trong khi Mel và ba đứa nhỏ đang nhìn vào.
Lướt ván là một môn thể thao nguy hiểm. Hamp hiểu rõ điều đó hơn ai hết. Mặt trời khiến bạn ung thư da. Cơ thể bị cứa bởi những rặng san hô và đá tảng. Có cá mập dưới nước và những con sứa đốt đau điếng. Đôi khi bạn lạc vào một hố cát mà ai đó coi là của mình và những điều tồi tệ sẽ xảy ra. Những con sóng, ván trượt và đá tảng va đập vào nhau, khiến cơ thể mệt lử, gãy xương sườn, cổ và thậm chí vỡ đầu. Hamp đã bị choáng váng ít nhất sáu lần, đó là con số anh nhớ chắc chắn. Sau lần lướt ván cuối cùng, một con sóng đã hất đầu anh đập vào một tảng đá, bác sĩ đã yêu cầu anh không được lướt sóng nữa. Não anh đã hứng chịu mọi tổn thương trong giới hạn của mình. Không có cách nào để xác định liệu nó đã chịu đựng đủ nhiều hay chưa. Nếu thực sự như vậy, Hamp sẽ sớm biết. Anh mới bốn mươi tám tuổi, nhưng có thể thời gian sống của anh sắp hết rồi.
Trên bờ biển, anh có tiếng tăm riêng. Anh là một người cha điên khùng, một tay lướt sóng già cả buồn bã. Những đứa trẻ cười sau lưng anh. Hamp không buồn để ý. Anh không có thời gian quan tâm những gì người khác nghĩ về mình. Anh phải tìm được Bronwyn trước khi anh quên mất mình đang tìm kiếm điều gì.